16 tháng 5, 2015

TẠI SAO LẠI BỎ PLEIKU, KONTUM ? – Bùi Anh Trinh

Trích sách “Giải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh )

Tại sao lại bỏ Pleiku, Kontum ?
Tài liệu của CIA : “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” ( Frank Snepp, Decent Interval, trang 95 ).
Cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8-1974, John Murray họp buổi họp chót với Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng; Tướng Đồng Văn Khuyên, Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2, và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau bổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Bộ trưởng Bộ kế hoạch của VNCH thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “cắt đất theo lượng viện trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 39 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến ( tối kiến ) của Nguyễn Văn Thiệu.
Theo Tướng Cao Văn Viên, ngày 11-3 Tướng Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó :
“Quyết định của Tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
“… Tổng thống Thiệu phác họa sơ : …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cọng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá… …Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại… …” ( Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131 ).
“…VNCH không còn hy vọng nào. Một thực tế gần như hiển nhiên là HK không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với HK, cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” ( trang 132 ).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng thống Thiệu bỏ Kontum-Pleiku. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Tại sao không cho Mỹ biết ?
Tài liệu của CIA : “Lý cho Nicol biết ngày mai 14/3 tướng Phạm Văn Phú sẽ họp với tổng thống Thiệu tại Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Qui Nhơn trước để đánh lạc hướng. Lý hứa với Nicol có tin gì sau khi Phú đi họp về Lý sẽ cho hay” ( CIA và Các Ông Tướng, Bản dịch của Trần Bình Nam ).
Đại tá Lý là một điệp viên của CIA, được Tướng Cao Văn Viên đưa vào làm tham mưu trưởng của Tướng Phú. Lần này Tổng thống Thiệu muốn đánh lạc hướng theo dõi của CIA nhưng không ngờ mật thám của CIA đứng ngay sau lưng Tướng Phú. Do đó mưu tính đánh lạc hướng của TT Thiệu trở thành vô ích.
Tài liệu của Phạm Huấn : “Để bảo mật cho chuyến đi của ông Thiệu, nên đã không có một chuẩn bị nào tiếp đón ông và phái đoàn. Ngay cả một cái thang cao dùng cho loại máy bay lớn DC.6, DC.4 cũng không có.
Chiếc “biệt thự bay” tiến vào chỗ đậu. Một chiếc xe jeep được lái tới sát bên. Ông Thiệu và các tướng Khiêm, Viên, Quang lần lượt… “tụt” bằng đít khỏi chiếc DC.6 rồi bước lên mui xe !” ( Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, trang 80 ).
Hồi ký của Đại tá Phạm Bá Hoa : Ngày 15-3-1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo : “Đại tá Hoa tôi nghe”. – “Có ai ngồi gần anh không?” – “Dạ không, thưa Đại tướng”. Đó là Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cọng Hòa. Ông tiếp : “Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành”. – “ Vâng, tôi rõ thưa Đại tướng”… ….
Để giấu ai mà các nhà lãnh đạo VNCH phải khổ sở như vậy ? Chắc chắn không phải để che mắt báo chí hay CSVN, bởi vì che mắt báo chí hay CSVN thì không cần giấu CIA. Nhưng đằng này giấu cả CIA thì có nghĩa là không cho Mỹ biết.
Vấn đề còn lại là tại sao không cho Mỹ biết ? Câu trả lời là nếu Mỹ biết thì những người Miền Núi ở Tây Nguyên sẽ biết, và họ sẽ không để yên cho quân đội VNCH bỏ rơi họ.
Tài liệu The Final Collapse của Đại tướng Cao Văn Viên viết cho Ngũ Giác Đài là năm 1976, thuở đó còn nhiều sự thật chưa được phép tiết lộ, cho nên ông không giải thích vì sao các ông phải khổ sở giấu lén như vậy. Dĩ nhiên ít nhất trên đường đi từ Sài Gòn ra Đà Lạt rồi Cam Ranh Tướng Thiệu phải cho các tướng biết về ý đồ bỏ Cao Nguyên của ông và vì sao phải giấu người Mỹ : Đó là VNCH buộc phải bỏ rơi người Miền Núi.
Ngày nay lịch sử còn lại lời chứng của Tướng Phạm Duy Tất : Chuẩn tướng Tư lệnh phó Quân đoàn 2 Trần Văn Cẩm hỏi : “ Còn các tỉnh trưởng, lực lượng địa phương và dân chúng có tổ chức cho họ rút không?”. Phú trả lời: “Theo lệnh ông Thiệu, bỏ lực lượng này lại, không được thông báo cho các tỉnh trưởng, cứ để họ tiếp tục chống giữ. Khi chúng ta rút xong, ai biết thì biết. Địa phương quân toàn là người Thượng thì trả chúng về với cao nguyên” ( Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, Việt Nam thư quán ).
Dĩ nhiên khi Tổng thống Thiệu ra lệnh bỏ người Thượng lại Cao Nguyên thì ông và các tướng cùng đi đều biết rằng lực lượng địa phương là 45 ngàn cựu Biệt kích Mỹ ( CIDG, Dân Sự Chiến Đấu ). Sau khi quân Mỹ rút đi thì 45 ngàn quân này trở thành Địa phương quân và Biệt động quân Biên phòng. Danh tính 4 liên đoàn Biệt động quân Biên phòng của Quân khu II xuất thân từ Biệt kích Mỹ là Liên đoàn 21, Liên đoàn 22, Liên đoàn 24, và Liên đoàn 25 BĐQ.
Người Mỹ và lực lượng chiến đấu người Miền Núi có quan hệ với nhau như thế nào mà Tướng Thiệu không muốn cho người Mỹ biết ? Tài liệu của Nguyễn Tiến Hưng ( sau nhiều cuộc phỏng vấn cựu Tổng thống Thiệu ) cho biết : “…năm 1960 khi CIA ( Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ ) và Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ gởi người lên Cao Nguyên tổ chức và võ trang dân Thượng chống CS Bắc Việt. Người Mỹ cung cấp dược phẩm, súng đạn, thực phẩm, và xử sự như giới trung gian giữa người Việt và người Thượng…” ( Bí Mật Dinh Độc Lập trang 444 )
Và : “Để bảo vệ an ninh cho cuộc rút lui này, ông Thiệu ra lệnh bảo mật tối đa, để các lực lượng địa phương, phần lớn là dân Thượng, không biết trước về vụ này.
Ngay sau khi 200 chiếc xe vận tải đầu tiên rời khỏi Pleiku đã được tung ra khắp tỉnh. Đám người Thượng thấy mình bị bỏ rơi bèn quay mũi súng về đoàn quân đang tháo lui…” ( trang 449 ).
Vậy thì đã rõ, nguyên nhân của việc tạm giấu người Mỹ là vì người Mỹ có trách nhiệm với các dân tộc Miền Núi cho nên họ sẽ không chấp nhận chuyện bỏ rơi người Miền Núi, chắc chắn họ sẽ thông báo cho các lực lượng cựu Biệt kích Mỹ biết để họ tự lo cho dân tộc của họ. Dĩ nhiên một khi các lực lượng vũ trang của người Miền Núi tự lo thì chỉ còn có cách là bắt giữ các sĩ quan và công chức người Kinh làm con tin, để làm áp lực buộc chính phủ Sài Gòn không được bỏ rơi họ.
Tài liệu của Nguyễn Tiến Hưng cho biết sáng ngày 16-3 thì người Miền Núi biết tin VNCH rút khỏi Cao Nguyên. Nhưng nếu so lại với tài liệu “CIA and The Generals” của CIA thì mới lòi ra sự thật đau lòng : Sáng ngày 15-3 chính Lê Khắc Lý báo cho người Mỹ biết kế hoạch mật của VNCH và sau đó người Mỹ đã báo cho lực lượng vũ trang của người Miền Núi biết. Mọi chuyện trở nên loạn là từ lúc này; loạn tại Kon Tum, loạn tại Pleiku, loạn tại Phú Bổn, loạn trên LTL.7 …
Kế hoạch của Tổng thống Thiệu và kế hoạch của Tướng Phú chủ yếu dựa trên yếu tố bí mật và bất ngờ. Thế nhưng hành vi phản bội của Lê Khắc Lý đã làm đảo lộn tất cả, cuộc rút quân đã biến thành cuộc chạy loạn.
Lực lượng vũ trang của người Miền Núi
Liên đoàn 22 BĐQ tại Kon tum do Trung tá Bùi Văn Huấn chỉ huy, nhưng liên đoàn này có nguồn gốc là 3 tiểu đoàn cải tuyển từ Lực lượng Biệt kích Mỹ, tất cả gia đình của họ đều sinh sống tại Kontum và Pleiku cho nên họ không có lý do gì để di tản. Họ phải ở lại buôn làng của họ. Đây là một đòi hỏi chính đáng và hợp lý. Nhưng một khi đòi hỏi của họ không được thỏa mãn thì sẵn súng trong tay họ phải dơ súng ra để làm áp lực, và cuối cùng trong cơn tức giận họ đã thanh toán các cấp chỉ huy người Kinh để trị tội đã bỏ rơi các dân tộc Miền Núi.
Cùng có nguồn gốc như Liên đoàn 22 BĐQ là Liên đoàn 21, 24, 25. Nhưng Liên đoàn 21 BĐQ do Trung tá Lê Quý Dậu chỉ huy đã cởi áo tan hàng tại Phước An, Ban Mê Thuột vào ngày 16-3. Trong khi đó Liên đoàn 24 BĐQ do Trung tá Hoàng Kim Thanh chỉ huy, bị kẹt lại Quảng Đức sau khi BMT thất thủ cho nên binh lính trong Liên đoàn nghe theo Trung tá Thanh (và sau đó là Thiếu tá Vũ Mộng Long ), đưa toàn Liên đoàn về Bảo Lộc để rồi hy vọng sẽ theo đoàn quân tái chiếm BMT. Còn Liên đoàn 25 BĐQ do Đại tá Đặng Hưng Long chỉ huy cũng là một Liên đoàn Biệt kích cải tuyển, được dự trù sẽ đi trong ngày chót của kế hoạch di tản. Nhưng đến giờ cuối Liên đoàn tan hàng tại Thanh An, phía Tây của Pleiku.
Ở đầu đoàn di tản có Tiểu đoàn 34 của Liên đoàn 6 BĐQ của Trung tá Khánh. Đây là Liên đoàn trừ bị của TTM tại Sài Gòn, hầu hết là người Sài Gòn, Tây Ninh. Trong tháng 3 năm 1975 BCH Liên đoàn 7 BĐQ cùng 2 tiểu đoàn trực thuộc từ Pleiku di chuyển xuống Bắc Bình Định để trấn giữ đèo Bình Đê thay thế cho Liên đoàn 4 BĐQ , chỉ còn Tiểu đoàn 34 BĐQ trụ lại ở Trung Nghĩa để tiếp tục trấn giữ Quốc lộ 19, cách Pleiku khoảng 20 cây số. Tại Trung Nghĩa lúc đó còn có 1 Thiết đoàn Kỵ binh đang chuẩn bị hành quân giải tỏa Quốc lộ 19 đang bị CSVN chiếm đóng tại đèo An Khê. Trong ngày đầu di tản, Tiểu đoàn 34 BĐQ do Thiếu tá Trịnh Trân chỉ huy được lệnh theo Thiết đoàn Kỵ binh di chuyển về Pleiku rồi xuống Phú Bổn.
Ở giữa đoàn di tản có Liên đoàn 7 BĐQ do Đại tá Nguyễn Kim Tây chỉ huy, là Liên đoàn trừ bị của TTM tại Sài Gòn cho nên binh sĩ trong Liên đoàn trở thành lực lượng chính để giữ gìn an ninh trật tự cũng như bảo vệ an ninh cho đoàn di tản. Ở cuối đoàn quân có Liên đoàn 4 BĐQ do Đại tá Vũ Phi Hùng chỉ huy cũng là Liên đoàn trự bị của Bộ TTM tại Sài Gòn. Liên đoàn 4 có gốc gác là Liên đoàn chủ lực của Quân khu 4 cho nên đa số binh sĩ là người Miền Tây Nam Bộ.
Trách nhiệm an ninh trục lộ cho đoàn di tản tại Phú Bổn được giao cho Liên đoàn 23 BĐQ do Đại tá Lê Tất Biên chỉ huy. Liên đoàn này xuất thân từ tiểu đoàn BĐQ đầu tiên được thành lập tại Cao Nguyên, hầu hết binh sĩ là người Kinh, gia đình, thân nhân sinh sống tại Pleiku, Kontum. Liên đoàn lên đường cùng với Lữ đoàn 2 Thiết giáp vào ngày đầu của chiến dịch nhưng sĩ quan và binh sĩ chỉ nhận được lệnh là hành quân xuống Phú Bổn để từ đó đánh qua Khánh Dương, tái chiếm Bam Mê Thuột.
Ban đầu Đại tá Biên đã cho bố trí Tiểu đoàn 11 BĐQ tại đèo Tu Na, Tiểu đoàn 23 tại đèo Tử Sĩ, Tiểu đoàn 22 đóng ở phía Tây thị xã Hậu Bổn để bảo vệ toàn bộ thị xã. Nhưng trong đêm 17-3 binh sĩ của Liên đoàn biết được tin Pleiku, Kontum di tản trong khi gia đình của họ đang còn kẹt ở lại cho nên họ nổi loạn uy hiếp các xe quân vận phải chở họ trở lại Pleiku. Đại tá Lê Khắc Lý đích thân tới giải quyết nhưng bị binh sĩ BĐQ đòi bắn nên ông ta rút lui về báo cáo cho CIA tại Sài Gòn là thị xã Hậu Bổn đã hỗn loạn vô phương cứu vãn (sic).
Ngoài các liên đoàn BĐQ, tại Phú Bổn còn có các tiểu đoàn và đại đội ĐPQ, tất cả đều là người Miền Núi, cũng có nguồn gốc từ các đại đội Biệt kích Mỹ. Khi biết được quân đội VNCH sẽ bỏ Cao Nguyên thì họ rất tức giận, cho rằng người Kinh đã phản bội họ, cho nên có một số đã xả súng bừa vào đoàn di tản để trút hận.
Tại Sài Gòn, một nhà báo nổi tiếng của Pháp là Paul Leandri đã nhanh chóng loan tin tàn sát cấp chỉ huy người Kinh ra toàn thế giới cho nên ông ta bị bắt ngay và bị bắn chết trong một đồn cảnh sát. Cơ quan CIA (Frank Snepp) loan tin rằng ông ta bị bắn do chạy ra một chiếc xe toan trốn khỏi nơi bị giam. Tuy nhiên không ai tin rằng một nhà báo gạo cội lại ngu xuẩn đến như vậy. Chính tin tức mà ông muốn loan đã hại ông ta :
Sở dĩ Leandri bị giết bởi vì trong khi mà 3 Liên đoàn Biệt Động Quân gốc Biệt kích Mỹ thanh toán các cấp chỉ huy người Kinh thì cùng lúc đó, tại Sài Gòn, cơ quan CIA đang cho thì hành kế hoạch di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam. Nhưng tin tức của Paul Leandri nếu được lan truyền sẽ tạo thành một làn sóng tâm lý, rủ nhau thanh toán người Mỹ một khi các quân nhân Việt Nam thấy người Mỹ bỏ chạy. Nhất là các quân nhân thuộc Lực Lượng Đặc biệt Việt Nam; họ sẽ suy ra ai đã lập ra Lực lượng Biệt kích Mỹ mà rốt cuộc thì đồng đội của họ phải nhận lãnh mọi sự trả thù của các quân nhân người Thượng. Và nay tới phiên người Mỹ rút chạy thì họ cũng sẽ bị thanh toán. Đó là ngón đòn dành cho kẻ phản bội.
Theo biên bản xét nghiệm tử thi của bệnh viện Grall thì Leandri bị bắn bằng một phát đạn kê sát mang tai bắn lên. Và theo một bài tùy bút của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích thì Leandri bị Đại tá cảnh sát Phạm Kim Qui bắn chết rồi bắt Việt Tấn Xã phải loan tin theo như báo cáo của đồn cảnh sát.
Cũng theo sách của Frank Snepp thì giám đốc CIA tại Sài Gòn là Polgar đã được Đại sứ Pháp gọi đến Tòa đại sứ Pháp vào giữa khuya hôm đó để “nói chuyện phải quấy”. Điều này chứng tỏ CIA là người chịu trách nhiệm về cái chết của Leandri chứ không phải là Đại tá Phạm Kim Qui. Ông Qui chỉ là người thừa hành.
BÙI ANH TRINH

8 tháng 5, 2015

Những Tấm Gương Anh Hùng Thời Pháp Thuộc


Lịch sử vong quốc vì biến họa Thiên Chúa giáo bắt đầu từ năm 1858, qua các cuộc khởi nghĩa của Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng v.v... đều bị những giáo sĩ và giáo dân miệt thị là "bọn". Thái độ miệt thị là "bọn" như vậy, sớm nhất là lúc Việt gian Nguyễn Thân ... vâng lệnh giặc Pháp, tảo thanh tiêu diệt Phong trào Văn Thân của cụ Phan Đình Phùng và tướng Cao Thắng trong cuộc Khởi Nghĩa Hương Khê (1885 - 1896). 
Xin được tóm tắt vài trường hợp trong bài này.
1. Thống chế Nguyễn Tri Phương.
Không những chống, mà ông còn mắng thẳng vào mặt quân giặc (tài liệu từ Thư khố của Bộ Ngoại giao Pháp):
Nguyễn Tri Phương (Thống chế dưới triều Tự Đức) bị thương nặng (lúc bảo vệ thành Hà nội trong cuộc tấn công của giặc ngày 20.11.1873), bị bắt làm tù binh. Giám mục Puginier đến an ủi ông; người anh hùng Việt Nam còn đủ sức trả lời như sau: “Sao! chính ông, thủ lĩnh các giáo sĩ Pháp, đến đây để thưởng thức cái giờ hấp hối của tôi ư? Ông không muốn để cho tôi chết được yên ổn ư? Chắc ông đã được hoàn toàn thỏa mãn, vì nhờ ông, nhờ những lời chỉ bảo của ông, mà lũ cướp người Pháp ấy đã lấy trộm mất của chúng tôi xứ Nam kỳ, và sẽ còn lấy trộm cả xứ Bắc kỳ nữa. Nguyện vọng cao cả của tôi, sau bao nhiêu thảm họa, là được chết đi càng nhanh càng tốt!
Sống, đã chiến đấu anh dũng trên khắp mọi chiến trường như một anh hùng; chết, vị Thống chế cũng muốn chết như anh hùng. Sau Puginier, Nguyễn Tri Phương trả lời cho Francis Garnier:
“Một chiến sĩ phải chết, và chết giữa chiến trận không phải là một cái chết nhục nhã”.
Vị Thống chế 74 tuổi đó từ chối những câu an ủi, cũng như những ân huệ của kẻ thù, những sự chăm sóc thuốc men của chúng; ông giật tung tất cả băng bó trên mình, rồi nhịn ăn mà chết”.
Buồn là kẻ anh hùng can đảm như thế không thể cân bằng được số người tham vinh hoa phú quí, táng tận lương tâm, cam lòng theo giặc, đánh mất lương tri mà giết hại đồng bào của mình, lịch sử gọi họ là Việt gian.
2. Những vị đầu bếp yêu nước trong vụ "Hà Thành đầu độc"

Những người tham gia vụ "Hà Thành đầu độc" bị giam trong Hoả Lò Hà Nội (tháng 7 - 1908)

Ngày 27/6/1908, anh em bồi bếp và binh lính người Việt thuộc Trung đội Công nhân pháo thủ Hà Nội đã tổ chức đầu độc binh lính Pháp đóng trong thành để phối hợp với nghĩa quân Yên Thế được bố trí ở bên ngoài nhằm giải phóng thành Hà Nội. Trong bữa ăn tối định mệnh ấy, toàn bộ 250 binh lính Pháp thuộc Trung đoàn pháo binh và Trung đoàn bộ binh đóng trong Thành bị anh em bồi bếp và binh lính người Việt dùng cà độc dược đầu độc. Song, sự việc bị bại lộ do một trong những người biết việc đi nhà thờ, “xưng tội” với cha đạo (có tài liệu cho rằng, có người đã làm phản), khi anh em chưa kịp bắn súng hiệu. Thực dân Pháp đã tương kế tựu kế, tước hết vũ khí, tống giam nhiều chí sĩ yêu nước. 
3. Cụ Đề Thám và Các nghĩa quân Yên Thế
Khi cuộc khởi nghĩa này bị coi là thất bại vào đầu năm 1913, nhà chí sĩ Phan Bội Châu trong bài viết về Hoàng Hoa Thám đã buông những lời cảm khái: “Than ôi! Tội ác của kẻ thù ngút trời, thế lực của kẻ thù gấp hàng trăm lần, thế mà ông Hoàng một mình đã chống chọi được với chúng gần ba chục năm trời. Ông đã tập hợp và rèn luyện những con người tầm thường thành một đội ngũ mạnh mẽ và ông đường đường là một vị tướng quân tiếng tăm lừng lẫy. Ông thực xứng đáng là chân quốc nhân, xứng đáng là chân tướng quân!”. 


Cụ Hoàng Hoa Thám hay Đề Thám, và những người bạn cách mạng 
4. Việt Nam Quốc Dân Đảng của anh hùng Nguyễn Thái Học
alt
Nguyễn thái Học
(1.12.1902 – 17.6.1930)
Người để lại câu nói: "Không thành công cũng thành nhân".
"Nguyễn Thái Học là một trong những lãnh tụ cách mạng của Việt Nam có tầm vóc và trẻ tuổi nhất trong lịch sử đấu tranh cho dân chủ, tự do và tiến bộ của nhân loại trong đầu thế kỷ 20. Ông là người thành lập, chỉ huy và lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuộc khởi nghĩa giành lại chủ quyền cho đất nước và giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của người Pháp. Cuộc nổi dậy và tổng tấn công được phát động vào ngày 10 tháng 2 năm 1930 diễn ra trên toàn cõi Bắc Kỳ, sau này được lịch sử mệnh danh là cuộc Tổng Khởi Nghĩa Yên Bái. Cuộc tổng khởi nghĩa này là một kế hoạch nằm trong sách lược Dân Chủ Hoá Đông Dương của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng. 

Và, thật ra còn rất nhiều vị anh hùng đáng kính phục khác đã lần lượt hy sinh mạng sống vì dân tộc VN.

Những hình ảnh bi lụy, thê thiết sau đây của những anh hùng nghĩa sĩ Việt Nam 1908-1930


Ngoại trừ vụ hành quyết tố chức VNQDĐ của Nguyễn Thái Học năm 1930, còn lại là vụ "Hà Thành Đầu Độc" (1908) do Nghĩa Quân Yên Thế tổ chức. 
- Giặc Pháp bắt còng chân, rồi hỏi cung một nghĩa quân ↑

- Ai giúp giặc bắt các nghĩa quân của cuộc khởi nghĩa Ba Đình? ↑

Trong số các nghĩa quân, có cả các nữ lưu, kể cả vợ con của anh hùng Hoàng Hoa Thám ↑

Hai tù binh nghĩa quân Yên Thế. Người gầy có tên là Chi, cai của toán thợ, thoát chết và bị bắt ở trong rừng. 
alt
Nghĩa quân chiến khu Yên Thế trước khi bị hành quyết, bên cạnh là những kẻ cộng sự của giặc- năm 1909 ↑

Các nghĩa quân Yên Thế bị bắt, đóng gông ↑
Thực dân và tay sai xử tử Nghĩa Quân

Thực dân và tay sai xử tử Nghĩa Quân Các nghĩa quân Yên Thế bị bắt ↑

Thủ cấp của một anh hùng nhóm Ðề-Thám   Những anh hùng của nhóm Ðề-Thám bị xử tử (1908)

Thủ cấp của những anh hùng của nhóm Ðề-Thám (1908) ↑

Vụ Hà Thành đầu độc:
Tối 27-6-1908, những người yêu nước bắt đầu thực hiện kế hoạch. Nhóm đầu bếp Hai Hiên đã bỏ cà độc vào thức ăn. Khoảng 200 binh lính Pháp thuộc trung đoàn bộ binh số 9 và trung đoàn pháo binh số 4 trúng độc bất tỉnh nhưng không chết vì lượng chất độc yếu. Vụ việc đang tiến hành dở dang thì một người lính tên Trương trong cơ công binh pháo thủ số 9 đã vội xưng tội với linh mục. Tin đến quan Pháp. Những bức ảnh gây shock này ghi dấu những trang sử đau thương viết bằng máu của nhiều thế hệ người Việt.
Dòng chữ tiếng Pháp trên ảnh được dịch: 17.A. Bắc Kì - Hà nội - Viên Đội người bản xứ mang số lính 1585 thuộc đại đội 6 - tham gia vụ đầu độc bị chém đầu theo kiểu Annam ngày 8 tháng Bẩy năm 1908. ↑
Dòng chữ tiếng Pháp trên ảnh được dịch: 17.B. Bắc Kì - Hà nội - Viên Đội người bản xứ mang số lính 16 - tham gia vụ đầu độc bị chém đầu theo kiểu Annam ngày 8 tháng Bẩy năm 1908 ↑
Dòng chữ tiếng Pháp trên ảnh được dịch: 17.C. Bắc Kì - Hà nội - Viên Cai người Annam mang số lính 40 - tham gia vụ đầu độc bị chém đầu theo kiểu của nước này ngày 08 tháng Bẩy năm 1908. ↑
http://s264.photobucket.com/albums/ii192/ttnhan63/Yen%20The/?action=view%C2%A4t=231_001.jpg

17. Bắc Kì - Hà nội - Thủ cấp các lính bản xứ, tham gia vụ đầu độc bị hành quyết ngày 8 tháng Bẩy năm 1908 theo luật Annam. Các ông đội Bình (Nguyễn Chí Bình), đội Nhân (Đặng Đình Nhân), đội Cốc (Nguyễn Văn Cốc) bị hành quyết ngày 8/7/1908, và người Pháp đã bêu đầu các ông ở Ô Cầu Dền, Ô Cầu Giấy và Chợ Mơ”. ↑
Ngày 3 tháng Tám năm 1908 xử tử thêm ba người: Nguyễn Văn Hiên (Bếp Hiên), Cai Ngà, và Bếp Xuân. Địa điểm chém là Vườn Bàng ở gần chợ Bưởi. Những giờ phút cuối cùng của họ được lưu lại trên bộ bưu ảnh "Triple Exécution Capitale - Hanoi, 6 Aout 1908" (Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908) của hãng R. Bonal Photo (Hải Phòng). ↑
Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Những kẻ bị kết án bị đưa ra khỏi nhà tù đi đến nơi hành quyết. Ta dễ dàng nhận ra cổng nhà tù Hỏa Lò trong bức ảnh này. Đầu bếp Hai Hiên và viên Cai mang số lính 643 bị đưa đi xử tử. Dòng chữ hàng dọc mép phải bưu ảnh cho ta biết đây là bộ ảnh thứ hai của hãng R. Bonal phát hành về vụ sử trảm ngày 6 tháng Tám năm 1908. Chú thích của bộ ảnh này chi tiết hơn. Và chất lượng ảnh cũng tốt hơn. ↑
Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Đoàn người đi qua đường phố Hà nội để đến bãi hành quyết. Đây là phố Hỏa Lò, bên trái bức ảnh thấy rõ bức tường đá của nhà tù. ↑
Photobucket

Tử tù bị trói vào cọc ↑
Photobucket
Lúc tuyên án ↑
Photobucket
Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Phút khai đao. Ảnh 1 ↑

Phút khai đao. Ảnh 2 ↑

Đao phủ thứ hai lấy đà quăng thủ cấp lên không trung. ↑
Photobucket
Sau giây phút định mệnh - Chờ mang quan tài tới ↑
Photobucket
Thủ cấp được cho vào quan tài cùng phần thân ↑
http://s264.photobucket.com/albums/ii192/ttnhan63/Yen%20The/?action=view%C2%A4t=013_001.jpg

Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Những xác người được đưa về làng Cầu Giấy
http://s264.photobucket.com/albums/ii192/ttnhan63/Yen%20The/?action=view%C2%A4t=024_001.jpg

Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Thủ cấp của họ bị bêu trong rọ tre.
-o*o-
Seri bưu ảnh sau đây gồm 4 bức, miêu tả chi tiết quá trình sử chém phạm nhân. Hai bức bưu ảnh này được một khách hàng là Xavier gửi từ bưu cục Đông Khê ngày 11 và ngày 25 tháng Ba năm 1908, thời điểm 3 tháng trước khi xảy ra vụ "Hà Thành đầu độc".

Photobucket
Dịch hàng chữ trong ảnh: 333. C. Quảng Yên - Hành quyết kẻ sát nhân người Annam ngày 7 tháng Ba năm 1905, trước khi bãi bỏ án tử hình.
Có lẽ những hình ảnh giật gân kiểu này bán chạy, nên khi không có những hình ảnh nóng như của hãng R. Bonal, Pierre Dieulefils đã cho sử dụng lại các bức ảnh chụp cách đó 3 năm, và ghi đó năm 1908 (xem các bức ảnh dưới)
Photobucket
Dịch hàng chữ trong ảnh: 3121. Bắc kì - Dân bản xứ bị chém đầu trong vụ tháng 7 - tháng 9 năm 1908. Đến nơi hành quyết - Tuyên án.
Photobucket
http://s264.photobucket.com/albums/ii192/ttnhan63/Yen%20The/?action=view%C2%A4t=873_001.jpg

Dịch hàng chữ trong ảnh: 3122. Bắc Kì -Bắc kì - Dân bản xứ bị chém đầu trong vụ tháng 7 - tháng 9 năm 1908. Khoảnh khắc định mệnh. Xuống đao tới cổ ↑
http://s264.photobucket.com/albums/ii192/ttnhan63/Yen%20The/?action=view%C2%A4t=062_001.jpg

Dịch hàng chữ trong ảnh: 3123. Bắc Kì - Dân bản xứ bị chém đầu trong vụ tháng 7 - tháng 9 năm 1908. Thủ cấp bị chặt (rơi xuống đất)

Cuộc xử tử Việt Nam Quốc Dân Đảng:
Các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng bị xử chém ỏ Yên Bái 17-6-1930. Chiếc đầu trong vòng tròn là đầu của đảng trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học ↓


7 tháng 5, 2015

HAI BỨC THƯ ĐI VÀO LỊCH SỬ CỦA NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ NGÔ ĐÌNH THỤC

1.     THƯ CỦA THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
GỬI QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI
Hình: Quan Thượng Thư Ngô Đình Diệm khi còn là bầy tôi của Quốc Trưởng Bảo Đại.
Trang cuối lá thư 5 trang viết tay của ông Ngô Đình Diệm gởi Quốc trưởng
Bảo Đại. - Tài liệu của bà thứ phi Mộng Điệp của Bảo Đại còn lưu giữ tại Pháp
 
Năm tháng sau khi được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm Thủ Tướng, ngày 10-11-1954, ông Diệm gửi cho Quốc trưởng Bảo Đại một lá thư tái xác nhận “lòng trung thành của dòng họ chúng tôi” với Quốc Trưởng. Dưới đây là bản dịch tiếng Việt của lá thư đó:
 
Kính gởi Hoàng thượng Bảo Đại
Quốc trưởng Việt Nam

Kính thưa Ngài,

Tôi thật vô cùng cảm kích trước những lời tin cậy và khích lệ đầy thương mến mà Ngài đã chỉ thị cho bào đệ Ngô đình Luyện truyền lại cho tôi.

Ngài đã biết rõ sự bất vụ lợi và lòng trung thành của dòng họ chúng tôi, trong quá khứ, đã phục vụ Tổ quốc và Hoàng triều như thế nào. Xin Ngài hãy tin tưởng rằng đến lượt tôi, tôi sẽ cố gắng tiếp tục phục vụ với tất cà sức lực và tâm hồn để xứng đáng với lòng tin cậy thân yêu mà Ngài đã dành cho.  

Trong lúc có những giải thích đầy xuyên tạc của dư luận về sự mở rộng thành phần Nội các đã gây cho tôi quá nhiều phiền muộn, tôi muốn nói lên đây lòng tri ân của tôi về sự tín nhiệm của Ngài vẫn dành cho tôi.

Thật ra hoài bảo thân thiết nhất của tôi là nhận được sự chấp thuận của Quốc trưởngtrong các đại sự của Quốc gia, về Binh bị, Ngoại giao, Xã hội, Tài chánh hay Hành chánh.
Chỉ có sự chỉ đạo khôn khéo và chỗ dựa vững chắc ở Quốc trưởng, tôi mới có thể thực thi được những quyền lực đầy đủ để giải quyết tất cả vấn đề có tầm vóc liên quan đến sự sống còn và tương lai của đất nước.

Những cải cách về Hiến pháp và Dân chủ phải được nhanh chóng thực thi theo đúng những lời tuyên bố của Ngài khi Ngài trở về sau chuyến lưu vong.
Nhưng quyền lực của Hoàng triều phải thật sự cứng rắn để bảo đảm trật tự và công bằng xã hội, kỷ luật quân đội, tôn trọng quyền lợi và tự do của dân.

Trình Ngài, chính trong tinh thần nầy mà tôi đã nhờ bào đệ Luyện thỉnh cầu Ngài hồi loan càng sớm càng tốt, miễn là không trở ngại đến việc chữa bệnh của Ngài ở Pháp.
Tiếc thay khi được tin nầy thì những xáo trộn những âm mưu chính trị không tránh được khi đất nước bị chia cắt, đã tăng lên gấp bội, vì những tham vọng và quyền lợi riêng tư đó đã lo sợ sự hiện diện của Hoàng thượng và sự củng cố chánh quyền của Ngài.

Là người chủ xướng sự hồi loan nhanh chóng của Ngài, thế mà tôi phải đau lòng thỉnh cầu ngài dời hoãn ngày về nước để cho tôi có đủ thời gian cần thiết để san bằng những trở ngại khó khăn và đánh tan một vài thái độ mâu thuẫn.
Sự mong đợi chuyến về của Hoàng thượng càng lớn khi tôi cần dựa vào sự minh triết của Hoàng thượng để giúp tôi, ngoài những việc khác, tái tổ chức và phát triển Hoàng Triều Cương Thổ mà Hoàng thượng đã tức thời quyết định cho sát nhập về với Việt Nam. Việc nầy đã được sự tán thành của toàn dân.

Tôi nghỉ rằng, thật ra các miền Cao nguyên đó, từ lâu đã được sự chăm lo ưu ái của Hoàng thượng, rồi đây sẽ được hưởng những lợi ích to lớn về một tổ chức xã hội, kinh tế và quân sự mà các ngành Hành chánh cao cấp sẽ được chính phủ bổ nhiệm sau khi được sự chấp thuận của Ngài.

Để kết thúc, tôi xin đươc phép nhắc lại sự cảm tạ của tôi về sự tiếp tục tín nhiệm mà Ngài đã dành cho.

Tình trạng đất nước, bị xâu xé và tàn phá bởi cuộc chiến lâu ngày nầy đã gây quá nhiều lo âu cho tôi, vì vậy những bằng chứng về lòng tin tưởng thương yêu của Hoàng thượng sẽ là một niềm khích lệ vô giá đối với tôi.
Xin được phép nhắc Ngài rằng khi nhận chức Thủ Tướng chính phủ, tôi đã có xin Ngài hứa cho là trong trường hợp chính sách của tôi, nếu xét có bằng chứng có thể phương hại cho Tổ quốc, thì Hoàng thượng sẽ không để những tình cảm tốt đẹp dành cho tôi chi phối, mà sẽ cương quyết chối từ chính sách đó để cứu quốc dân.
Xin phép Ngài cho tôi được tin vào lời hứa đó, vì tôi phải có một chính sách cứng rắn và dũng cảm để đối phó với các sự xáo trộn chính trị và các liên hệ chằng chịt quá phức tạp của những quyền lợi lớn của cá nhân hay ngoại quốc gây ra.

Tôi sẽ làm chuyện nầy với lương tâm thanh thản vì tôi biết trước, nếu trường hợp gặp thất bại, Ngài sẽ sẵn sàng điều chỉnh tay lái khi cần.

Tôi trao thư nầy cho bào đệ Luyện để đệ trình lên Ngài với lòng trung thành tôn kính và thâm sâu của tôi.

Sài gòn, ngày 10 tháng 11 năm 1954

Ngô Đình Diệm” 

ời một tháng sau Lá thư bày tỏ “lòng trung thành tôn kính và thâm sâu” nói trên, ông Diệm dùng phương tiện chính phủ tiến hành một chiến dịch lăng nhục vua Bảo Đại và tổ chức Trưng cầu Dân ý gian lận để truất phế vua Bảo Đại và tự phong mình làm Quốc Trưởng với … 98.2% số phiếu !
 

2.     THƯ CỦA GIÁM MỤC PIERRE MARTIN NGÔ ĐÌNH THỤC,GIÁM QUẢN TÔNG TÒA GIÁO PHẬN VĨNH LONG, GỬI ĐÔ ĐỐC PHÁP JEAN DECOUXTOÀN QUYỀN ĐÔNG DƯƠNG


Tài liệu do Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu phát hiện còn lưu giữ tại
Trung tâm các Văn khố Hải ngoại (CAOM, Aix-en-Provence) của nước Pháp.

BẢN DỊCH:

Tòa Truyền Giáo Vĩnh Long ngày 21/8/1944

Thưa Đô Đốc,

Một linh mục từ bổn Tòa được phái đi Sài Gòn để lo việc cho chủng viện vừa cho tôi biết rằng hai người em của tôi đang bị truy tố tại Huế. Vì đã lâu không nhận được tin tức gì từ Huế, tôi không biết là điều tôi vừa được báo cáo có đúng sự thực hay không.

Tuy nhiên, nghĩ đến nỗi đau đớn và sự bất nhẫn rất đúng mà chắc là Đô Đốc đã cảm thấy – nếu sự truy tố các em tôi là có thật, tôi vội viết thư này để bày tỏ với Đô Đốc nỗi đau đớn lớn lao của tôi về việc này.

Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì – với tư cách của một Giám mục, của một người An-nam, và với tư cách là người con củamột gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh – tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận [hoạt động của các em tôi].

Thưa Đô Đốc, tôi tuyên bố như vậy không phải với mục đích bảo toàn địa vị cá nhân của tôi: bởi vì nếu xét rằng cá nhân hèn mọn của tôi có thể phương hại đến quyền lợi của đạo [Thiên Chúa], tôi sẽ vui vẻ rời khỏi Tông Tòa Giáo phận nầy ngay.

Lời tuyên bố của tôi chỉ có mục đích là tỏ cho Đô Đốc thấy rằng lòng tin tưởng trìu mến của Đô Đốc [đối với tôi] đã không bị đặt vào một kẻ bất xứng hay vô ơn.

Thưa Đô Đốc, tôi chưa bao giờ tiếc là đã xa Huế như thế nầy. Giá có mặt ở đấy thì tôi đã có thể khuyên răn các em tôi tốt hơn, và khi chuyện xẩy đến tôi đã có thể chống lại các chủ đích của các em tôi, nếu quả thật các em tôi có nghĩ đến những dự định có thể gây hại cho quyền lợi nước Pháp.

Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, cho đến khi được chứng minh ngược lại, tôi xin thú thực là không tin rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi.

Ngay chính các em tôi đã từng liên tục đưa mạng sống ra vì nước Pháp, trong cuộc nổi loạn của Cộng Sản. Diệm, người em kế tôi, suýt đã phải ngã gục dưới những phát súng của một Hoa kiều Chợ Lớn được phái đến Phan-rang với mục đích hại Diệm, Phan-rang là nơi mà Diệm đã mãnh liệt chống giữ lối xâm nhập vào An-nam của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ phái đến.

Lẽ tất nhiên, sự tận tụy của các em tôi trong quá khứ không phải là điều nêu ra để làm cớ mà biện hộ cho hoạt động bất cẩn của họ ngày hôm nay, nếu sự bất cẩn nầy được chứng tỏ là điều đã gây nên tội. Tuy nhiên, tôi không nghĩ là tôi đã làm chuyện vô ích khi kêu gọi đến sự khoan hồng đầy xót thương của Đô Đốc hầu xét với hảo ý trường hợp các em tôi. Đô Đốc không phải là người chỉ xét đến hiện tại mà lại bỏ quên đi quá khứ. Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguyvà khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp.

Thưa Đô Đốc, một lần nữa bày tỏ với Đô Đốc tất cả niềm đau đớn của tôi trong vụ nầy, tôi xin Đô Đốc vui lòng nhận nơi đây lời kính chào trân trọng nhất của tôi.

 
NGÔ ĐÌNH THỤC


Lời thú nhận của Giám mục Ngô Đình Thục về truyền thống  làm tay sai cho gic ngoại xâm:
“… thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp …”
và “… một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu …”
Hình: Ông Ngô Đình Khả, 5 người con trai Thục-Diệm-Nhu-Luyện-Cẩn và con dâu Trần Lệ Xuân.

 
NGUYÊN VĂN:
Vicariat Apostolique de Vinh Long
(Cochinchine)
 
Vinh Long, le 21 Aout 1944
 
Amiral,
 
Je viens d’apprendre par un prêtre de ma Mission, envoyé à Saigon pour les affaires du séminaire, que deux de mes frères ont été l’objet de poursuites judiciaires à Hué. N’ayant recu de Hué depuis longtemps aucune nouvelle, je ne sais si ce qu’on m’a rapporté corespondait à la vérité.
Mais, en pensant a la peine immense et à la juste indignation que vous avez du éprouvées, si ce qu’on leur imposait était fondé, je m’empresse de vous écrire, pour vous exprimer, Amiral, ma grande douleur en l’occurence.
 
S’il était prouvé que leur activité a pu nuire aux intérêts de la France, je la désapprouve du fond du coeur, comme évêque, comme annamite, et comme membre d’une famille dont le père a servi la France dès sa première venue en Annam et a exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions memées, comme lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandés par Phan Đình Phùng à Nghệ An et Hà Tịnh.
Cette déclaration n’a pas pour but, Amiral, de sauvegarder ma situation personnelle: car ce sera avec joie que je quitterai mon évêché si tôt qu’il sera constaté que mon humble personne pourrait porter préjudice aux intérêts de la Religion.
 
Elle n’a pour objet que de vous montrer que vous n’avez pas accordé votre bienveillante confiance à un indigne ou à un ingrat. Amiral, je n’ai jamais tant regretté mon éloignement de Hué. Là j’aurais pu mieux conseiller mes frères et, à, l’occasion, m’opposer à leur desseins, si vraiment ils en ont concu de nuisibles aux intérêts de la France .
Je puis hélas me tromper, mais je vous confesse, Amiral, que je ne puis croire, jusqu’à preuve du contraire, qu’ils se sont montrés si rebelles aux traditions de notre famille, qui s’était attachée à la France dès le début, tandis que les aieux et les pères des mandarins actuels, presque tous, combattaient contre elle, et ne s’étaient décidés pour elle que lorsqu’il n’avait plus que profit à le faire.
 
Mes frères eux-mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de la révolte communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver d’un chinois de Cholon envoyé à cet effet à Phan Rang où Diệm défendait énergiquement l’entrée de l’Annam aux émissaires communistes envoyés de la Cochinchine.
 
Certes, leur dévouement dans le passé n’est pas l’excuse de leur imprudences actuelles; s’il est prouvé qu’elle est coupable. Mais je crois ne pas faire en vain appel à votre miséricordieuse clémence en leur faveur, qui juge du présent sans pourtant oublier le passé. Celà en considération des services que mon père Ngô Đình Khả a eu l’honneur de rendre à la France au péril de sa vie, et de la longue conduite de mes frères faite d’un dévouement sans bornes à la France , sans peur de sacrifier leur vie pour elle.
 
En vous exprimant de nouveau, Amiral, toute la douleur que je ressens dans cette affaire, je vous prie d’agréer mes hommages les plus respectueux.
 
NGO DINH THUC