24 tháng 4, 2015

Mặt trận Long Khánh-Xuân Lộc -1975


Võ Trung Tín & Nguyễn Hữu Viên
*Lực lượng địch:
Gồm Quân đoàn 4 CSBV và các đơn vị tăng cường, yểm trợ:
- SÐ 6 CSBV gồm 3 Trung đoàn 33, 274, 612.
- SÐ 7 CSBV gồm 3 Trung đoàn 141, 165 và 209.
- SÐ 341CSBV là SÐ mới thành lập sau ngày Hiệp Ðịnh Paris.
Thành phần tăng cường:
- SÐ 325 CSBV gồm các Trung Ðoàn 18, 95 và 101.
- Công trường 3 CSBV
- 3 tiểu đoàn đặc công.
Thành phần yểm trợ:
- 1 sư đoàn pháo binh
- 2 trung đoàn thiết giáp
- Liên đoàn 75 pháo yểm tầm xa và các đơn vị phòng không, công binh,...
*Lực lượng bạn:
- SÐ18BB với các Trung Ðoàn 43, Trung Ðoàn 48 và Trung Ðoàn 52.
- Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Ðỉnh chỉ huy gồm 3 tiểu đoàn...
TÐ1ND, TÐT là Thiếu Tá Ngô Tùng Châu. TÐ8ND, TÐT là Thiếu Tá Nguyễn Viết Thanh. TÐ9ND, TÐT là Trung Tá Nguyễn Văn Nhỏ, TÐ3PB/ND, ÐÐ1TS.
- TÐ 82 BÐQ,TÐT là Thiếu Tá Vương Mộng Long
- SÐ3 Không Quân đóng tại Biên Hòa.
- SÐ 4 KQ đóng tại Cần Thơ.
- Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh.
- 2 tiểu đoàn pháo binh 155 ly và 175 ly.
- Các đơn vị ÐPQ/ Tiểu Khu Long Khánh.
Xuân Lộc là tỉnh lỵ của tỉnh Long Khánh được TT Diệm thành lập từ năm 1957, cách Saigon khoảng 80 km, mục đích định cư đồng bào Bắc Việt di cư năm 1954 sau Hiệp Ðịnh Genève. Tỉnh có diện tích vào khoảng 3,457 km2, đất đai phần lớn là núi thấp, đồi cao, rừng thưa và đồn điền cao su - trong thời kháng chiến chống Pháp là một vị trí chiến lược quan trọng vì là ngã ba của 2 quốc lộ 1 và 20, cửa ngõ từ miền Trung, miền cao nguyên vào Saigon - do đó Xuân Lộc được coi như vòng đai ngoài bảo vệ phi trường Biên Hòa và thủ đô Saigon. Xuân Lộc nằm trên đường giao liên giữa chiến khu C và D của VC với các mật khu Mây Tầm, Cù Mi, Xuyên Mộc, Ðất Ðỏ của tỉnh Phước Tuy, con đường mạch máu mà Bắc Việt dùng để nhận tiếp tế bổ sung quân và tiếp liệu bằng đường biển, vì vậy từ lâu Sư Ðoàn 18 BB đã được bố trí tại tỉnh này để ngăn chận.
Ðể tấn công Long Khánh, BV đã tung vào chiến trường này Quân Ðoàn 4 gồm 3 Sư Ðoàn CT.6, CT.7, 341 và các đơn vị có sẵn của Quân Khu 7. Thiếu Tướng CS Hoàng Cầm là tư lịnh, Chính ủy là Thiếu Tướng Hoàng Thế Thiện và 5 tướng cố vấn Nga túc trực bên cạnh Văn Tiến Dũng chỉ huy chiến dịch. Về sau còn được tăng cường thêm SÐ.325, CT.3, và Liên Ðoàn 75 Pháo yểm tầm xa.
Ðến đầu tháng 4, 1975, Cộng quân đã bắt đầu tấn chiếm các điểm trọng yếu trong tỉnh Long Khánh như Ðịnh Quán và Bình Khánh để cắt đứt QL20 nối liền Saigon và cao nguyên; cắt đứt QL1 nối liền Sài Gòn với các tỉnh duyên hải miền Trung. Do đó, vào thời điểm nầy Xuân Lộc trở thành khu vực phòng ngự trọng yếu của Sài Gòn và Quân Khu 3.
Ðể bảo vệ Xuân Lộc, QLVNCH có Sư Ðoàn 18 BB (các Trung Ðoàn 43, 48, 52), lực lượng ÐPQ & NQ tỉnh và các đơn vị tăng phái gồm Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh, Tiểu Ðoàn 82 BÐQ, 2 Tiểu Ðoàn Pháo Binh, và toàn bộ Lữ Ðoàn 1 Dù (với các Tiểu Ðoàn 1, 8, 9 và Tiểu Ðoàn 3 Pháo Binh Dù), Sư Ðoàn 4 Không Quân VN từ phi trường Cần Thơ, phụ trách không yểm chiến thuật. Các đơn vị phòng thủ được chia thành 3 chiến đoàn đặc nhiệm 43, 48 và 52 phối trí án ngữ quanh vòng đai thị xã Xuân Lộc.
*Chiến Ðoàn Ðặc Nhiệm 43 do Ðại Tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy gồm các đơn vị Trung Ðoàn 43, Tiểu Ðoàn 82 BÐQ, Thiết Ðoàn 5 (-) Kỵ Binh, các đơn vị Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân Long Khánh, nhiệm vụ phòng thủ thị xã Xuân Lộc.
*Chiến Ðoàn Ðặc Nhiệm 48 do Trung Tá Trần Minh Công chỉ huy gồm các đơn vị trực thuộc Trung Ðoàn 48 BB giữ nhiệm vụ bảo vệ an ninh dọc theo Quốc Lộ 1 từ Xuân Lộc đến Gia Rai.
*Chiến Ðoàn Ðặc Nhiệm 52 do Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy gồm toàn bộ Trung Ðoàn 52 BB và một Chi Ðoàn 3/5 Kỵ Binh nhiệm vụ án ngữ từ ngã ba Dầu Giây đến Kiệm Tân.
Tư lệnh mặt trận Long Khánh là Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo, tư lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, Ðại Tá Tư Lịnh Phó Lê Xuân Mai và Tỉnh Trưởng Long Khánh, Ðại Tá Phạm Văn Phúc BÐQ, mới về thay Trung Tá Lê Ánh Nguyệt hồi tháng 3, 1975.
Chiến trường Long Khánh gồm 3 mặt trận chính: mặt trận ngã ba Dầu Giây do Trung Ðoàn 52 BB và Chi Ðoàn 3/5 Kỵ Binh trấn giữ, mặt trận núi Chứa Chan, Gia Rai do Trung Ðoàn 48 BB và Thị xã Xuân Lộc do Trung Ðoàn 43 BB và các Tiểu Ðoàn ÐPQ bảo vệ. Bộ Tư Lịnh hành quân của Tướng Lê Minh Ðảo đặt tại quận đường Xuân Lộc ngã ba Tân Phong - Long Giao được bảo vệ bởi các đơn vị trừ bị của sư đoàn, pháo binh và một thiết đoàn chiến xa.
*Diễn tiến:
- 9 tháng 4, 1975, trận chiến Xuân Lộc bùng nổ:
Vào lúc 5 giờ 30 rạng sáng ngày 9 tháng 4, 1975, sau khi đã đặt các chướng ngại vật tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20, CS Bắc Việt đồng loạt pháo kích vào nhiều vị trí quanh tỉnh lỵ Xuân Lộc, đa số rớt vào chợ, nhà thờ và các nhà của dân chúng khiến cho người dân vô tội chết và bị thương như rạ, trận pháo kéo dài trong 2 tiếng đồng hồ với hơn 3,000 trái đạn.
Khoảng 1 giờ sau, Cộng quân tung Trung Ðoàn 266 thuộc Sư Ðoàn 341 chính quy Bắc Việt, và 1 tiểu đoàn chiến xa T54, 2 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn đặc công tấn công vào các vị trí phòng ngự của Chiến Ðoàn 43, tại ngã ba cua Heo, trung tâm tỉnh lỵ Long Khánh. Trận chiến xảy ra ngay tại nhà thờ chánh tòa và giữa chợ Xuân Lộc. Ðối phương sử dụng chiến thuật “bộ binh tùng thiết.” Các đơn vị phòng thủ đã phản công quyết liệt, Ðại Ðội Trinh Sát 43 đã đẩy lui Cộng quân tại ngã ba Cua Heo và giữ vững vị trí, TÐ.82 BÐQ cũng đã chận đứng mũi tấn công của Cộng quân bằng chiến xa và bộ binh tùng thiết tại phi trường L19 và Tòa hành chánh Tỉnh. Một vài nơi khác trong thành phố Cộng quân đã chọc thủng phòng tuyến của ta.
Ðể đẩy lùi địch quân ra khỏi thị xã, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 đã điều động thêm lực lượng đến tăng viện, trận chiến trở nên dữ dội hơn. Lực lượng tăng viện và trú phòng đã quyết chiến và đẩy lùi được các đợt tấn công của Cộng quân. Nhiều chiến xa T54 và PT76 bị hạ khắp nơi bởi các hỏa tiễn M72 và các phản lực cơ A37, F5 của không quân.
- 10 tháng 4, 1975, trận chiến Xuân Lộc ngày N+1:
Sau khi bị đẩy lùi khỏi trung tâm thị xã Xuân Lộc trong buổi chiều ngày 9 tháng 4, 1975, trận chiến tại mặt trận Long Khánh đã bước vào ngày thứ hai.
7 giờ sáng ngày 10 tháng 4, 1975, CQ lại mở đợt tấn công thứ hai với 2 Sư Ðoàn CT.6 & 7 CSBV và các Trung Ðoàn Chiến Xa... Khởi đầu là CQ pháo kích khoảng 1 ngàn quả đạn đủ loại vào thị xã Xuân Lộc, và các vị trí trọng điểm dọc theo các phòng tuyến vòng đai tỉnh lỵ, trận mưa pháo kéo dài trong vòng 1 giờ. Sau đó, các đơn vị bộ binh cấp Trung đoàn và thiết giáp của Cộng quân đã đồng loạt tấn công biển người vào thị xã từ hai hướng Ðông Bắc và Tây Bắc. Ðợt tấn công này của địch đã bị quân trú phòng chận đứng từ các ngã ba dẫn vào tỉnh lỵ.
Ðến 6 giờ chiều ngày 10 tháng 4, 1975, các chốt cầm cự của Cộng quân trong thị xã Xuân Lộc, nhà thờ Chánh Tòa đã hoàn toàn bị đẩy lui, 300 Cộng quân bỏ xác tại trận địa với trên 100 vũ khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại các khu vực kế cận thị xã, trận chiến vẫn kéo dài đến 10 giờ đêm mới tạm lắng.
- Kịch chiến tại ngã ba Dầu Giây
Tại ngã ba Dầu Giây, trận chiến đã xảy ra quyết liệt. Cộng quân áp dụng chiến thuật “xa luân chiến,” thay nhau liên tục mở các đợt tấn công vào hệ thống công sự phòng thủ của quân trú phòng.
Ðể triệt tiêu lối đánh của đối phương, các đơn vị trú phòng VNCH đợi Cộng quân đến gần mới khai hỏa đồng loạt, mỗi đợt tấn công có ít nhất một Trung đội Cộng quân đi đầu bị loại khỏi vòng chiến. Ðể yểm trợ cho các đơn vị phòng ngự, các pháo đội Pháo Binh VNCH đã bắn trực xạ chận đứng các đợt tấn công biển người của Cộng quân.
- 11 tháng 4, 1975 Xuân Lộc ngày N+2:
Sau hai ngày giao tranh 9 và 10 tháng 4, 1975, hơn 500 Cộng quân bỏ xác tại trận, 8 chiến xa T54 bị bắn cháy, lực lượng phòng ngự VNCH thu được gần 200 vũ khí đủ loại.
7 giờ sáng ngày 11 tháng 4, 1975, hai trung đoàn VC từ hướng Ðông Bắc và Tây Nam lại tấn công vào trung tâm thị xã, đây là đợt tấn công thứ ba. Quân trú phòng từ những công sự chiến đấu quanh các khu vực đã giao tranh quyết liệt với Cộng quân.
Tại ngã ba Dầu Giây, liên tục trong 3 ngày từ 9 đến 11 tháng 4, 1975, Việt Cộng đã tung 2 Trung đoàn có thiết giáp yểm trợ quyết chiếm khu vực này, để từ đây mở những cuộc tấn công lớn vào phòng tuyến của Trung Ðoàn 52 BB đang án ngữ hướng Tây Bắc của thị xã tỉnh lỵ. Tính từ 6 giờ sáng đến 18 giờ ngày 11 tháng 4, 1975, Cộng quân đã mở đến 6 đợt xung phong biển người vào các vị trí ở mặt trận Dầu Giây, và tất cả đều bị đẩy lùi.
- 12 tháng 4, 1975, CQ tung 4 sư đoàn vào mặt trận Long Khánh:
Trong ngày 12 tháng 4, 1975, trận chiến tại Long Khánh đã trở nên quyết liệt khi Cộng quân tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT.3 (công trường 3) vào mặt trận tại ngã ba Dầu Giây, 1 trung đoàn biệt lập và 1 trung đoàn thiết giáp thuộc khu miền Ðông tấn công vào trung tâm thị xã. Kịch chiến đã diễn ra tại nhiều phòng tuyến vòng đai tỉnh lỵ Xuân Lộc, như vậy tính đến ngày nầy, lực lượng Cộng quân tại mặt trận Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh) và khu vực phụ cận có 4 sư đoàn chính quy: 341, CT 6 và CT 7, thuộc Quân Ðoàn 4, và sư đoàn mới mang tên là CT3 với thêm lực lượng yểm trợ có 1 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp và khoảng 3 tiểu đoàn đặc công.
- 12 tháng 4, 1975 *Lữ Ðoàn 1 Dù nhảy vào mặt trận Xuân Lộc:
Trước áp lực nặng của CQ tại Xuân Lộc, để đối đầu với 4 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn pháo, 2 trung đoàn thiết giáp của CSBV, ngày 12 tháng 4, 1975, Bộ Tư lệnh Quân Ðoàn 3 tung lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến: Ðó là LÐ1ND.
Sau khi di chuyển từ Biên Hòa đến Trảng Bom với 3 tiểu đoàn 1, 8 & 9 ND và Tiểu Ðoàn 3 Pháo Binh Dù vừa từ miền Trung về. Tất cả khoảng 100 chiếc trực thăng bán phản lực HU1B của 2 SÐ 3 và 4 KQVN đã thả hơn 2,000 quân Dù từ Trảng Bom vào trân địa: hai Tiểu Ðoàn 8 & 9 Dù được trực thăng vận xuống ấp Bảo Bình, cách tỉnh lỵ Long Khánh 5km về hướng Nam, và cách Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 BB ba cây số về hướng Ðông. Các pháo đội Nhảy Dù cũng được các Chinook chuyển vận đến BTL hành quân đóng kế bên BTL/SÐ18BB.
- 13 tháng 4, 1975 *Lữ đoàn 1 Dù tái chiếm Bảo Ðịnh, tỉnh Long Khánh:
2 Tiểu Ðoàn Nhảy Dù được lệnh tái chiếm xã Bảo Ðịnh, cách ấp Bảo Bình 2 km về hướng Bắc. Xã này đã bị 2 Trung Ðoàn Cộng quân thuộc CT.7 CSBV chiếm giữ từ ngày 10 tháng 4, 1975 khi trận chiến Xuân Lộc mới bước vào ngày thứ hai.
Bảo Bình và Bảo Ðịnh cách chi khu Xuân Lộc khoảng 5 km về hướng Ðông Nam, là 2 ấp có đa số giáo dân Thiên Chúa giáo di cư từ ngoài Bắc vào năm 1954, tinh thần chống CS rất cao. Trong ấp có tổ chức “Dân Quân tự vệ” được trang bị đầy đủ vũ khí và đạn dược. Quốc kỳ VNCH vẫn tung bay phất phới mặc dù quân CSBV đã đóng chốt xung quanh gây trở ngại cho việc liên lạc và tiếp tế từ tỉnh lỵ.
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù được đổ xuống một khu vườn cao su, bên suối Gia Cốp, cách xã Bảo Ðịnh 1 km về phía Bắc để đánh đuổi một tiểu đoàn đặc công của Cộng quân đang chiếm giữ vườn cây của cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ, (thường gọi là Vườn Ông Tỵ) cựu tổng tham mưu Trưởng Quân Lực VNCH từ 1955 đến tháng 8, 1963.
TÐ 9 ND sau khi xuất phát khoảng nửa giờ thì có nhiều tiếng súng nổ ở phía Ðông. Với kinh nghiệm diệt chốt của các chiến sĩ Dù, Trung Tá Nhỏ, tiểu đoàn trưởng, báo cáo Ðại Ðội 93 ND đã bứng rễ chốt địch với 12 tên bỏ xác tại chỗ, tịch thu 1 súng cối 61 ly và 9 vũ khí cá nhân, một số địch quân bỏ chạy về hướng Ðông Bắc và TÐ đang trên đường tiến về Bảo Ðịnh.
TÐ 8 ND xuất phát hành quân lục soát hướng Bắc QL1 sau đơn vị trên khoảng 1 giờ, vừa rời QL1 khoảng 600 thước, trải rộng đội hình băng qua những cánh rừng cao su tiến về thị xã phía Bắc thì chạm súng với một tổ trinh sát của địch trong đám rừng chồi. TÐT/TÐ8ND cho tất cả 4 ÐÐ dàn hàng ngang, tất cả 4 đơn vị đều chạm địch càng lúc càng ác liệt. Sau cùng TÐ 8 ND đã bao vây BCH đơn vị K8 của địch quân.
Pháo Binh Dù bắt đầu nã hằng trăm quả đạn vào đội hình của địch, và để tăng cường cho TD 8 ND, BCH/LÐ1ND điều động thêm ÐÐ 93 ND để thu hẹp vòng vây đám tàn quân địch. TÐ 1 ND đang ở phía Ðông ấp Bảo Ðịnh được điều động giăng một tuyến dài theo chiều Nam Bắc hướng về phía Ðông chờ địch.
Vào khoảng chiều tối, đơn vị TÐ.2/141 Cộng quân xuất hiện để tiếp đón đám tàn quân và thương binh của TÐ1/141 Cộng Sản khoảng 200 người sa vào bẫy TÐ1ND. Chờ cho địch lọt trọn vào trận địa, TÐ 1 ND cho lệnh khai hỏa hỏa tập TOT. Hằng trăm quả đạn pháo nổ chụp vào đầu Cộng quân. Sau trận hỏa tập, TÐ 1 ND xung phong thanh toán những tên còn sót lại. Kết quả TÐ2/141 bị xóa sổ, không một mống nào thoát khỏi.
Trong trận nầy nhờ toán Truyền Tin kiểm thính, ta dò biết được ý đồ của địch nên giăng bẫy và tiêu diệt gọn Trung Ðoàn 141/CT.7 VC với trên 400 tên phơi xác tại trận. TÐ 8 ND thiệt mất Thiếu Úy Tạ Tử Anh, trung đội trưởng của ÐÐ 82 ND.
Sau đó, các đơn vị ND di chuyển về hướng Xuân Lộc để giải tỏa áp lực Cộng quân đang bao vây bộ Chỉ huy Tiểu khu và phòng tuyến của 1 tiểu đoàn địa phương quân.
- 14 tháng 4, 1975 *Trận chiến khốc liệt tại ngã ba Dầu Giây:
Tại ngã ba Dầu Giây, từ chiều 14 tháng 4, 1975 đến sáng ngày 15 tháng 4, 1975, Cộng quân đồng loạt tấn công vào vị trí phòng thủ của Chiến Ðoàn 52 Bộ binh (chiến đoàn trưởng là Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng) bằng chiến thuật biển người và tăng pháo. Lần lượt các tiền đồn, phòng tuyến của Trung Ðoàn 52 BB, từ Kiệm Tân đến ấp Phan Bội Châu trên Quốc lộ 20 đều bị tràn ngập. Trước tình hình mới, Bộ Tư Lệnh chiến trường Xuân Lộc đã điều động lực lượng tăng viện lên mặt trận ngã ba Dầu Giây để cùng với Trung Ðoàn 52 BB giữ phòng tuyến tại ngay ngã ba Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.
Chiều ngày 15 tháng 4, 1975, trận chiến đã xảy ra quyết liệt ngay tại xã Dầu Giây:
Tại ngã ba Quốc lộ 1 và 20, giữa lực lượng trú phòng và 2 sư đoàn chính quy và 1 trung đoàn thiết giáp của Cộng quân với thế trận và tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch. Lực lượng trú phòng còn khoảng 2 ngàn quân sĩ (kể cả các tiểu đoàn Ðịa Phương Quân của Tiểu Khu Long Khánh từ Ðịnh Quán rút về hợp cùng với các đơn vị Trung Ðoàn 52 Bộ Binh).
Trong khi đó lực lượng của Cộng quân đông gấp 10 lần. Quân Ðoàn 4 CSBV gồm cả Sư Ðoàn 341, tổng trừ bị của Hà Nội vừa từ Thanh Hóa xâm nhập, do Trần Văn Trà vừa thay thế Tướng Hoàng Cầm chỉ huy, đã cho áp dụng chiến thuật biển người. Trong trận chiến tàn bạo và khủng khiếp nầy một người lính chiến VNCH tại phòng tuyến ngã ba Dầu Giây đã phải chiến đấu với thế trận 1 chống 10 với đầy đủ tăng pháo yểm trợ.
Trận chiến đã diễn ra khốc liệt ngay từ những phút đầu. Cộng quân pháo kích như mưa xuống các vị trí công sự của quân trú phòng, sau đó là đợt tấn công biển người. Sau 3 giờ kịch chiến, Cộng quân đã tràn ngập chia cắt các lực lượng của quân lực VNCH án ngữ trên quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Do trời tối, và 4 chiến xa M-48 của Chi Ðoàn 3/5 kỵ binh bị trúng đạn pháo của Cộng quân ngay từ đầu nên việc yểm trợ của thiết giáp đã không thực hiện được.
Khoảng 8 giờ tối thì toàn phòng tuyến ngã ba Dầu Giây bị vỡ. Chiến Ðoàn 52 bị thiệt hại nặng. Tất cả pháo binh, thiết giáp, quân dụng... đều bị hủy diệt sau 6 ngày đêm chiến đấu. Ðến 9 giờ đêm, khi hầm chỉ huy bị pháo của địch bắn sập, đại tá chiến đoàn trưởng mới cho rút quân với vỏn vẹn 200 người còn sống sót.
- 16 tháng 4, 1975 2 quả bom khổng lồ Daisy Cutter:
Chiếm được ngã ba Dầu Giây, 2 sư đoàn CSBV tập trung quân chuẩn bị tiến về Sài Gòn. Tình hình Long Khánh trở nên nguy ngập.
10 giờ sáng, phi cơ quan sát báo cáo về BTL QÐ3 về rừng người, chiến xa, đại pháo CSBV đang tập trung tại ngã ba Dầu Giây. Và 11 giờ trưa, 2 vận tải cơ C130 được lệnh mang 2 quả bom khổng lồ Daisy Cutter, xuất phát từ phi đạo 39 tại phi trường Tân Sơn Nhất thả xuống vùng tập trung quân của CSBV khiến cho đại quân của CS rối loạn trong 3 ngày liền. Và Hà Nội đã la làng rằng Mỹ đã vi phạm Hiệp Ðịnh Paris vì B52 trở lại Việt Nam.
(Bom khổng lồ “Daisy Cutter” nầy do Mỹ cung cấp vào trung tuần tháng 4, 1975. Theo các tài liệu tình báo, hơn 7 ngàn Cộng quân và hàng trăm vũ khí nặng, quân xa CSVN bị tiêu diệt bởi hai trái bom này.
Trong cuộc tiếp xúc với vị phụ tá bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ vào cuối tháng 2, 1975, Ðại Tướng Cao Văn Viên đã yêu cầu Bộ Quốc Phòng Mỹ đặc biệt cung cấp vũ khí nào mà Không Quân Việt Nam có thể sử dụng được. Ðó là loại bom 15 ngàn cân Anh có tên là bom bạch cúc (Daisy Cutter) mà Không Quân Hoa Kỳ thường dùng thả bằng phi cơ C-130 để khai quang dọn bãi đáp trong các khu vực rừng già. Thế nhưng, gần đến cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ mới đáp ứng yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, sau chuyến viếng thăm của Ðại Tướng Weyand. Vào giữa tháng 4, 1975, ba trái chuyển đến trước và sau đó thêm 10 trái nữa chuyển đến chỉ vài ngày trước khi cuộc chiến kết thúc. Một chuyên viên Mỹ đi theo chuyến này để hướng dẫn cho chuyên viên VN cách gắn ngòi nổ và cách gắn bom lên phi cơ.
Tướng Nguyễn Văn Toàn đã xin Bộ Tổng Tham Mưu thả hết 11 trái bom còn lại nhưng được trả lời là không còn ngòi nổ.)
- 17 tháng 4, 1975 *Kịch chiến tại phòng tuyến Ðịnh Quán:
Tại mặt trận Long Khánh, sau khi phòng tuyến Dầu Giây do Trung Ðoàn 52 Bộ Binh phòng ngự bị vỡ, Cộng quân chuyển mục tiêu tấn công sang khu vực Ðịnh quán do một Tiểu Ðoàn của Trung Ðoàn 43 Bộ Binh trấn giữ. Ðồng thời gia tăng áp lực tại phòng tuyến của lực lượng VNCH tại núi Chứa Chan, Gia Rai. Cùng lúc đó, Cộng quân điều động 2 trung đoàn tấn công vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh.
*CQ tấn công vào phía Nam thị xã Xuân Lộc
Trong ngày 17 tháng 4, 1975, các đơn vị thuộc 3 sư đoàn 3, 6, 7 Cộng quân tiếp tục mở các đợt tấn kích vào phòng tuyến phía Nam thị xã Xuân Lộc do 2 Tiểu Ðoàn thuộc Lữ Ðoàn 1 Dù án ngữ. Những pha cận chiến giữa chiến binh Nhảy Dù và CQ đã diễn ra quanh các vườn cây rộng mênh mông của cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ, nằm sát đường rầy xe lửa. Không Quân đã thực hiện nhiều phi tuần F-5 và A-37 oanh kích vào vị trí đóng quân của một Trung đoàn Cộng quân trong khu vườn này.
- 18 tháng 4, 1975 *Tại mặt trận Xuân Lộc:
Trung Úy Ðăng ÐÐT/ ÐÐ1TS báo cáo thấy nhiều xe molotova địch xuất hiện trong khu rừng phía Ðông và Ðông Nam BTL/Hành Quân. Buổi chiều, LÐT/LÐ1ND ra lệnh cho ÐÐ.94 (Tr/Úy Thăng) vào lục soát khu vực do Trinh Sát báo cáo.
Ðịch quân thấy bị lộ diện nên khai hỏa tấn công quyết liệt vào ÐÐ 94 ND. Ðến 5 giờ chiều cùng ngày TÐ 9ND điều động ÐÐ 93ND, Ðại Úy Tường ÐÐT, vào tiếp viện cho ÐÐ 94. Vừa qua khỏi bìa rừng, ÐÐ 93 chạm địch ngay, giao tranh cho tới chiều tối. Vì trời tối, địch tuy đông nhưng không biết ta ở đâu nên đôi bên đều thủ thế chỉ va chạm lẻ tẻ qua đêm. Pháo binh của ta cũng chỉ bắn cầm chừng vì quân đôi bên quá gần.
Sáng ngày 19 tháng 4, 1975, ÐÐ93 được tăng viện một Chi Ðoàn M113, 2 đơn vị ND như hổ thêm cánh, mở rộng phòng tuyến dàn quân tấn công vào mục tiêu, địch phản ứng dữ dội, nhưng Nhảy Dù siết chặt gọng kềm, giao tranh ác liệt. Sau nhiều giờ kịch chiến địch quân bị thiệt hại nặng, bỏ lại trên 200 xác tại trận. Phía Nhảy Du, Thiếu Úy Thoại và 2 binh sĩ hy sinh cùng 8 binh sĩ khác bị thương, một thiết vận xa M113 bị đứt dây xich.
- Phòng tuyến Ðịnh Quán:
Tại khu vực Ðịnh Quán, Cộng quân tung 1 trung đoàn tấn công ồ ạt vào tuyến phòng ngự của một Tiểu Ðoàn thuộc Trung Ðoàn 43 Bộ Binh. Quân trú phòng đã dũng cảm đánh trả nhiều đợt xung phong của địch quân. Sau những giờ tử chiến với Cộng quân, tuyến phòng thủ Ðịnh Quán đã bị vỡ trong ngày 19 tháng 4, 1975. Một số chiến binh của tiểu đoàn nói trên rút về được tuyến sau.
- 20 tháng 4, 1975 *Những trận đánh cuối cùng tại chiến trường Long Khánh:
Tại chiến trường Long Khánh, rạng sáng ngày 20 tháng 4, 1975, 2 trung đoàn cộng quân từ hướng Ðông Nam Xuân Lộc tiến đánh thẳng vào Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh và Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Long Khánh. Cộng quân tập trung lực lượng tại đồn điền Xuân Lộc cách Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Ðoàn 18 khoảng 3 km.
*Tại phòng tuyến sát tỉnh lỵ Long Khánh, một trận chiến khác diễn ra rất khốc liệt giữa Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù và một Trung đoàn Cộng quân trong khu vườn cây Ông Tỵ. Cộng quân đã xây dựng hệ thống phòng thủ kiên cố trong khu vực này nên các đợt tấn công của Tiểu Ðoàn 9 Dù đã gặp rất nhiều khó khăn.
*Qua 12 ngày chiến đấu đẫm máu, tuyến thép Xuân Lộc vẫn đứng vững dù Phan Rang đã thất thủ ngày 17 tháng 4, Phan Thiết đêm 18 tháng 4, Bình Tuy bỏ ngỏ, giờ đây Xuân Lộc là vùng giới tuyến của đất nước. Tin thắng trận của SÐ18 BB, LÐ1ND, BÐQ, Thiết Giáp và Không Quân tới tấp gởi về Sài Gòn như những gáo nước lạnh tạt vào mặt bọn nhà báo, nhà văn, trí thức ngoại quốc và VN chủ bại. khiến chúng không có cách nào để bóp méo sự thật xuyên tạc, nên cũng cúi đầu kính phục tinh thần bất khuất của Quân Dân miền Nam. Bởi vì đây là chiến thắng cuối cùng của QLVNCH trước khi bị rã ngũ.
*Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3/Quân Khu 3 rút quân khỏi phòng tuyến Xuân Lộc
Trong khi toàn mặt trận Xuân Lộc đang giao chiến khốc liệt với quân CSBV, thì 10 giờ sáng cùng ngày (20/4/1975), theo lệnh của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân Ðoàn 3, tại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, đã có cuộc họp khẩn với các chỉ huy trưởng các đơn vị tăng phái và Tiểu Khu Trưởng Long Khánh trong vòng 1 giờ, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh phổ biến lệnh mới của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 là toàn bộ lực lượng VNCH rút khỏi Xuân Lộc.
*Theo tin tình báo, Cộng quân sau khi bị thiệt hại nặng nề đã cho thay đổi kế hoạch tấn công Saigon bằng chiến dịch 2 với 5 Sư đoàn tấn công vào Biên Hòa, Phước Tuy đồng loạt với 3 Sư đoàn khác tấn công vào Tây Ninh. Vì vậy Long Khánh không còn là điểm nóng nửa. Nên tất cả các đơn vị tham chiến tại đây phải rút về Biên Hòa để lập phòng tuyến mới.
Lợi dụng tình trạng địch quân còn đang hoang mang về bom Daisy Cutter, Tướng Nguyễn Văn Toàn đã dùng trực thăng bay đến Xuân Lộc bàn với Tướng Lê Minh Ðảo để ra lịnh lui binh.
*Lệnh rút bỏ Long Khánh được ban hành bởi Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo, tư lệnh SÐ 18 BB, tất cả các lực lượng tại đây dùng Liên Tỉnh lộ 2, phát xuất từ Tân Phong, Long Giao về Phước Tuy, với 3 cánh quân Sư Ðoàn 18 BB, Tiểu Khu Long Khánh và Ðịa Phương Quân, Lữ Ðoàn 1 ND và TÐ 3 PB/ND. Ðội hình di chuyển theo thế chân vẹt để có thể yểm trợ hỏa lực cho nhau.
*Trong cuộc lui binh nầy, LÐ1ND bị thiệt thòi và nguy hiểm nhất vì là đơn vị đoạn hậu, đang chống trả với Cộng quân, 2 bên còn đang giao tranh ác liệt tại Bảo Ðịnh. 7 giờ tối, lênh lui binh bắt đầu thi hành.
*9 giờ đêm, các đơn vị Nhảy Dù vừa tới QL1 và một hoạt cảnh rất cảm động xảy ra, tất cả dân làng già trẻ lớn bé của các xóm Bảo Ðịnh, Bảo Tồn, Bảo Hòa đã tập trung sẵn hai bên vệ đường để theo chân lính Dù di tản.
Thì ra người lính VNCH trong suốt cuộc chiến 20 năm trời, xác thực, luôn luôn là kẻ giữ gìn thôn xóm giúp dân. Tình quân dân thắm thiết chỉ được nhắc tới trong những lúc cùng khốn hiểm nguy. CS Hà Nội đã biết được ưu điểm nầy của người lính VNCH nên không ngớt quấy phá, xuyên tạc, đầu độc bằng cách cho cán binh, trà trộn giả làm lính VNCH trong những lúc rối loạn như Tết Mậu Thân, mùa Hè đỏ lửa, hay trận chiến 55 ngày cuối cùng, để bêu xấu bằng cách cướp của, hãm hiếp dân lành. Vin vào đó, một số trí thức (?) hèn nhát chủ bại và mặc cảm viết trường thiên tiểu thuyết kể tội, bôi lọ người lính chiến... đâm sau lưng chiến sĩ.
Mấy chục cây số đường rừng bị bỏ hoang trên Liên Tỉnh lộ 2 từ Tân Phong cho đến Ðức Thành, Long Lễ, Bà Rịa, không phải là chuyện bình thường của một đoàn quân có dân chúng lẫn lộn. Thành phần lui binh đợt đầu, nhờ yếu tố bất ngờ nên đã đến được Phước Tuy vào sáng hôm sau mặc dù trên đường đi, CSBV cố gắng quấy rối làm trì hoãn bước tiến của đoàn quân để chờ lực lượng lớn (QÐ4) của Cộng quân theo kịp để tiêu hao lực lượng của ta.
Ngay trong đêm rút quân ngày 20 tháng 4, 1975, tại phía Nam xã Cẩm Mỹ, phần lớn là khu rừng rậm, đoàn quân của Ðại Tá Phạm Văn Phúc và Trung Tá Lê Quang Ðịnh, tiểu khu trưởng và tiểu khu phó Tiểu Khu Long Khánh đã bị Cộng quân tấn công tràn ngập và bắn nhiều loạt B40 vào đoàn xe khi đang di chuyển. Trung Tá Ðịnh bị tử thương và Ðại Tá Phúc bị bắt làm tù binh.
LÐ1ND rút lui sau cùng, chỉ riêng TÐ3PBND được di chuyển trên đường lộ với ÐÐ1 Trinh Sát Nhảy Dù hộ tống. Các đơn vị tác chiến mở đường, bọc sâu trong rừng 2 bên vệ đường để bảo vệ cuộc lui binh.
10 giờ đêm, TÐ8ND, BCH/LÐ1ND và các đơn vị yểm trợ được lịnh xuất phát về hướng Long Giao theo LT lộ số 2. Thi hành lệnh lui binh, Tiểu Ðoàn 2 Trung Ðoàn 43BB đang bảo vệ một khẩu đội pháo binh 105 ly tại núi Thị để tác xạ nghi binh trong khi toàn bộ các đơn vị VNCH rút lui, được vào hệ thống chỉ huy của LÐ1ND. Ðến 3 giờ sáng (21/4/1975) TÐ2/43 được lịnh phá hủy 2 khẩu pháo và rút lui khỏi Núi Thị cùng một vài đơn vị Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân còn sót lại tháp tùng.
4 giờ sáng ngày 21 tháng 4, 1975, tại ấp Quí Cả, gần ranh giới Long Khánh-Phước Tuy, TÐ8ND và ÐÐ Trinh Sát Dù đã bị 2 Tiểu Ðoàn CSBV phục kích. Pháo Ðội C và Trung Ðội Trinh Sát hộ tống hầu hết đều bị thương vong trước biển người tấn công của địch. (Pháo Ðội Trưởng và Trung Ðội Trưởng Trinh Sát bị mất tích, 12 binh sĩ Dù bị tử thương và 5 bị thương). Cánh quân đi đầu của TÐ 9 ND cũng đụng độ nặng với CS tại thung lũng Gia Rai dưới chân núi Cam Tiêm. Ngoài những thiệt hại trên, cuộc lui binh trên liên tỉnh lộ 2 coi như hoàn toàn kết quả tốt đẹp.
Ðến 7 giờ, khi di chuyển đến Căn Cứ Long Giao, TÐ2/43 được lịnh trở về hệ thống chỉ huy của Trung Ðoàn 43 và chuyển hướng, bỏ LTL2 băng rừng xuyên qua quận Long Thành Biên Hòa để tránh lọt ổ phục kích của giặc Cộng.
Và vào 6 giờ chiều ngày 21 tháng 4, 1975, LÐ1ND về đến điểm tập trung xã Ðức Thạnh tỉnh Phước Tuy để sang ngày 22 tháng 4 xuất phái khỏi SÐ18BB và được chỉ định giữ nhiệm vụ bảo vệ Quốc lộ 15, từ Long Thành ra đến Bà Rịa.
Lữ Ðoàn I Nhảy Dù đến tham chiến trấn giữ Xuân Lộc, tăng phái cho Sư Ðoàn 18 BB với nhiệm vụ chận đứng bước tiến của VC vào Sài Gòn. LÐ1ND đã oai dũng làm tròn nhiệm vụ, địch quân không tiến thêm được một tấc đất. Ðoàn quân viễn chinh của Võ Nguyên Giáp, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Văn Tiến Dũng, tiến như thác đổ, đã bị khựng lại ở ngay cửa ngõ của Saigon. Từng đợt xung phong có chiến xa và pháo binh yểm trợ đều bị đánh bật ra, tiến lên là phải lùi lại, tấc đất đánh được buổi sáng, buổi chiều các chiến sĩ Dù ngạo nghễ giành lại. Sau nhiều ngày giao tranh, Lữ Ðoàn 1 Dù vẫn chiến đấu và giữ vững trận tuyến cho tới cuối chót.
Ngày 24 tháng 4, 1975, để khích lệ toàn thể quân nhân các cấp thuộc SÐ18BB đã anh dũng chiến đấu bảo vệ tuyến phòng thủ cuối cùng Long Khánh, Tổng Thống Trần Văn Hương cùng Lưỡng viện Quốc Hội đã đến Long Bình vinh danh các chiến sĩ hữu công và đặc biệt vinh thăng 1 cấp đặc cách tại mặt trận cho Thiếu Tương Lê Minh Ðảo cùng tất cả các Quân Nhân tham chiến tại Long Khánh.
Sau đó, SÐ18BB được chỉ định phòng thủ mặt phía Ðông Thủ Ðô Sài Gòn, từ tổng kho Long Bình đến kho đạn thành Tuy Hạ, tiếp cận với các lực lượng của Trường Bộ Binh Thủ Ðức, Trường Thiết Giáp. Tất cả đều tiếp tục chiến đấu với giặc cho đến khi ông Dương văn Minh ra lịnh buông súng tan hàng vào khoảng 11 giờ trưa ngày 30 tháng 4, 1975 mới chấm dứt.



Tài liệu tham khảo:
- Tuyến Thép Xuân Lộc của Cựu Ðại Tá Hứa Yên Lến trong Ðặc San kỷ niệm 30 năm Hội Ngộ của SÐ18BB.
- Những sự thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975 của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Ðại Tá Lê Bá Khiếu và Tiến sĩ Nguyễn Văn, Tác giả xuất bản.
- Trận Chiến Xuân Lộc của Hồ Dinh
- Theo lời tường thuật của Trung Tá Ðỉnh, LÐT/LÐ1ND.
- Ðại Thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng.
- Và các cuộc phỏng vấn các Chiến hữu Nhảy Dù.

Ðại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Ðoàn Truyền Tin SÐND (714) 545-0105
Email: votrungtin@hotmail.com
Ðại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù (714) 897-1435

20 tháng 4, 2015

CIA-Thomas Polgar: NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.”

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.”

nuocmattruocconmua
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.
nguyenbatrac
THOMAS POLGAR
(Chỉ huy Trung ương Tình báo Mỹ CIA tại Việt Nam)

“Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.”

Hiểu ý định địch quân không khó vì Bắc Việt không giữ bí mật phương hướng, đường lối. Họ thường cho cán bộ học tập kỹ lưỡng cả đến những chi tiết đáng ngạc nhiên về những gì họ làm, hơi giống kiểu Hitler và cuốn Mein Kampf. Họ thường nói trước những gì họ sẽ làm, chúng ta thường không tin những gì họ đã nói. Còn chính sách Hoa Kỳ thì đơn giản là không đáp ứng những tin tình báo mà chúng tôi thu lượm.
Xin đưa thí dụ: Mùa thu 1974, chúng tôi tìm ra được những báo cáo của Hà Nội nói Nixon đã đổ, chúng ta sẽ chơi một trận cầu mới, chúng ta sẽ có nhiều thử nghiệm trong phạm vi quân sự. Tôi xem các tài liệu này rất hệ trọng. Bắt đầu vào tháng 10, 1974, khi tìm được phương án hoạt động 75, tôi lái xe xuống Biên Hoà nói chuyện với viên Trưởng Nhiệm sở Tình báo vùng, nơi họ bắt được phương án này, chúng tôi đã bàn thảo và đi đến kết luận: Cái giọng trong văn kiện này tương đồng khủng khiếp với cái giọng của tập tài liệu 90 nguyên tắc chỉ đạo do Trung ương cục miền Nam đưa ra vài tháng trước cuộc tổng công kích 1972.
Một hôm, tôi có dịp hỏi ý kiến Kissinger về hoạt động tình báo của chúng ta, không phải chỉ riêng ở Việt Nam, mà nói chung. Lúc ấy, ông đang tiếp nhận một lưu lượng khổng lồ các tin tức do Trung ương Tình báo từ khắp nơi trên thế giới gửi về. Tôi hỏi ông nghĩ thế nào về giá trị ngành tình báo chúng ta? Ông suy nghĩ một lúc, rồi trả lời: “Khi nó hỗ trợ cho chính sách của tôi, nó rất hữu ích!” Tôi nghĩ: Đấy, chính đấy là tâm điểm vấn đề. Vấn đề là chính sách Mỹ không được thiết lập để đáp ứng với tin tức do tình báo thâu nhập được nhưng chúng ta thiết lập chính sách trước, rồi cố tìm kiếm các tin tức tình báo để hỗ trợ chính sách ấy mà thôi.
Ở Việt Nam lúc đó có ba nguồn tình báo chính: Quân báo, sở An ninh Quốc gia và Trung ương Tình báo. Chúng tôi không bao giờ gặp những trường hợp tin tức nghịch chiều. Chưa bao giờ Văn phòng Tình báo- Văn phòng Tùy viên Quân sự đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác biệt với quan điểm những cơ quan tình báo bạn. Chúng tôi phối hợp chặt chẽ với Bill Legro, người chỉ huy tình báo thuộc Văn phòng Tùy viên Quân sự suốt phần lớn thời gian kể từ sau Hiệp định Ba-Lê. Nhưng trở ngại là chính sách Hoa Kỳ đã được đặt trên căn bản của một tiền đề: Tiền đề đó là Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt. Quân đội Hoa Kỳ đã rút. Và chắc chắn, Tổng thống Ford sẽ không để cho hy vọng tái bầu cử của ông bị đe dọa vì việc có thể đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam.
Vào năm 1974, chúng ta đã không gửi tiếp vận cho Nam Việt Nam đúng kỳ hạn. Chúng ta đã chậm trễ trong việc thi hành các nghĩa vụ đồng minh. Lúc ấy, tôi báo cáo: Nếu người miền Nam Việt Nam mất tin tưởng vào sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, họ sẽ sụp đổ. Tôi nhấn mạnh vào sự tin tưởng-vào tinh thần của họ, hơn là vào cả cái mức độ thực sự của việc yểm trợ quân sự.
Có năm sự kiện xảy ra trong năm 1973 dù không liên quan gì đến Việt Nam, nhưng đã ảnh hưởng trầm trọng đến họ. 
-Trước hết, cuộc chiến Ả Rập/Do Thái đã làm đổi hướng Bộ Quốc phòng Mỹ và đổi hướng nguồn quân vận sống chết của Nam Việt Nam. 
-Tiếp đến việc phong tỏa dầu lửa, giá dầu thô tăng vọt làm kinh tế Nam Việt Nam bị va chạm, thiệt hại nặng.
-Rồi các nhược điểm trong chính sách ngoại giao Mỹ đã tạo nên những phản ứng tâm lý mạnh mẽ chống lại việc tiếp tục các cam kết ngoại giao đắt giá. 
-Rồi việc quân nhân đảo chánh, hạ bệ Salvador Allende ở Chí Lợi làm công luận thuộc Khuynh hướng Tự do và Khuynh hướng Tả phái tức giận, họ trút sang đầu Nam Việt Nam.
- Sau nữa, quốc hội vì ghê tởm vụ bưng bít Watergate, đã tìm cách trừng phạt Nixon, nên cũng gộp luôn cả Việt Nam vào vụ này.
Tôi nghĩ ông Thiệu hiểu rất rõ: Không có Mỹ, ông không thể tồn tại được. Tôi cũng biết Hoàng Đức Nhã, cháu ông Thiệu rất nhiều. Nhã đã học bốn năm đại học ở Mỹ, còn hiểu rõ hơn cái bản chất bất định của nền chính trị Hoa Kỳ, những sự lên xuống thuần túy chỉ do áp lực nội bộ gây ra, thường chẳng liên quan đến đề mục ngoại giao, mà lại ảnh hưởng lớn đến liên hệ ngoại giao. Nhưng làm thế nào một người như Thiệu có thể nhận thức thấu đáo sinh hoạt quốc hội Mỹ, trong khi cách làm việc của ông là chỉ coi quốc hội của ông như một công cụ khúm núm quỵ lụy mà thôi?
Vụ thất thủ Phước Long xảy ra đầu năm 1975 không quan trọng về phương diện quân sự, nhưng cực kỳ quan trọng ở phương diện tiêu biểu: Nước Mỹ đã từ chối không thực hiện lời Nixon hứa với Thiệu rằng sẽ “trả đũa mạnh mẽ và toàn bộ.” Quân Bắc Việt thử nghiệm xong, tất nhiên được đàng chân, lân đàng đầu, họ sẽ tiến sâu hơn nữa.
Khi phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ đến Việt Nam, tôi nghĩ cách hành xử của Fraser và Abzug không tha thứ được. Ngay khi bước vào phòng, Abzug lên tiếng hỏi: “Trong mấy người ở đây, ai là Polgar?” Tôi tự giới thiệu. Bà ta nói: “Tốt! Tôi đã được người ta cảnh giác về ông.
Bấy giờ có một lãnh tụ sinh viên bị nhốt tù, anh này có đôi chút tiếng tăm ở Mỹ. Bà Abzug đầu tiên bảo anh ta chắc chết rồi, Nam Việt Nam giết hắn rồi. Tôi bảo “Không. Nam Việt Nam không làm như vậy. Họ có thể xác định được bất cứ người nào ở đâu trong tù.” Bà ta bảo: “Xác định người này xem.” Chúng tôi xác định ra được địa điểm giam anh ta là ở vùng 3, Tuy Hoà.(Ghi chú của người dịch: Có lẽ là Biên Hòa) Bà bèn bảo bà ấy muốn phỏng vấn. Nhưng đi xe hơi xa quá, phải có trực thăng, bà ấy lại chỉ có thể đi sáng chủ nhật, thực bất tiện cho tất cả mọi người. Nhưng cũng đành, chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục thăm tù. Sau khi tất cả lo liệu xong, bà ấy nói: “À, tôi không lưu ý vụ này nữa” và không bao giờ đi gặp người sinh viên này nữa.
Cùng đi trong phái đoàn có Millicent Fenwick. Bà này tuy không có cảm tình với Nam Việt Nam nhưng vẫn còn cư xử đàng hoàng, đã theo dõi lắng nghe các buổi thuyết trình. Nhưng Abzug và Fraser hết sức quá quắt. Tổng thống Thiệu mời cả phái đoàn dự tiệc, hai người này thản nhiên không dự. Họ chẳng đếm xỉa nghi lễ, không buồn từ chối. Họ lẳng lặng không đến. Trước buổi tiệc ấy là tiếp tân của thủ tướng, họ đến, nhưng họ không thò mặt vào buổi tiệc của tổng thống. Rồi đại sứ cũng mời phái đoàn dùng cơm chiều. Tất cả mọi người đến, trừ Abzug. Tôi rất thất vọng, vì chính tôi đã được xếp ngồi ngay cạnh bà ta.
Về vụ tấn công Ban Mê Thuột ngày 5 tháng 3, tôi không tin có ai đã đoán trước được, nhưng hầu hết mọi người đều biết một cuộc tấn công lớn sẽ xảy ra ở cao nguyên trung phần. Chúng tôi biết họ sẽ cắt đường, sẽ đưa vào nhiều sư đoàn. Tất cả đều đã xảy ra đúng như vậy, nhưng Hoa Thịnh Đốn không bao giờ chấp nhận tin tức tình báo của chúng tôi. 
Họ không chấp nhận vì-(Chúng ta đang bước vào chuyện xuất xứ các nguồn tin và những phương pháp thâu nhập tin tức tình báo, chẳng rõ tôi có nên nói ra ở đây không)-Nhưng sự kiện xảy ra là giới tình báo Hoa Thịnh Đốn đã không sử dụng tin tức tình báo từ Việt Nam do Văn phòng Tùy viên Quân sự và sở Trung ương Tình báo chuyển đến, nói rằng sẽ có một cuộc tấn công lớn tại cao nguyên vào năm 1975. Họ từ chối không chịu tin điều ấy. Còn miền Nam Việt Nam thì chẳng có được một quan niệm chiến thuật riêng tư nào, ngoài việc đặt một trung đoàn chỗ này, đưa một trung đoàn ra chỗ kia để phòng vệ. Trung đoàn tăng cường Ban Mê Thuột không đủ đương đầu tình hình, họ cũng không được may mắn. Những lực lượng này dùng để giữ các địa phương thì tốt, họ tỏ ra đắc lực để đối đầu vài trận tấn công. Tuy nhiên họ không phải là loại binh đội được huấn luyện và trang bị để chiến đấu với các đơn vị chính quy chủ lực có chiến xa tăng cường.
Sau khi mất Ban Mê Thuột, ông Thiệu họp với tướng Phạm Văn Phú tại Cam Ranh, ban lệnh triệt thoái cao nguyên. Tôi nhớ buổi họp ấy nhằm thứ sáu. Phú cho thực hiện kế hoạch vào thứ bảy. Nhận tin sáng thứ bảy ấy, tôi chạy theo tướng Charles Timmes ra Tổng Tham mưu, và nói rằng “Tôi chẳng biết chuyện trời đất gì đang xảy ra đây nữa!” Tôi cho một phụ tá cao cấp đi gặp tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh của Thiệu, hỏi chuyện gì đang xảy ra ở vùng II. Quang bảo: “Ông thấy, tình hình không được tốt. Chúng tôi không mở đường lại được, chúng tôi đang lo ngại về tình hình và sẽ phải thay đổi vị trí một vài đơn vị- chớ chẳng có chuyện gì xảy ra ở vùng II cả.”
Hiển nhiên, ông Quang không hay biết ông Phú đang di tản
Tướng Timmes vào Tổng Tham Mưu Việt Nam, nhưng không gặp tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu Trưởng. Mọi sự ở đấy có không khí của một buổi sáng thứ bảy. Nhưng ông đã gặp tướng Trần Đình Thọ, là Trưởng phòng hành quân để hỏi thăm tin tức vùng II. Ông Thọ nói: “Còn có cái gì xảy ra mà quý ông không hay biết cả đâu?” 
Rõ rệt, Bộ Tổng Tham Mưu cũng không biết gì việc ông Phú đang triệt thoái. Sau đó tôi nhận tin trực tiếp từ Pleiku gửi về. Phó Đại sứ Wolf Lehman bấy giờ đang bận một số chuyện lặt vặt. Joe Bennett, sĩ quan chính trị đang bận đi chữa răng. Tôi điện thoại cho Moncrieff Spear, Tổng Lãnh sự ở vùng II, bảo ông ta: “Tốt hơn hết ông nên chuyển người của ông ra khỏi Pleiku, theo chỗ tôi hiểu: người ta đang di tản.” Ông ta nói: “Anh khùng à?” Bấy giờ ông ta đang ở Nha Trang, vùng duyên hải, tôi bảo: “Không, tôi có lý do để tin những việc đang xảy ra.” Ông ta nói: “Có phải anh ra lệnh cho tôi di tản Pleiku đấy chăng?” Tôi bảo: “Ông biết thừa tôi không thể làm thế. Nhưng tôi có thể kết luận nếu khôn ngoan thì hãy di tản ngay đi.”
Có một điểm tôi muốn nêu ra đây về tướng Phú trong buổi sáng hôm ấy. Bất kỳ công trạng trước đây của ông thế nào, không kể, nhưng bây giờ ông ta đã hoàn toàn không phối hợp với chúng tôi. Ông ta không thông báo cả cho Tổng Lãnh sự là người mà ông bắt buộc phải thông báo, vì đây là đại diện chính thức của Hoa Kỳ tại vùng II. Ông Quang cũng không biết chuyện gì đang xảy ra, ông ta có vẻ của một người bận rộn, nhưng thực tình chỉ lăng xăng giết thì giờ. Còn ông Thọ Trưởng phòng hành quân, cũng thế, chẳng hay biết gì cả. Trong sự suy đoán của tôi: Những việc xảy ra đó là do tướng Phú hiểu lầm những gì Tổng thống Thiệu nghĩ trong đầu, rồi tự khởi xướng một kế hoạch hành động, không biết việc ấy trong thực tế sẽ khó khăn đến đâu. Thực tế cuộc di tản ấy không thành công. Mọi cuộc triệt thoái sớm hay muộn đều là một sự thất bại khủng khiếp.
Quân đội Bắc Việt bắt kịp cuộc di tản của tướng Phú. Chiến xa của họ đâm ra từ các đường nhánh, gặp đoàn quân tại Phú Bổn. Cuộc tàn sát đã diễn ra ở đấy.
Trước buổi họp Cam Ranh, tôi liên lạc với Hoa Thịnh Đốn để ghi nhận cuộc chơi đã xong. Tôi nhớ tôi nói chuyện với một viên chức có liên hệ khá chặt chẽ với tôi (xin miễn đưa tên), ông ta bảo: Nam Việt Nam không thể nào tiêu hoá nổi việc mất Ban Mê Thuột cùng với cái hậu quả tất yếu của nó là mất toàn thể cao nguyên. Ống là một sĩ quan cấp tướng.

Lúc ấy vẫn chưa có gì xảy ra ở vùng I. Rồi tai họa bắt đầu. Thiệu quyết định rút cả Thủy quân Lục chiến lẫn Nhảy dù khỏi vùng I. Quyết định này giống như chợt rút đi cái chiếu trong lúc tướng Trưởng còn đang đứng trên ấy, nó làm ông ta hổng cẳng

Tiếp đến, mất cả sư đoàn Thủy quân Lục chiến. Họ trở nên vô dụng, vì đầu tiên người ta ra lệnh triệt thoái, sau lại ra lệnh “quay đàng sau, quay,” để quay trở lại! Đó là chuyện bất khả thi về phương diện quân sự. Sư đoàn Thủy quân Lục chiến mất rất nhiều chiến cụ vì không thể nào lấy ra được trong cái dòng người tỵ nạn tràn lan. Lúc này ông Thiệu đang ngoi ngóp trong biển nước, ông cố bám lấy vài cọng cỏ. Nhưng lúc này ông có làm bất cứ cái gì cũng không còn có thể thay đổi tình thế lại được nữa. Cuộc chơi đã xong.
Tôi tin tưởng chắc chắn rằng khi người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta sắp chạy, tất cả sẽ sụp đổ. Điều này, tôi hoàn toàn đồng ý với đại sứ Martin. Ông đại sứ lúc ấy đã rời Việt Nam sang Mỹ cùng với phái đoàn quốc hội. Ông nghĩ ông có thể vận động được một vài dân biểu, ông sẽ cố ra điều trần trước quốc hội. Đến Hoa Thịnh Đốn, người ta phát hiện tình trạng sức khoẻ của ông cần giải phẫu, việc này đã làm chuyến về của ông chậm trễ. Không muốn mọi người phải quan tâm nhiều, ông đi xuống North Carolina mổ, ngay Bộ Ngoại giao cũng không biết liên lạc với ông ở đâu. Ông là một người kín đáoÔng trở lại Việt Nam cuối tháng Ba, trước khi Đà Nẵng mất và chuyến C-5A bị rơi.
Về vụ chiếc C-5A thì thoạt đầu đề nghị chuyển vận các cô nhi đi bằng máy bay hoàn toàn chỉ có mục đích vận động nhân tâm. Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Y tế, cũng là bác sĩ y khoa-Bác sĩ Đán cảm thấy cần phải làm một cái gì về các cô nhi. Đại sứ Martin và vài cố vấn cũng cảm thấy nếu đưa được các cô nhi sang Mỹ hàng loạt thì việc này có thể vận động tình cảm công chúng Mỹ, nó sẽ là một câu chuyện khích động lòng xót xa con người. 
Cùng lúc ấy, Văn phòng Tùy viên Quân sự lại có nhiều nhân viên phụ nữ sẵn sàng di tản, nhưng người ta không thể cấp thông hành cho họ vì Hoa Kỳ chưa chính thức di tản. Như thế ai sẽ trả phí tổn di chuyển bằng đường hàng không từ Việt Nam, Hoa Kỳ chăng? Nên tôi nghĩ có thể xếp đặt cho họ vào những chuyến máy bay quân đội còn trống, xem họ như những người đi kèm các cô nhi, như thế khỏi lo liệu vấn đề lộ phí, tiền bạc. Chính vợ tôi cũng đi với tư cách người kèm cô nhi, nhưng rồi vợ tôi tình cờ đã lên một chiếc máy bay dân sự thuộc hãng Cathay Pacific, đúng một ngày với chuyến C-5A bị rớt.
Tôi có hai bác sĩ thuộc Trung ương Tinh báo, nhân viên của tôi, khi máy bay rớt đã đi khiêng xác chết, xác của những đứa trẻ nhỏ bé này, vào bệnh viện Cơ Đốc ở Sàigòn. Một trong hai bác sĩ ấy mang theo máy ảnh, chụp rất nhiều hình. Khi tôi đưa những tấm ảnh này cho đại sứ coi, ông suy nghĩ khá lâu xem có nên công bố hay không.Nhưng ông kết luận những bức ảnh này quá rõ ràng, quá đẹp, màu sắc sống động, với hình ảnh các thân thể nát vụn của đàn bà trẻ con, thay vì khích động lòng thương xót, lại tạo ảnh hưởng xấu, nên người ta quyết định không công bố nữa.
Vài ngày trước hôm Thiệu từ chức, một nhân viên cao cấp người Hung Gia Lợi thuộc ủy ban quốc tế kiểm soát đình chiến đến gặp tôi, anh ta nói: “Này ông bạn, phải thực tế chút chứ? Ông phải biết các ông đã thua trận chiến này.” Tôi bảo: “Ô kê, tôi nhìn nhận: Trận chiến đã bại rồi.” Anh ta nói: “Mỗi cuộc thất trận đều tạo nên nhiều hậu quả chính trị.” Tôi bảo: “Đồng ý.” Anh ta nói: “Hiển nhiên những hậu quả chính trị này sẽ gây nhiều cay đắng.Nhưng bên phía mà tôi đại diện…” Anh ta bỏ lửng, không nói đại diện cho ai “…Không có ý định hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức. Có lẽ, có thể tìm ra được một giải pháp nào-Không phải để thay đổi cuộc diện trận chiến, vì nó đã xong, nhưng để thu xếp cho một cái chung cuộc mà..” Một lần nữa, anh ta sử dụng những chữ này: “Không hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức.”
Tôi hỏi: “Ông có ý nghĩ gì trong đầu vậy?” “À vâng.” Anh ta nói: “Ông biết chúng tôi đã ra Tân Sơn Nhứt thảo luận với các đồng nghiệp Bắc Việt của chúng tôi. Chúng tôi có người ở Hà Nội. Tôi có cảm tưởng có lẽ chúng ta có thể tìm được một cách giải quyết trong lúc tình hình đang diễn tiến thế này-Thiệu bắt buộc phải từ chức. Hoa Kỳ cần phải tuyên bố bất can thiệp vào nội tình Nam Việt Nam, ngoại trừ việc duy trì ở đây một cơ cấu sứ quán bình thường. Và chính phủ Nam Việt Nam cần bao gồm một số người Bắc Việt có thể chấp nhận. Đấy là những vấn đề chủ yếu.” Tôi đáp: “Vâng, tốt lắm, cảm ơn ông bạn nhiều. Đương nhiên, tôi sẽ báo cáo cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay. Tôi sẽ thảo luận với đại sứ chúng tôi để chuyển về Hoa Thịnh Đốn, rồi tôi sẽ gặp lại ông. Trong lúc chờ Hoa Thịnh Đốn trả lời, xin ông vui lòng đi gặp các bạn của ông một lần nữa để tìm hiểu xem ai sẽ là những người mà họ có thể chấp nhận được trong chính phủ ấy?”
Vài ngày sau, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp người bạn Hung Gia Lợi của tôi mà nói: “Đấy, tôi đã chuyển đạt và thực hiện xong điều thứ nhất của ông. Chúng tôi vẫn chưa nhận được hết câu trả lời dứt khoát. Còn ông đã có đề nghị nào về những tên người mà tôi hỏi hay chưa?” Anh ta đáp: “Vâng, thực ra tôi đã có. Nhưng tên người Việt, tôi dở lắm. Để tôi viết ra.” Anh ta lấy một quyển sổ tay con, bắt đầu viết một số tên. Tôi đáp: “Thú vị nhỉ. Tất nhiên tôi sẽ tiếp tục xúc tiến câu chuyện lần trước giữa chúng ta, tôi sẽ trở lại gặp ông.” Nhưng anh ta nói: “Tôi có thêm vài lời nữa từ các đồng nghiệp của tôi ở đây. Họ nói khi họ bảo mọi chuyện cần phải thu xếp cho sớm, điều ấy có nghĩa là trong vòng vài ngày, chứ không phải vài tuần đâu.” Ông đại sứ tỏ ra có thiện cảm với chuyện này. Ông nghĩ có thể chúng tôi thực hiện được một cái gì chăng. Nhưng chúng tôi đã gặp phản ứng tiêu cực của Kissinger, là người không muốn có chuyện thương thảo gì hết.
Đến ngày 26 hoặc 27 tháng Tư, chúng tôi gặp nhau lại, lần này anh chàng Hung Gia Lợi nói: “Tôi nghĩ muộn quá rồi.” !
Đấy, tôi kể cho các bạn nghe mấy chuyện này bởi vì tôi muốn nhấn mạnh thật ra không bao giờ chúng tôi thương thảo với đối phương, cũng không bao giờ làm điều gì đối phương đòi hỏi. Việc ông Thiệu từ chức là vì những lý do hoàn toàn khác, không liên hệ đến mấy chuyện này, nhưng tôi đã vờ vịt với họ, làm như chuyện ông Thiệu từ chức có liên hệ đến mấy chuyện ấy mà thôi.
Thiệu từ chức ngày thứ hai 21 tháng Tư. Ông đại sứ không yêu cầu Thiệu từ chức, nhưng vào ngày 19 tháng Tư sau khi ông đại sứ nói chuyện với Thiệu, thì hiển nhiên Thiệu đã mất hết tin tưởng vào mọi người, vì mọi người xem Thiệu như chướng ngại vật trong cuộc dàn xếp, trong các thủ tục ngưng chiến, mọi người không có thể cục cựa gì nếu Thiệu cứ luẩn quẩn bên cạnh.
Một bữa đại sứ gọi tôi vào văn phòng nói ông mới gặp Tổng thống Hương, Tổng thống không được thoải mái vì sự tiếp tục có mặt của Thiệu ở trong xứ. Ông cụ Hương nghĩ sự hiện diện của Thiệu làm giảm uy quyền của ông, chừng nào Thiệu còn ở đây thì ông cụ tê liệt không làm gì được cả. Ông cụ khẩn thiết yêu cầu đại sứ Martin lo liệu hộ vì lẽ chỉ Hoa Kỳ mới ở vị thế giúp được chuyện này. Việc đưa Tổng thống Thiệu ra khỏi xứ cần thực hiện tuyệt đối trong vòng “Tối mật!” Vâng, đại sứ Martin là người đầy lý trí, khi nghe cái gì “Tối mật” tất ông nghĩ đến “CIA Trung ương Tình báo,” thế là ông hỏi: “Anh làm được không?” Tôi bảo “Thưa đại sứ, tôi làm được. Với một điều kiện. Ấy là: để yên cho tôi lo. Cứ giao việc để tôi xoay sở, nhưng đừng đem cả một ủy ban dính vào đây.” Việc này xảy ra ngày 24 tháng Tư thì phải.
Mọi sự được xúc tiến nhanh chóng ngay sau đó. Tôi biết tôi có thể thu xếp máy bay ở đâu. Tôi lấy tướng Timmes là điểm liên lạc chính. Vào lúc này Thiệu đã rời căn nhà trong Tổng Tham mưu. Các tướng lãnh cao cấp Việt Nam đều có nhà trong căn cứ Tân Sơn Nhất. Chúng tôi đồng ý là với một kế hoạch hành động, cũng có đôi điều cần phải quan tâm: Phải quan tâm công luận. Phải lo ngại chuyện một số quân nhân vô kỷ luật của Nam Việt Nam có thể can thiệp, vài sĩ quan cao cấp có thể manh nha trong đầu cái ý nghĩ làm lịch sử. Cũng phải lo ngại cả chuyện cảnh sát chặn trên đường ra Tân Sơn Nhất, việc này tuy không liên quan gì đến chuyện Thiệu đi, nhưng cảnh sát thường có những điểm chặn trên đường, nên chúng tôi phải bày việc đi dự tiệc trong căn cứ Tham mưu Liên quân. Chúng tôi lấy vài chiếc xe Mỹ kiểu tiêu chuẩn, màu đen, gồm cả xe đại sứ, xe tôi, xe phụ tá của tôi, đủ để chở từ mười đến mười hai người, kể cả các tài xế, tướng Timmes, tôi, và các hành lý- Chúng tôi dặn rõ mỗi người chỉ được mang một vali. Chúng tôi dàn xếp tất cả sẽ gặp nhau tại nhà thủ tướng Khiêm, bởi vì đây là căn nhà lớn nhất, ít bị chú ý hơn là nhà ông Thiệu. Chúng tôi đồng ý sẽ cho máy bay đi Đài Loan, nơi người anh của Thiệu làm đại sứ, như thế ông ta sẽ thu xếp được với nhà cầm quyền Đài Loan để mọi người được nhập nội. Thủ tướng Khiêm cũng từng là đại sứ ở Đài Loan, như thế ông ta cũng có nhiều liên hệ. Khi chọn Đài Loan làm điểm đến, tôi cũng cân nhắc rằng chuyến máy bay DC-6 chỉ có thể bay xa nhất bấy nhiêu, mà khỏi cần đổ thêm xăng.
Tôi chọn vài người làm tài xế mà tôi xem như những tay bảnh nhất, đáng tin cậy và vững chãi nhất. Tôi không lựa tài xế người Việt-Frank Snepp là một trong các tài xế ấy. Tướng Timmes, vì cấp bực của ông, không thể lái xe, tôi cũng thế, cấp bực của tôi không cho phép tôi lái xe. Tôi kiếm một đại tá cảnh sát, cũng là đại tá quân đội, tôi nói: “Cần phải có một người với cái vẻ chỉ huy lẫm liệt.” Tôi dự phòng trường hợp lính gác hạch hỏi gì chăng. Phòng xa thế, chứ tôi biết khi lính gác nhìn thấy bốn cái xe Mỹ do Mỹ lái thì họ sẽ bảo “Các tay tổ đây,” khi nhận ra xe Đại sứ, họ sẽ bảo “Ông đại sứ đi họp” chắc chắn thế, chả trở ngại gì, nhưng phải có một đại tá quân đội cảnh sát để dự phòng cho vững. Chúng tôi không biết Thiệu sẽ mang theo những ai. Chỉ biết một mình ông Thiệu sẽ đi, Khiêm sẽ đi, không biết còn ai khác. Cho nên cứ mang theo một số giấy tờ để trống, rồi tướng Charlie Timmes sẽ điền tên họ vào bằng tay.
Chúng tôi đưa cả cho viên đại úy trên máy bay, bảo: “Khi đến Đài Loan chúng tôi sẽ thông báo cho các giới chức quân sự Mỹ. Anh cứ yêu cầu gặp các sĩ quan cao cấp, và đưa tận tay chiếc phong bì này. Tất cả giấy tờ ở trong ấy.” Trong lúc đó một xe khác chở đại sứ chạy thẳng đến chiếc máy ba
y vì đại sứ muốn đến chào tạm biệt Thiệu. Tôi nói với đại sứ: “Tôi không muốn đi cùng một xe với đại sứ trong thành phố vì chỉ tạo thêm nhiều rủi ro phiền phức.” Cho nên tôi nhớ chúng tôi đã đổi xe. Tất cả diễn ra chính xác như một cái đồng hồ Thụy Sĩ, cũng như khi chúng tôi thực hiện các điệp vụ. Chúng tôi đã đưa mọi người đến máy bay an toàn, vào máy bay an toàn, sau đó sẽ cất cánh an toàn.
Tôi ngồi chung xe với thủ tướng Khiêm, chứ không ngồi với Thiệu. Tôi nhớ tướng Timmes ngồi với ông Thiệu. Mọi người đều kiềm chế cảm xúc, không ai khóc. Gia đình họ đều đã đi cả. Thực ra, có một điều làm tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên vì trong tất cả các cộng sự viên thân tín gần gũi, ông Thiệu không mang theo ai, trừ thủ tướng Khiêm. Điều này rất lạ vì chỉ mới vài năm trước tại khắp các quán cà phê ở Sàigòn người ta sì sào bàn tán chuyện chia tay giữa Thiệu và Khiêm, chuyện ông này sẽ hất ông kia vân vân…Tất nhiên tôi không đánh giá cao mấy chuyện ấy vì lẽ tôi có liên hệ rất tốt với thủ tướng, tôi luôn luôn coi ông như một viên chức tận tụy trung thành với Thiệu. Tổng cộng gồm mười bốn người đi ra chuyến bay đêm ấy. Tất cả đều là đàn ông.
Tôi luôn dè chừng trường hợp có người nhận ra ông Thiệu ở các trạm kiểm soát, nhưng tôi cũng tính toán: Người ta đã quen cách di chuyển cố hữu của ông Thiệu trong thành phố bằng một chiếc xe Mercedes cũ kỹ, khác với đây là bốn chiếc xe Hoa Kỳ của toà đại sứ có bộ dạng quan trọng. Bấy giờ trời tối, việc chặn xét bốn chiếc xe Hoa Kỳ là việc ít khi xảy ra. Dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice của đại sứ có vỏ chắn đạn, tôi ngồi trong xe này, có viên đại tá cảnh sát đi kèm. Mối e ngại nhất của tôi là lỡ ở trạm gác, cảnh sát soát căn cước, bật đèn pha soi vào chúng tôi thì sao? Như thế họ sẽ nhận ra ông Thiệu và thủ tướng. Nhưng rồi việc xảy ra là khi thấy bốn chiếc xe với bộ dạng quan trọng như thế chạy đến trạm, mấy người lính canh nghiêm chỉnh giơ tay chào. Đúng là điều tôi mong đợi. Có lần tôi đã đưa một nhân vật trọng yếu đào thoát từ Tây Bá Linh bằng một chiếc xe lớn tựa như vậy, tôi cũng tính rằng lính Liên Sô sẽ chào kính khi họ thấy chiếc xe, và quả thật họ đã làm y vậy.
Đêm hôm ấy, Thiệu không hề đem theo vàng xuất ngoại. Câu chuyện ấy chỉ là chuyện cứt khô! Ai điên khùng gì mà lại gói vàng bỏ lỏng lẻo trong va li, trời đất. Tôi muốn nói, tôi có một người bạn Việt Nam đã mang vàng đi, tôi biết vàng phải được bọc chặt chẽ cẩn thận, quấn bằng vải, bằng dây cao su, bằng băng keo, đủ các thứ. Có ai lại để cho vàng kêu lách cách trong hành lý bao giờ. Thực ra số vàng dự trữ của Việt Nam vẫn ở trong xứ, khi quân Bắc Việt đến, vàng vẫn ở đấy. Số vàng dự trữ của ngân hàng quốc gia Việt Nam trị giá từ 18 đến 20 triệu mỹ kim. Trị giá thực sự của số vàng ấy đúng ra cao hơn nhiều, vì lý do giá vàng chỉ được tính có 35 mỹ kim một ounce (0.28g)/ Đó là cái giá tại Việt Nam trước thời Nixon phá giá đồng mỹ kim. Còn vào năm 1975, giá vàng thực ra ở mức 170 Mỹ kim một ounce. 
Bấy giờ đã có lúc Nam Việt Nam không còn tín chỉ trên thế giới nữa, quốc hội Mỹ thì lừng khừng từ chối yêu cầu viện trợ, và như thường lệ, đại sứ Martin đã đưa ra sáng kiến nóng hổi: Ông nghĩ Nam Việt Nam nên gửi số vàng ấy sang quỹ dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, dùng sổ vàng ấy ký quỹ mà mua chịu võ khí. Vâng, Thiệu đã chấp thuận đề nghị. Tình cờ có chuyến bay chở hàng của Thụy Sĩ thuộc hãng Basel Air đang ở Sàigòn, Nam Việt Nam thương lượng với Basel Air mang số vàng này đi dưới hình thức hàng hoá thương mại thông thường. Mấy người Thụy Sĩ suy nghĩ một hai ngày rồi từ chối không nhận chở, vì lý do bảo hiểm. Họ bảo không cách gì kiếm ra ai chịu bảo hiểm số 70 triệu Mỹ kim vàng ra khỏi Sàigòn. Người ta lại phải tính đến không quân Hoa Kỳ. Việc này được đem thảo luận tại Hội Đồng An ninh Quốc gia. Chở một tấn rưỡi vàng đối với không quân Hoa Kỳ không khó, nhưng tìm đâu ra mối bảo hiểm thương mại khi người ta lại sử dụng máy bay quân đội; chấm hết!
Cái củ khoai nóng nuốt không trôi lại được ném lên bắp vế mấy anh trạng sư ở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Suốt thời gian này đống vàng vẫn nằm yên tại Ngân hàng Quốc gia ở Sàigòn. “Làm thế nào kiếm cho ra mối chịu bảo hiểm chuyến hàng này nếu chúng ta chở đi bằng máy bay quân sự?” Đó vẫn là cái đề tài làm bù đầu mấy anh trạng sư suốt mấy hôm. Trong lúc ấy Thiệu từ chức, một tốp người mới vào nắm quyền, cụ Hương hôm đầu thì bảo ừ, chở đi, hôm sau lại bảo đừng, đừng chở nữa. Cuối cùng cụ kết luận thôi tốt nhất cứ giữ lấy vàng ở Sàigòn, bởi vì kể từ khi đại sứ Martin bắt đầu nói chuyện này, cho đến lúc ấy tình hình đã biến đổi, dẫu cho có ký thác vàng để lấy vũ khí Mỹ, vũ khí không còn đến kịp và cũng chả giúp ích gì nữa. Ngoài ra họ cũng còn giữ được thể diện khi để lại số vàng ở trong xứ. Như thế, số vàng đã được để lại.
Đêm hôm ấy, cũng là đêm tôi dự buổi dạ tiệc quốc tế cuối cùng ở Sàigòn. Buổi dạ tiệc được tổ chức tại tư thất đại sứ Ba Lan nhân dịp giới thiệu viên Trưởng ngành chính trị Ba Lan với các ngoại giao đoàn. Mọi người đều có mặt. Tất cả các đại sứ còn ở tại Sàigòn đều được mời, và ông Ba Lan mới đến nói ông ta rất mong mỏi gặp tôi. Ông ta bảo rõ rệt chúng tôi đang ở vị trí lưỡng tương hoán chuyển, ông ta muốn biết quan điểm của tôi đối với tình hình. Chúng tôi bèn hẹn nhau một buổi ăn trưa vào một tuần lễ sau ngày hôm ấy. Ngày ấy sẽ là nhằm ngày mùng một tháng năm! Giữa tất cả những chuyện trông ngóng, tôi đã trông ngóng đến ngày mùng một tháng Năm ấy để gặp mặt ông bạn đồng nghiệp người Ba Lan của tôi!
Đại sứ Martin không phải là người thích tiệc tùng, nhưng trong trạng thái bồn chồn của thành phố đêm hôm ấy, ông bảo: “Tôi sẽ đi dự, nhưng đi riêng xe nhé.” Vì vậy tôi quay trở lại căn phòng gửi một điện văn. Điện văn này tôi đã viết sẵn, chỉ cần dùng điện đài để đánh mật mã mà phụ tá của tôi và tôi đã giao ước trước. Suốt một ngày làm việc, đấy là tất cả những gì tôi cảm thấy sau khi hoàn tất việc đưa ông Thiệu ra đi.
Ngày rời Sàigòn là ngày tôi buồn rầu cùng cực, chỉ thiếu điều muốn sụm.
Đoạn kịch cuối mở màn ngày thứ hai. Chiều thứ hai là một buổi chiều rất xấu. Dương Văn Minh nhậm chức đêm hôm ấy. Ông vừa đọc xong bản diễn văn nhậm chức, thì giông bão khủng khiếp ập đến Sàigòn. Mưa rơi xối xả. Những cơn mưa đến sớm, lúc ấy chưa đến mùa mưa. Rồi xảy ra vụ chiếc phi cơ phản nghịch, tức là chiếc phi cơ Mỹ với bình xăng phụ 50 ga-lông do mấy phi công dưới sự điều động của Bắc Việt dội bom lên Tân Sơn Nhất. Lúc ấy chúng tôi còn ở tại văn phòng. Mặc dầu đã khoảng bảy giờ đêm, chúng tôi vẫn còn ở đấy vì lúc này Sàigòn ban đêm chẳng có gì khác để làm, thứ nữa Sàigòn và Hoa Thịnh Đốn cách nhau mười hai tiếng, lúc ấy buổi sáng ở Hoa Thịnh Đốn, chúng tôi cố chuyển càng nhiều điện văn càng tốt, để khi bắt đầu làm việc, Hoa Thịnh Đốn đã có đủ thông báo của chúng tôi.
Khi nghe tiếng nổ, chúng tôi đâm bổ xuống núp dưới gầm bàn. Bấy giờ, tôi nhớ tôi đang ở trong phòng viên Trưởng ban Truyền tin. Nhân viên truyền tin là những người lo phụ trách các báo cáo tình báo để gửi đi bằng điện đài.
Chúng tôi rất thận trọng việc soạn thảo các điện văn này, luôn luôn sử dụng Anh ngữ một cách văn vẻ, sửa chữa kỹ càng, dù phải vội vã trong các trường hợp khẩn cấp, y như các phóng viên nhà báo vậy. Lúc ấy chúng tôi đang lom khom núp dưới gầm bàn, tôi sẽ không bao giờ quên kỷ niệm này: Một cô nhân viên truyền tin xinh đẹp hấp dẫn nhổm lên, kéo cái máy chữ xuống, cô ta bắt đầu đánh: “Sàigòn gửi Hoa Thịnh Đốn, bản báo cáo tình hình lúc 19 giờ địa phương. Một vụ pháo kích không xác định được xuất xứ đang phát nổ trong thành phố. Vụ pháo kích đang tiếp diễn quanh chúng tôi, vẫn chưa có ai biết chuyện gì xảy ra!”
Không bao lâu, chúng tôi xác định được chuyện ấy. Chúng tôi chắc chắn đây là câu trả lời của quân đội Bắc Việt phản ứng lại bài diễn văn nhậm chức của ông Minh. Trong bài diễn văn này, ông ta nói ông sẽ tiếp tục chiến đấu, nói đủ thứ lảm nhảm mà một tháng trước đấy ông ta không hề nói. Tôi nghĩ cái hình ảnh chính xác để mô tả ông là hình ảnh một người không đủ tài cán được đặt vào một chức vụ quá khả năng, làm mọi người phải mệt với sự bất lực của ông ta.
Trong tuần lễ cuối cùng, Sàigòn vẫn sinh hoạt tốt đẹp mặc dầu có trận không kích xảy ra. Điện, điện thoại, thực phẩm vẫn đầy đủ, có lẽ chỉ hơi thiếu chút rau xà-lách.Tối ấy tôi đi ngủ muộn, bốn giờ rưỡi sáng đã bừng dậy vì lại có tiếng nổ, lần này nổ lớn dữ dội. Tôi điện thoại cho nhân viên trực của tôi ở toà đại sứ, một nhân viên tình báo; ở đấy, ngoài lính Thủy quân Lục chiến, chúng tôi luôn có hai nhân viên trực suốt ngày đêm. Tôi hỏi anh biết có chuyện gì xảy ra không? Anh ta nói lúc ấy chưa biết rõ, nhưng có pháo kích vào Tân Sơn Nhất, Thủy quân Lục chiến đã trèo lên nóc nhà nhìn thấy có lửa cháy, anh ta đã liên lạc văn phòng Tùy viên Quân sự, họ cũng chưa biết gì đích xác. Nhưng đã có một số thiệt hại đáng kể, hai lính Thủy quân Lục chiến tử thương. Tôi bảo: “Được rồi, tình trạng nghe có vẻ tệ, nhưng có anh đang ứng trực ở đấy là tốt lắm.” Tình cờ, chính nhân viên này cũng là sĩ quan trưởng phòng tài chánh. Tôi bảo: “Sửa soạn mấy cái phong bì khởi hành.” Phong bì khởi hành là những phong bì có đựng một số chỉ dẫn, số điện thoại của những toà đại sứ Mỹ các nơi và tại vùng Đông Á. Mỗi phong bì được bỏ vào số tiền 1500 đô la bằng mỹ kim và bằng một số ngoại tệ các nước khác. Mỗi người sẽ được trao tay một phong bì này để phòng vệ an toàn, dự phòng trường hợp thất lạc. Tôi bèn nói với anh nhân viên trực: Tôi sẽ đến toà đại sứ ngay.
Tôi là người đến sớm nhất. Lúc ấy Thủy quân Lục chiến đã nhận thêm báo cáo từ văn phòng Tùy viên Quân sự. Dựa vào đấy tôi cảm thấy toà đại sứ cần phải được huy động. Tôi điện thoại cho Đại sứ, tôi nói: “Rất tiếc phải gọi Đại sứ vào giờ này- Ông còn có thể được ngủ đến hơn 3 tiếng đồng hồ nữa. Nhưng tôi nghĩ Đại sứ cần phải vào gấp.” Ông Đại sứ bảo ông sẽ vào. Lúc ấy, chúng tôi có một hệ thống tổ chức: cứ một người gọi bốn người, mỗi người lại phải liên lạc gọi bốn người khác v.v…Nên tôi bắt đầu huy động mọi người qua hệ thống này. Buổi sáng sớm hôm ấy, tình trạng sức khoẻ của Đại sứ rất bết bát. Ông đau ốm khặc khừ, và sau này, lúc lên đến chiến hạm, người ta mới khám ra là ông bị viêm phổi. Giọng ông khản đặc, khào khào không ra tiếng. Tinh thần bị kích động trăm phần trăm. Khi Kissinger gọi điện thoại, Martin không nói nổi, ông thì thà thì thào rồi tôi phải nhắc to lên cho Kissinger nghe rõ.
Đại sứ đã ra tận phi trường Tân Sơn Nhất, bởi vì ông ta là Graham Martin mà, bạn hiểu không, mặc dù đã có đến mấy ông tướng Không quân phụ trách ngoài phi trường, ông vẫn không chịu tin các lượng giá của họ về việc phi cơ không còn đáp xuống được nữa. Ông đòi phải đích thân đến phi trường xem xét rồi mới chịu!
Ngày hôm ấy khi trời sáng, ngoài Đệ Thất Hạm đội các phi công đã sẵn sàng, trực thăng xăng nhớt đầy đủ, mọi người chuẩn bị xong. Nhưng chừng tám giờ rưỡi, chúng tôi lại được bảo không di tản nữa! Họ bảo chúng tôi sẽ phải thu hẹp số nhân viên, nhưng vẫn giữ toà Đại sứ ở Sàigòn. Họ bảo nhân số toà đại sứ sẽ còn lại 180 người, trong số ấy 50 người sẽ là nhân viên tình báo, nhóm nhân viên tình báo này có nhiệm vụ phụ trách toàn bộ các đường truyền thông của toà đại sứ. Họ bảo các trưởng ban, trưởng phòng khác sẽ nhận lệnh sắp xếp: kinh tế 8 người, chính trị 16 người, y tế, tài chánh, hành chánh…do nơi Hoa Thịnh Đốn xếp đặt. Người ta đoán chừng lệnh này do Kissinger chuyển đến ông đại sứ. Tôi không bao giờ nhìn thấy lệnh ấy trên văn tự, nhưng lệnh ấy được chuyển đến tôi sáng hôm ấy do đại sứ nói. Do đó tôi về văn phòng, tập họp các nhân viên cao cấp của tôi, lúc ấy tôi còn chừng 250 nhân viên tình báo tại chỗ. Tôi nói: “Quý bạn, chúng ta sẽ rút nhân số xuống 50 người, và sẽ phải đương đầu với một số lượng truyền thông nhiều hơn thường. Nào, bây giờ tính thử 50 người nào sẽ ở lại, bắt đầu là tôi!” Chuyện này không dễ dàng như thay lính Thủy quân Lục chiến bởi lẽ nhiều khi nhân viên tình báo không thể hoán chuyển. Mỗi người có những khả năng chuyên biệt. Người là nhân viên truyền tin. Người là nhân viên điều hành. Người là phân tích viên.
Tôi lại cần người với các khả năng ngoại ngữ khác nhau. Tôi cần phải giữ vài người nói được tiếng Việt. Phải có vài người nói được tiếng Ba Lan, để giao dịch với nhân viên Ba Lan tại ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Về tiếng Hung Gia Lợi thì khỏi lo, chẳng ai khác ngoài tôi nói được thứ tiếng này. Cứ như thế, suốt mấy tiếng đồng hồ loay hoay xếp đặt. Lại còn phải cân nhắc trường hợp những người đã mãn hạn, có người sắp được hồi hương vào tháng năm, cho dù anh ta mãi đến tháng Bẩy mới mãn hạn, cũng không nên giữ anh ta lại. Có người gặp tình trạng gia đình. Nhiều thứ phải cân nhắc, không để giống như hồi năm 1954 ở Hà Nội, toà lãnh sự Mỹ và các nhân viên ở đấy dù không bị giữ làm con tin, nhưng họ đã tự phong tỏa, tự khoá cửa và phải ở trong khuôn viên hàng mấy tháng, không liên lạc đuợc với ai.
Cái khẩu lệnh ấy cũng đã được chuyển ra ngoài hạm đội: Toà Đại sứ sẽ ở lại. Tư lệnh hạm đội, đề đốc Noel Gayler, tất nhiên không phải là chuyên viên phân tích chính trị. Nghe thế, ông ta bèn nói “Vậy à, toà
Đại sứ ở lại. Phi công! Trở về giường mà phè một giấc!” Thế là xăng lại được hút khỏi trực thăng, vì người ta không được phép chứa trực thăng có xăng ở trên tàu. Người ta lại phải chuyển trực thăng khỏi sàn máy, đưa xuống tầng dưới.
Bấy giờ là 9 giờ sáng, hoặc giả trễ hơn một chút. Rồi đến 11 giờ 30, cuối cùng lại có lệnh ban ra: Tất cả mọi người phải di tản. Tôi không rõ lệnh này chuyển đến đề đốc hạm đội lúc nào. Đại sứ Martin nhận lệnh lúc 11 giờ 30. Xem như cố vấn an ninh Brent Scrowcroft phải thông báo Ngũ Giác đài, nhưng bấy giờ là đang đêm ở Hoa Thịnh Đốn, có lẽ người làm việc không có mặt. Tôi không rõ đề đốc nhận lệnh ấy lúc mấy giờ. Sau này tôi hỏi ông ta trên chiến hạm: “Chuyện gì xảy ra vậy?” Ông ta đáp: “Chẳng có chuyện gì. Khi nhận tin di tản, tôi cho trực thăng đổ xăng, tôi gọi phi công, rồi lại được yêu cầu phải gửi một lực lượng an ninh Thủy quân Lục chiến vào Sàigòn trợ giúp di tản, nhưng lính không có mặt trên những tàu chở trực thăng. Vì thế lại phải lo đưa lính từ khắp các tàu khác đến mấy chiếc tàu chở trực thăng. Mấy công tác ấy phải tốn thì giờ.”
Nếu bạn hỏi, tôi sẽ nói: Tôi chả ngạc nhiên gì việc này. Tôi rất hoài nghi khả năng quân đội Hoa Kỳ khi cần đương đầu tình trạng khẩn cấp. Họ làm việc kiểu con rùa hành chánh: chậm chạp, lè phè. Lấy đấy mà xem, họ đã được thông báo tình hình Sàigòn như vậy từ hai giờ trước, mà lính không đặt gần những tàu chở trực thăng, lại đưa tản mác trên những con tàu rải rác khắp mặt biển, thế là làm sao!
Còn một việc nữa cũng không được dự liệu trước. Đó là việc một khi tin tức người Mỹ rời Việt Nam truyền ra, là đông đảo người ta sẽ tụ khắp chung quanh toà đại sứ, việc di chuyển sẽ trở nên vô phương. Do đó làm sao còn có thể sử dụng xe hơi, xe buýt chở người qua lại giữa toà đại sứ và văn phòng Tùy viên Quân sự được, vì hễ mở cổng đủ rộng cho xe đi thì dân chúng sẽ như cuồng phong tràn vào.
Buổi sáng hôm ấy, chúng tôi bắt đầu thiêu hủy tài liệu. Trung ương Tình báo có một thể lệ rất tốt, đó là tất cả hồ sơ đều phải có một phó bản giữ ở Hoa Kỳ, cho nên nếu có một trạm tình báo nào mất hồ sơ thì chẳng hề gì, chỉ mất công chút đỉnh. Vì vậy chúng tôi tiêu hủy tất cả, chúng tôi đi khắp các văn phòng một cách có phương pháp để phá bỏ bất cứ tài liệu nào về những người Việt có liên hệ chặt chẽ với chúng tôi.
Về cái cây me nổi tiếng thì trong tất cả những buổi họp ở toà Đại sứ, qua mọi cuộc thảo luận, tôi chưa hề nghe ai nói, bàn gì về chuyện cưa cái cây này xuống. Tôi có nhiều tình cảm với cái cây me này chỉ vì đấy là một biểu hiệu đẳng cấp trong toà đại sứ: Dưới cái cây là một bãi đậu xe, đậu dưới bóng cây thì mát mẻ, đậu ngoài nắng nhiệt độ như lò lửa. Cho nên được đậu xe dưới bóng cây me ấy tức là biểu hiệu đẳng cấp cao của toà đại sứ! Nhưng trang nghiêm mà nói, chưa bao giờ tôi nghe cái cây này có liên hệ gì đến chuyện di tản. Còn hiển nhiên, chúng tôi sẽ phải mang trực thăng lớn vào bãi đậu xe, cái cây này mọc chính giữa bãi đậu, tất là sẽ phải hạ cái cây thế thôi.

Sáng hôm sau, khi đại sứ đã ra đi, không có chuyện gì để tôi ở lại nữa. Còn các nhân viên truyền tin của tôi không thể đi nếu tôi hãy còn nấn ná ở lại. Viên phụ tá của tôi và mấy người khác cũng bảo nếu tôi còn ở đấy, họ cũng chưa chịu đi. Tôi xếp đặt cho mọi người ra đi theo các thứ tự cần thiết, nói thế không phải là giảm giá người này người nọ, nhưng có người công việc đã xong thì đi trước, ví dụ nhân viên truyền tin không còn gì để làm nữa, những người phụ trách công tác vùng I, II, III cũng thế, các nhân viên hành chánh và quản trị nhân viên cũng có thể đi trước. Nhưng nhân viên lo việc vùng châu thổ vẫn còn cần, vì tôi chưa rõ hết tình hình vùng IV ra sao.
Theo phương pháp ấy tôi quyết định ai đi, đi lúc nào, mọi sự trôi chảy, không gặp phiền phức, không bị tràn ngập. Tuyệt đối tốt. Tuyệt đối không trở ngại gì. Có lẽ những chuyện cuối cùng đáng kể là chuyện chúng tôi kéo người Việt ở bên ngoài vào toà đại sứ qua bức tường. Lúc ấy quanh toà đại sứ có cả vạn người, đúng số là như vậy, với đám đông vây quanh, thật khó cho người ta đến gần toà đại sứ . Nhưng bên ngoài còn có những người mà chúng tôi bắt buộc phải đưa họ di tản, ví dụ người trưởng ngành tình báo, ông phụ tá Cảnh sát Đặc biệt mà thực tế là Cảnh sát Chính trị. Vợ và con của Trung tướng Tổng cục Trưởng Chiến tranh Chính trị. Ông Tổng Trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn. Ông Trưởng ban Nghi lễ và Gia đình. Tất cả đều ở ngoài toà đại sứ. Làm sao chúng tôi có thể mang họ di tản đây? Tôi không còn thể nào liên lạc được với họ. Nhưng phần ông Đôn cũng thu xếp vào được một chiếc trực thăng đậu đại trên một nóc cao ốc (nóc nhà này không được xây cất để trực thăng đáp, riêng đây tự nó cũng là một câu chuyện).
Còn một số người khác khoẻ mạnh, quả quyết hơn, lấn được đến rào, chúng tôi nhấc bổng được họ, đưa vào toà đại sứ. Bấy giờ trong đám đông bên ngoài có một số sĩ quan quân đội mà chúng tôi đã thỏa thuận: Nếu họ đưa vào được một số người mà chúng tôi muốn, thì sau cùng chúng tôi sẽ kéo họ vào cho họ đi. Chúng tôi cũng tìm được cách chuyển người đi qua đường phố Sàigòn bằng cách giao dịch, thỏa thuận với cảnh sát, chúng tôi bảo họ: “Cho gia đình các ông vào cùng với mấy người này, chừng nào các ông đưa được họ vào máy bay hay xe buýt an toàn, chúng tôi sẽ bốc các ông đi luôn.”
Những cuộc sắp đặt với cảnh sát có vẻ thần hữu hơn vì chúng tôi biết họ, tin họ, họ cũng tin cậy chúng tôi. Buồn cười nhất là vào ngày cuối cùng, người ta đã đưa một nhóm người di tản như thế bằng cả một đoàn xe mô tô màu trắng oai vệ của liên đoàn an ninh phủ tổng thống, nối đuôi nhau đi.
Tại sân toà Đại sứ, chúng tôi dùng xe hơi cho châu đầu vào phía giữa để khi trời tối thì chạy máy, rọi đèn pha lên, rồi cứ để như thế, hễ còn xăng, còn bình điện thì còn ánh sáng.

Rồi có lệnh chúng tôi phải đi và ông Đại sứ cũng được bảo: “Ngài phải vào chiếc máy bay này.” Còn chúng tôi, lúc đầu họ bảo trực thăng đậu dưới sân, tất cả chúng tôi xuống thang nhưng không thấy trực thăng đâu vì họ đã đổi chương trình, rồi họ lại bảo: “Trực thăng sẽ bốc từ nóc sân thượng.”

Tôi không có một gắn bó tình cảm nào quá lớn đối với Việt Nam như vài bạn đồng nghiệp của tôi đã quả tình yêu mến đất nước này. Nhưng đến giây phút cuối, nhìn thấy chung cuộc xảy ra thế ấy, tôi nghĩ chúng ta đã làm một việc tồi tàn đối với dân tộc này, đáng lẽ họ được khá hơn nếu đừng bao giờ chúng ta đến đây. Ngay từ lúc đầu.

Khi chúng tôi ra đi, trời đã rất tối. Phía Tân Sơn Nhất thấy vài đám cháy, nhưng nói chung ban đêm thành phố vẫn có vẻ bình thường. Đường vẫn sáng đèn, xe cộ vẫn sáng đèn. Thực kỳ dị, đó là một điều lạ lùng trong những ngày cuối cùng. Không phải chỉ những ngày cuối cùng mà suốt cả mấy tuần lễ cuối cùng, mọi sự đều có vẻ không thực, bởi vì tất cả vẫn cứ hiện ra một vẻ rất bình thường. Nó không giống như cuộc vây hãm ở Warsaw, bạn hiểu không. Một ngày trước hôm sụp đổ, bạn vẫn còn có thể ra nhà hàng kéo ghế, còn thưởng thức được một bữa thịnh soạn, vẫn có thể ngồi nhấm nháp một cốc rượu vang ngon lành.

Không có ai nã đạn khi chúng tôi ra đi. Đó là một chuyện khác nữa. Người Bắc Việt là những người có lý trí. Họ không giống những người Hồi giáo cực đoan cuồng tín. Họ không dại gì tạo ra một biến cố nào nữa để có cớ cho người Mỹ can thiệp trở lại; và nếu họ sát hại ông Đại sứ, việc này sẽ trở thành đại sự, ngay cả đối với quốc hội.

Việc tiếp nhận chúng tôi trên tàu USS Blue Ridge chứng tỏ quân đội Mỹ là hạng bét. Họ bắt đầu lục soát hết thảy mọi người. Tôi nghĩ có lẽ Đại sứ là người duy nhất họ không lục soát. Vào lúc bình thời, cấp bực của tôi còn trên xa cả đề đốc chỉ huy chiến hạm.
Nhưng không một ai phản đối gì. Chúng tôi đều mệt mỏi. Chúng tôi đều trầm lại. Và chúng tôi quả là một đoàn quân chiến bại.
Bản dịch của nhà văn NGUYỄN BÁ TRẠC.