13 tháng 10, 2014

Cuộc Hành Quân Phá Sản - Trọng Ðạt


        Một ngày trước khi tướng Phú tuyên bố Ban Mê Thuột thất thủ, hôm 12-3 -1975 Hạ Viện Mỹ biểu quyết cắt 300 triệu Mỹ kim quân viện bổ túc cho Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Ford đệ trình Quốc Hội, Ðại sứ Mỹ Martin cũng thông báo cho Tổng thống Thiệu biết quân viện năm tới từ tháng 6 sẽ không được chuẩn chi, như thế Quân đội Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn đủ đạn dược để đánh trận trong vòng 3, hoặc 4 tháng.
        Tại Pleiku Liên đoàn 4 Biệt động quân chưa thể giải tỏa được quốc lộ 19, Sư  đoàn 22 BB tại gần Qui nhơn chiến đấu dữ dội với Sư đoàn 3 Sao Vàng CSBV, phi trường Cù Hanh bị pháo kích, 3 phi cơ A-37 bị phá hủy.
        Sư đoàn 10 sau khi chiếm Ban Mê Thuột tiến về tuyến Phước An, tại đây ta chỉ còn 700 người và 4 khẩu 105 ly.
         Viết phần này chúng tôi  dựa vào những sách hồi ký, biên khảo, ký sự… của Tướng Cao Văn Viên, Nguyễn Ðức Phương, Phạm Huấn, Tướng Hoàng Lạc.. cũng tham khảo thêm một số bài của các nhân chứng  và cả  tài liệu phía CSBV.
        Hôm 11-3 Tổng thống Thiệu họp Hội đồng Tướng lãnh gồm các Tướng Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Ðặng Văn Quang để trình bầy kế hoạch  mà ông gọi là “Tái phối trí lực lượng”, với tình hình vũ khí đạn dược như hiện nay ta không thể giữ cả 4 Quân khu, mà chỉ đủ lực lượng giữ Quân khu 3, Quân khu 4 và một phần duyên hải Vùng 2, Quân khu 1 chỉ giữ Huế và Ðà Nẵng, sẽ rút bỏ Cao nguyên về giữ đồng bằng, bỏ những vùng xương xẩu để về giữ những vùng mầu mỡ. Hội đồng Tướng lãnh đồng ý, không ai phản đối.
         Mất Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thiệu càng biết rõ địch mạnh hơn hồi 1968, địch mạnh hơn thời Mùa hè đỏ lửa 1972. Nay CSBV xé bỏ Hiệp Ðịnh Paris, Ðồng Minh ngoảnh mặt làm ngơ trước tình hình nguy khốn, ông Thiệu mất tinh thần, đưa ra  kế hoạch táo bạo trong một phiên họp tại Cam ranh ngày 14-3. Trong Hội nghị này có Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Ðại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Ðặng Văn Quang, Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Sau phiên họp Tướng Phú kể lại cho Phạm Huấn, người ký giả chiến trường này đã ghi lại trong Cuộc Trịêt Thoái Cao Nguyên 1975.
        Ông Thiệu cho biết Quốc Hội Mỹ cắt giảm quân viện khiến ta thiếu thốn đạn dược tiếp liệu, Mỹ hủy bỏ cam kết yểm trợ bằng không lực khi Cộng Sản vi phạm Hiệp định Paris, lãnh thổ phòng thủ quá rộng lớn, ta thiếu thốn đạn dược, tiếp liệu, áp lực địch nay rất mạnh… Ông cho biết Tướng Phú phải đem hết chủ lực quân, chiến xa, pháo binh của quân đoàn về phòng thủ duyên hải, nghĩa là rút bỏ Pleiku, Kontum..
         Nghe thế tướng Phú bèn xin cho toàn bộ quân đoàn ở lại chiến đấu, ông thoáng nhìn thấy sự sụp đổ miền Nam sẽ diễn ra do kế hoạch “tái phối trí” của Tướng Thiệu.
         “- Thưa Tổng thống, cho tôi được “tử thủ” Pleiku, giữ cao nguyên.
          Tướng Thiệu cười nhạt:
          - Tử thủ? Với quân số, đạn dược hiện có, liệu anh chiến đấu được bao nhiêu ngày với Cộng Sản?
         - Thưa Tổng thống từ 40 đến 60 ngày!
         - Rồi sao nữa?
          Tướng Phú khựng lại, đưa mắt nhìn tướng Viên cầu cứu, nhưng tướng Viên quay đi chỗ khác. Tướng Phú đáp:
         - Tôi sẽ chiến đấu đến cùng, cho đến khi không còn được tiếp tế súng đạn, lương thực nữa!
        … Tướng Phú vẫn liều lĩnh nói với giọng hơi lớn:
         - Thưa Tổng thống, thưa quí vị tướng lãnh...
        ... Nếu rút khỏi cao nguyên năm nay, thì một cuộc tấn công khác của Cộng Sản, có thể vào năm tới, sẽ mất duyên hải và mất nước. Tôi và các chiến sĩ của tôi có chết ở Cao nguyên bây giờ cũng không khác gì chết ở Sài Gòn trong năm tới!”
         (Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, trang 85)
         Tổng Thống Thiệu bác bỏ ý kiến Tướng Phú, ông nói đây là kế hoạch chung của Hội đồng tướng lãnh mà ông đã bàn thảo.
         - Tôi ra lệnh cho anh mang chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay … về phòng thủ Duyên hải, và tổ chức hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột.
           .    .  . .. . . . .  . . . .  .  .
        - Lệnh này, từ cấp tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống không được biết.
        - Thưa Tổng thống…
        - Có nghĩa là các lực lượng Ðịa phương quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành chánh 3 tỉnh.Pleiku, Kontum, Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc cùng với Tỉnh trưởng, Quận trưởng như thường lệ.
             .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  . 
        - Quyết định mang tất cả chủ lực quân chiến xa, pháo binh, máy bay của Quân đoàn II khỏi Pleiku, Kontum, tôi đã thảo luận với các tướng lãnh. Ðây cũng là một quyết định chung của Hội đồng Tướng lãnh, như quyết định hôm qua cho Tướng Trưởng ngoài quân đoàn I.
         Phòng họp im phăng phắc, không có một phản ứng, chống đối nào. Bỗng tướng Phú hỏi ông Thiệu một câu gần như lạc đề:
        - Thưa Tổng Thống, nếu chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binh rút đi làm sao Ðịa phương quân chống đỡ nổi khi Cộng Sản đánh? Hơn 100 ngàn dân 2 tỉnh Pleiku, Kontum và gia đình anh em binh sĩ?
        - Thì cho thằng Cộng Sản số dân đó! Với tình hình  nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được vùng dân cư đông đúc, mầu mỡ… hơn là bị “kẹt” quá nhiều quân trên vùng Cao nguyên…”
         (CTTCN 1975, trang 85, 86)
        Về buổi họp này, ông Cao Văn Viên thuật lại cũng gần giống như Phạm Huấn, theo ông, Tổng Thống Thiệu cho biết phải chiếm lại Ban Mê Thuột, Tướng Phú xin thêm quân  tiếp viện, ông Thiệu hỏi Tướng Viên có đủ quân tiếp viện cho Tướng Phú không, Tướng Viên trả lời không còn quân trừ bị. Khi ấy ông Thiệu đứng trước bản đồ miền Nam nói Ban Mê Thuột quan trọng hơn Pleiku, Kontum nhập lại về kinh tế, dân số, nhiệm vụ Quân đoàn 2 phải tái chiếm Ban Mê Thuột, ông hỏi Tướng Phú dùng đường nào để đem quân về tái chiếm Ban Mê Thuột, Tướng Phú đề nghị theo đường số 7B.
         Văn Tiến Dũng cũng đã ghi lại lời khai của Chuẩn Tướng BÐQ Phạm Duy Tất bị CS bắt trong hồi ký của y. Tướng Tất cho biết chiều 14-3, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sau khi dự Hội nghị Cam Ranh về đã họp Bộ Tham Mưu Quân đoàn và kể lại diễn tiến buổi họp. Ông Thiệu hỏi Tướng Viên còn quân trừ bị không, Tướng Viên nói không còn, ông Thiệu hỏi Tướng Phú nếu không có quân tăng viện thì giữ được bao lâu, Tướng Phú nói có thể giữ được một tháng nếu có yểm trợ không quân, tiếp tế bằng không vận về đạn dược, vật liệu và bổ sung quân số bù lại thiệt hại vừa qua, ông sẽ ở lại Pleicu chiến đấu và chết ở đó. Ông Thiệu nói không thoả mãn được các điều kiện đó, CS thì rất mạnh nên phải rút khỏi Kontum, Pleiku đưa quân về giữ đồng bằng duyên hải. Sau đó ông Thiệu hỏi rút bằng đướng số 19 được không, Tướng Viên trả lời đường này rất nguy hiểm, ông Thiệu hỏi đường số 14 đi được không, Tướng Viên đáp đường 14 không thể đi được. Cuối cùng chỉ còn đường số 7B từ lâu không dùng tới nhưng tạo được sự bất ngờ. Tướng Phú cũng cho biết theo lệnh ông Thiệu chỉ rút các đơn vị chủ lực, bỏ Ðịa phương quân lại, không được thông báo cho các Tỉnh trưởng biết để họ ở lại tiếp tục chống giữ…
          Như vậy những lời thuật lại của Phạm Huấn, Tướng Viên, Văn Tiến Dũng.. gần giống nhau.
         Kế hoạch đã được coi như hợp thức hóa và lệnh triệt thoái được ban hành, các Tướng lãnh không ai phản đối. Khi bàn việc lựa chọn đường rút quân, Tướng Viên cho biết đường Quốc lộ 21 không thể xử dụng được vì đường 14 giữa Pleiku-Ban Mê Thuột đã bị địch cắt, Bắc Việt hiện có 3, 4 sư đoàn chính qui tại chiến trường Ban Mê Thuột, không thể từ đó xử dụng đường 21 về Nha Trang. Ðường 19 nối Pleiku- Qui Nhơn cũng khó thành công vì đèo An Khê đã bị cắt ở hai phía Ðông, Tây, Việt Cộng đóng chốt nhiều nơi, trước đây Pháp đã từng bị Việt Minh phục đánh kích tan tác trên đèo này. Ngoài đường số 7B không còn đường nào khác, Tướng Phú đề nghị chọn đường số 7B, kế hoạch được chấp thuận.
         Tổng Thống Thiệu nói kế hoạch rút quân để bảo toàn lực lượng hầu tái chiếm Ban Mê Thuột, ông dặn tướng Phú phải giữ bí mật, không được cho các Tỉnh trưởng biết, chỉ có chủ lực của Quân đoàn rút, Ðịa phương sẽ phải ở lại chiến đấu, như vậy về cơ bản kế hoạch chỉ là sự lừa dối lẫn nhau,  kế hoạch đượm vẻ bất nhân, tàn nhẫn. Chiều 14-3 Bộ Tư lệnh Quân đoàn triệu tập các sĩ  quan cao cấp để thông báo lệnh rút bỏ Cao nguyên tuy nhiên không có giấy tờ Lệnh hành quân cấp Quân đoàn, cuộc hành quân tổ chức vội vã không được chặt chẽ. Tướng Phú lệnh cho Lữ đoàn 2 Kỵ binh rút từ đèo Mang Yang về tăng phái cho Liên đoàn 23 Biệt động quân và Công binh để sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên lộ trình đường số 7B. Dưới thời ông Diệm Cheo Reo được tách ra khỏi Pleiku thành lập tỉnh Phú Bổn, dân số 95 ngàn người, 70% là đồng bào Thượng.
        Tỉnh Lộ 7B từ ngã ba Mỹ Thạnh tới Tuy Hoà trước đây là đường trải đá, có  3 cầu chính: Phú Thiện 50m, Le Bac 600m, Cà Lúi 40m. Ðoạn cuối tỉnh lộ 7B trong địa phận Tuy Hoà, quận Củng Sơn không an toàn cho sự lưu thông.
         Ngày 16-3 đoàn xe quân sự  bắt đầu rời Pleiku, Tướng Phú và Bộ Tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, bỏ lại Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc đám di tản. Theo Tướng Hoàng Lạc cuộc lui binh gồm có 4 đoàn, mỗi đoàn 250 xe, tổng cộng có 1200 xe cộ, theo Phạm Huấn có tất cả 4,000 quân xa đủ loại, mỗi ngày một đoàn xe. Ngày 16-3 đoàn xe lên đường êm xuôi vì có yếu tố bất ngờ, thấy di tản nhanh và dễ dàng nên khi  tới Phú Bổn Tướng Phú ra lệnh ngưng lui binh và lập phòng tuyến tại Hậu Bổn. Các biến cố dồn dập sau đó vượt khả năng của giới thẩm quyền, quân nhân tại Phú bổn bị ảnh hưởng giây chuyền cũng hốt hoảng gia nhập đoàn chạy loạn.
        Ngày hôm sau 17-3 dân chúng Kontum, Pleiku chạy ùa theo làm náo loạn cuộc lui binh, tình hình đã không thuận lợi như ngày đầu mà lại gây nhiều trở ngại cho sự triệt thoái.      
        Ngày 18-3 Liên đoàn 7 Biệt động quân đang cùng thiết giáp đánh chốt Việt Cộng xui xẻo bị không quân oanh tạc lầm, gây nhiều thương vong cho quân bạn. Hỗn loạn xẩy ra, lính Thượng nổi loạn đốt doanh trại và giết nhiều người Việt khiến tình hình càng phức tạp, bọn lưu manh côn đồ, bọn nằm vùng đốt chợ, Việt Cộng pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn người di tản, tối đến địch pháo kích thị xã gây nhiều tử thương cho quân dân di tản, các chiến xa M-48, M-41 bị phá hủy 70%, lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú Bổn. Sau trận pháo kích dữ dội của Cộng quân, các xe tăng M-48, M-41,  đại bác bị hư hại hết không thể xử dụng được, 40 chiến xa và 8 khẩu 175 ly bị phá hủy. 
         Từ ngày 16-3-1975 Sư đoàn 320 Việt Cộng được lệnh hành quân cấp tốc đuổi theo đánh phá đoàn xe triệt thoái, đến 18-3 lực lượng lớn của Việt Cộng tiến vào Phú Bổn, đánh phá dữ dội đám quân triệt thoái đang ùn tại đây rồi tiếp tục đánh xuống Củng Sơn. Chúng gây kinh hoàng cho quân dân triệt thoái, các Liên đoàn Biệt động quân, thiết giáp, bộ binh của VNCH bị thiệt hại nặng. Ðịch xử dụng nhiều đại bác, xe tăng lấy được của VNCH để truy kích đánh phá đoàn quân triệt thoái, một lỗi lầm tai hại của cuộc lui binh mà không ai ngờ tới.
         Nhận được báo cáo tình hình nguy khốn Tướng Phú ra lênh bỏ Hậu Bổn để về Tuy Hòa. Cuộc chạm súng tại Hậu Bổn kéo dài tới sáng hôm sau, đoàn quân đi được 20km thì Cộng quân đã tràn vào Phú Túc, Liên đoàn 7 BÐQ chiếm lại quận Phú Túc. Khi ra khỏi Phú Túc người ta  bắn nhau để tranh lên trước, súng nổ khắp nơi giành đường đi, hỗn loạn ngày càng trầm trọng do các binh sĩ rã ngũ, đào binh gây ra. Binh lính chửi rủa Tổng thống Thiệu suốt dọc đường vì cuộc lui binh thê thảm này, dân chết lính chết, thật là một địa ngục, một hành lang máu.
        Công binh lập 2 cầu nổi, một tại Le Bac, một tại Ðồng Cam, đoàn xe đến được sông Ba thì bị cát lún, mất ba ngày để trực thăng chở vỉ sắt lót đường, dù gặp khó khăn đoàn xe đầu tiên về tới Tuy Hoà, chỉ có một chiếc xe bị kẹt giữa cầu nổi khiến cả đoàn quân tắc nghẽn. Chỉ mất hơn một giờ, CSBV từ Thuần Mẫn đổ xuống tổ chức các chốt chặn đường, một tiểu đoàn ÐPQ và một tiểu đoàn BÐQ được giao nhổ chốt. Ngày 22-3 hai tiểu đoàn BÐQ ở đoạn hậu đánh tan Trung đoàn 64 (SÐ -320 CS) gây nhiều  thiệt hại, Trung đoàn phải rút lui. Ðịch đưa thêm các lực lượng đã tham chiến tại Ban Mê thuột với chiến xa yểm trợ theo tỉnh lộ 287 đổ xuống đường số 7B. Tướng Cẩm báo cáo Tướng Phú, Tướng Phú ra lệnh tan hàng, Cẩm và Bộ tham mưu bay trực thăng về Tuy Hoà, những người còn lại chạy về hướng Ðông. Phía Tây xe tăng Việt Cộng đang tiến tới, hướng Bắc là Pleiku, hướng Nam Việt Cộng đang đóng chốt, ai len lỏi theo sông Ba thì về được Tuy Hoà. Ngày 26-3 tiểu đoàn 34 BÐQ thanh toán các chốt sau cùng tại xã Mỹ Thạnh, những người xe còn lại của cuộc lui binh đã tới được Tuy Hòa, trong số 1,200 xe cộ chỉ có 300 mở đường máu tới nơi.
          Sáu năm sau, vào giữa tháng 3-1981, Ðài phát thanh VOA đã bình luận.
       “Cuộc rút quân trên đường số 7 được coi như một cuộc thảm bại lớn nhất trong lịch sử chiến tranh tại miền Nam Nước Việt từ trước đến nay”.
          Phạm Huấn gọi đó là hành  lang máu,  con đường máu và nước mắt dài 300 km trong 9 ngày đêm, đó cũng là một cuộc hành quân phá sản. Hậu quả là tổn thất của cuộc lui binh thật khủng khiếp, theo Nguyễn Ðức Phương khoảng 60 ngàn chủ lực quân khi tới Tuy Hoà chỉ còn khoảng một phần ba 20 ngàn người, 5 Liên đoàn BÐQ khoảng 7,000 chỉ còn 900 người, Lữ đoàn 2 thiết kỵ với hơn 100 xe tăng thiết giáp chỉ còn lại 13 cái M-113.
          Ông Cao văn Viên cho biết
         “Ít nhất 75% khả năng tác chiến của quân đoàn II bao gồm sư đoàn 23 bộ binh cũng như các lực lượng Biệt động quân, thiết giáp, pháo binh, công binh và truyền tin đã bị hủy hoại chỉ trong vòng có mười ngày. Chiến dịch đánh chiếm lại Ban Mê Thuột không thể thực hiện được, đơn giản chỉ vì Quân đoàn 2 không còn lực lượng tác chiến nào cả. Quân Cộng Sản đã chiếm được Kontum, Pleiku không cần phải chiến đấu. Khuyến khích bởi chiến thắng với tầm mức không ngờ, các sư đoàn F10, 316 và 320 CSBV quyết định đánh tới. Ngay lúc bấy giờ, địch quân biết rằng lực lượng mà Quân đoàn II xử dụng để ngăn chận bước tiến quân của họ về hướng bờ biển chỉ còn là Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương”
          (Nguyễn Ðức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 738)
          Bắc Việt cho biết đã tiêu diệt trên 14 ngàn chủ lực quân nguỵ, chiếm được 5,760 khẩu súng các loại trong đó có 22 đại bác 155 ly, 9 khẩu 175 ly, 48 khẩu 105 ly, chiếm và phá hủy 2000 xe cộ các loại  …
        Theo tài liệu Mỹ (The World Almanac Of The Viet Nam War.) và của Nguyễn Ðức Phương, trong số 400 ngàn dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có 100 ngàn tới được Tuy hòa. Theo Tướng Hoàng Lạc trong số 200 ngàn dân chạy loạn chỉ có 45 ngàn tới Tuy Hoà. Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí  trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay Cộng quân. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều. Theo tướng Hoàng Lạc kế hoạch không đầy đủ, kỷ luật hỗn tạp, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh sĩ hỗn độn làm cho quân đội mất tinh thần khiến ai cũng chỉ lo chạy tháo thân. Dân chúng nghe tin tức bi quan qua đài BBC đã ồ ạt chạy về phía Nam làm náo loạn cuộc triệt thoái khiến cho tinh thần binh sĩ xuống thấp.
         Tổng cộng 60 ngàn quân triệt thoái chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, khoảng 200 ngàn dân chỉ có 45 ngàn tơi nơi yên lành, như vậy hằng 100 ngàn quân dân hoặc bị bắt, thương, bị giết. Những người thương binh trong các bệnh viện cũng như bị thương trên đường chạy loạn chỉ có nước nằm chờ chết vì bác sĩ y tá không còn nữa, ai cũng chỉ lo chạy tháo thân, số người bị thương bị giết.. có thể lên tới hằng vạn hoặc nhiều hơn nữa.
         Ông Cao Văn Viên nói:
          “Thất bại tự tạo của quân đoàn II là một giấc mơ hãi hùng trên cả hai phương diện tâm lý và chính trị cho dân chúng cũng như cho QLVNCH. Rối loạn, lo âu, sợ hãi, lên án, tội lỗi cũng như thất vọng bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người
         Nguyễn Ðức Phương (CTVNTT, trang 738, 739).
         Những tin đồn cắt đất nhường cho Cộng Sản lan nhanh khiến người ta đổ sô nhau chạy về hướng Nam, Quân khu 1 cũng rơi vào tình huống tương tự. Chúng tôi nhớ lại ngày 27-3 trên đường di tản từ Lâm Ðồng ra Phan Rang , một sĩ quan trẻ có nói.
       “Vùng Một và Vùng Hai nhường cho nó, mình chỉ còn giữ từ Vùng Ba trở xuống như Nam Kỳ Quốc ngày xưa, mình phải ráng về Quân khu Ba”     
         Không biết tin đồn ấy do đâu mà ra , cũng có thể do CS nằm vùng  tung ra để gây hoang mang náo loạn, tin cắt đất này đã ảnh hưởng vô cùng tai hại, cùng với sự tuyên truyền xuyên tạc của đài BBC Luân Ðôn, quân dân Vùng 1 và 2 cứ ùn ùn kéo nhau chạy về phương Nam khiến cho CS không phải đổ máu vẫn chiếm được nhiều lãnh thổ. Trong khi ấy tại Sài Gòn phía đối lập tăng hoạt động bất tín nhiệm chính phủ Thiệu, quân đội cũng mất tin tưởng người ta cho rằng chỉ có phép lạ may ra cứu được miền Nam. Cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7B đã đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1949 và cuộc di tản Quảng Trị cuối tháng 4-1972. Cuối tháng 9-1949, Ðại Tá Charton triệt thoái 3 tiểu đoàn Pháp ra khỏi Cao bằng đến đầu tháng 10 bị Việt Minh chận đánh tan rã, Pháp mất 7,000 quân và nhiều đơn vị tinh nhuệ, 500 quân xa, trên 100 súng cối và 13 đại bác, 10 ngàn súng cá nhân và cộng đồng, đại liên trung liên, trận đánh đã rung động cả nước Pháp.
         Cuối tháng 4 năm 1972, các đơn vị phòng thủ Quảng Trị dưới sự chỉ huy của Tướng Vũ Văn Giai chiến đấu trong tuyệt vọng, vùng trách nhiệm của Sư đoàn 3 thu hẹp dần, Việt Cộng tấn công phía Tây và Nam Quảng Trị, cô lập lực lượng phòng thủ, binh sĩ ta ngày càng suy sụp tinh thần trước những trận pháo kích dữ dội của CSBV. Trước hoàn cảnh thiếu thốn tiếp liệu trong khi địch tấn công dữ dội, Tướng Giai trình bầy kế hoạch triệt thoái về Nam sông Thạch Hãn với Trung Tướng Hoàng Xuân  Lãm, Tư lệnh vùng 1. Ðược Tư lệnh chấp thuận,  ông cho  lui binh tức thì ngày 1-5-1972 Sư đoàn 3 và các lực lượng tăng phái như Thiết giáp, Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến.. tất cả khoảng 9 Trung đoàn ồ ạt chạy về Nam qua Quốc lộ I.  Cộng quân thừa cơ pháo theo chết như rạ trên đại lộ kinh hoàng, Quốc lộ đầy các loại xe bốc cháy, hàng mấy nghìn người bỏ xác tại đây, Lữ đoàn thiết kỵ có hơn 1,000 người tử thương, Sư đoàn 3 chết 2,700 người, mất 100 xe tăng, 140 đại bác …
          Ðại tá Phạm bá Hoa nói.
          “Những bài học chiến thuật trong trường Võ bị cũng như trường Ðại học quân sự..đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, lui binh) là nhiều nguy hiểm hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị đưa lưng về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiến tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học lui binh là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được không quân quan sát và yểm trợ hoả lực nữa.
         Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt Cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm  lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành  lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật…”
7B Road in 1975
          Cuộc Rút Quân Trên Ðường Số 7
         Cũng theo ông Phạm bá Hoa, một điều trớ trêu là ta tưởng Việt cộng bao vây Pleiku nhưng thực ra khi quân ta rút đi ngày 16-3-1975 thì bốn ngày sau đó, 20-3 địch mới tiến vào tỉnh lỵ sở dĩ như vậy vì ta thiếu tin tình báo. Việt Cộng còn ở cách xa Pleiku rất nhiều nhưng Tướng Phú đã quá sợ hãi, ông tưởng địch sắp vây tấn công tới nơi. Sự thực các Sư đoàn Việt cộng còn ở xa về phía Nam và Ðông Nam Pleiku và gần đoàn quân triệt thoái nên ta mới bị địch pháo kích, đánh phá gây thiệt hại cho đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong 20 năm chiến tranh.
        Theo ông Cao Văn Viên, kế hoạch rút bỏ Quân khu 2 và 1 của Nguyễn văn Thiệu là do một mình ông ấy nghĩ ra, không hỏi ý kiến ai. Kế hoạch được gọi một cách bóng bẩy văn hoa “ Tái phối trí lực lượng” nhưng thực ra chỉ là sự tháo chạy một cách hỗn độn vô tổ chức, không nghiên cứ lộ trình, vô kỷ luật… đánh lừa lẫn nhau. Ông Cao Văn Viên cho rằng đó là một kế hoạch đúng nhưng thực hiện quá trễ, đúng lý ra phải thực hiện từ 6 tháng trước. Dù kế hoạch đúng về quân sự nhưng cũng khó có thể thể chấp nhận được vì nó là một kế hoạch bất nhân. Khi ông Thiệu lệnh cho Tướng Phú khi rút Quân đoàn 2 phải dấu kín không được cho địa phương biết để lừa họ phải ở lại chiến đấu. Lệnh này đã gây tệ trạng cấp lớn bỏ quân, bỏ dân chạy trước khi cuộc tháo chạy bắt đầu diễn ra, kế hoạch cho phép bỏ rơi đồng bào ruột thịt của mình vào tay Cộng sản, chính người miền Nam đã bỏ rơi lẫn nhau trong khi ta lại lớn tiếng chỉ trích người Mỹ bỏ rơi đồng minh.
         Kế hoạch rút quân về duyên hải để rồi từ đó theo đường Quốc lộ 21 lên tái chiếm Ban Mê Thuột của ông  Thiệu nói trong phiên họp tại Cam Ranh thật không có gì vô lý hơn. Ðường rút quân từ tỉnh lộ 7B xuống Tuy Hoà, từ đó xuống Nha Trang rồi lại từ Nha Trang lên Ban Mê Thuột dài gấp 3 lần đường Quốc Lộ số 14 từ  Pleiku xuống Ban Mê Thuột, đầy gian nan nguy khốn. Lui binh để tái chiếm Ban Mê Thuột chỉ là một cách nói dối để đánh lừa các Tướng Lãnh trong phiên họp và để che dấu cái ý định rút bỏ Cao Nguyên của ông mà thôi.
        Hầu như tất cả giới quân nhân, chính khách, ký giả truyền tin… đều cho rằng kế hoạch tái phối trí, rút bỏ Quân khu 1 và 2 về bảo vệ Quân khu 3 và 4 của ông Thiệu là liều lĩnh, tai hại nó đã làm sụp đổ miền Nam nhanh chóng lại đẩy bao nhiêu quân, dân vào chỗ chết một cách oan uổng. Kế hoạch tỏ ra rất không tưởng vì không thể di tản hàng nghìn xe cộ, hằng mấy trăm nghìn quân dân chạy loạn tới nơi tới chốn qua một con đường đã bỏ hoang từ bao lâu nay, cầu cống hư hỏng, cũ kỹ chật hẹp. Ông Thiệu quá độc đoán khăng khăng cho di tản Pleiku trong khi Tướng Phú và binh lính của ông rất muốn ở lại chiến đấu tới cùng để giữ đất. Theo Tướng Cao Văn Viên kế hoạch tái phối trí do ông Thiệu tự nghĩ ra, ông không hề bàn bạc với ai. Sự vô lý và cẩu thả của kế hoạch khiến nhiều người cho rằng ông Thiệu chơi trò tháu cáy giả vờ thua chạy để Mỹ sót ruột phải nhẩy vào.
        BV không thể ngờ miền Nam lại có thể sai lầm lớn lao về chiến lược đến thế, đối với họ kế hoạch triệt thoái Cao nguyên của ông Thiệu là một tặng phẩm từ trên trời rơi xuống. Văn Tiến Dũng lấy làm ngạc nhiên khi thấy cả một Quân đoàn trang bị hiện đại lại bỏ địa bàn hoạt động để lui binh.
         Sự sai lầm của kế hoạch tái phối trí lực lượng đã khiến cho VC chiếm được cả hai tỉnh Kontum Pleiku mà không mất một viên. Lệnh cho Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi Cao nguyên, Tướng Thiệu đã mở một cuộc hành quân phá sản và dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi, chưa bao giờ kẻ địch lại sung sướng thoải mái như tháng 3-1975, trong vòng một tuần lễ cả Cao nguyên rơi vào tay Cộng sản, tai hại hơn nữa nó kéo theo sự sụp đổ của hệ thống phòng thủ Quân đoàn 2.
         Lần đầu tiên trong chiến tranh Ðông Dương cả một quân đoàn phải rút chạy,. Thất bại trên đường số 7B một phần do thất thủ Ban Mê Thuột, nếu không mất Ban Mê Thuột chắc không ai nghĩ phải bỏ Kontum Pleiku, từ sai lầm chiến thuật đi đến sai lầm chiến lược. Ngoài ra tin cắt quân Viện  của Quốc Hội Mỹ cũng làm ông Thiệu hốt hoảng muốn điên cái đầu. Các cuộc hành quân không được Bộ Tổng tham mưu điều khiển giám sát, Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho các Tư lệnh quân đoàn, Bộ Tổng tham mưu không được ra bất cứ lệnh nào cho các đơn vị, chính vì ông Thiệu dành độc quyền lãnh đạo nên mới đưa tới sụp đổ hệ thống phòng thủ nhanh như vậy.
         Triệt thoái là một lệnh bí mật, chỉ một số ít sĩ quan cao cấp của Quân đoàn được truyền đạt, sự thực đó chỉ là một sự dối trá lừa gạt lẫn nhau để bỏ nhau chạy trước. Theo Tướng Hoàng Lạc cuộc rút lui vội vã không có kế hoạch đầy đủ, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh sĩ hỗn độn. Nhiều  người cho rằng Tướng Tư lệnh Phú không đủ khả năng kiểm soát đôn đốc cuộc lui binh cấp Quân đoàn, sự thực không hẳn như vậy, chẳng  riêng gì tại quân khu 2 mà ngay cả Quân khu 1  kiện Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đành bó tay không thể kiểm soát nổi tình hình rối loạn.
         Phạm Huấn cho rằng trên thực tế không có một lệnh tổng quát nào cả, cuộc lui binh không được tổ chức, giám sát, thi hành  báo cáo chính xác, các ông Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Phụ tá hành  quân Lê Nguyên Khang, Tham mưu trưởng liên quân Ðồng văn Khuyên .. chưa hề một lần bay ra thị sát mặt trận, họ chỉ ngồi trong phòng lạnh điều binh khiển tướng bằng điện  thoại. Cũng theo Phạm Huấn các Tướng Trần văn Cẩm, Phạm Duy Tất, Phạm văn Phú … những người chỉ huy cuộc triệt thoái bay trực thăng thật cao trên trời.. cả một Quân đoàn không có ai chịu trách nhiệm.
        Tướng Trần văn Nhựt, người hùng An Lộc năm 1972 lại  cho rằng Trung Ương đã không yểm trợ cuộc triệt thoái đến nơi đến chốn:
        “Mặc dù Cộng quân có gia tăng quân số thật nhưng chính những quyết định hạn chế đạn dược, rút quân sai lầm nói trên đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần toàn thể Quân, Dân, Cán Chính và làm cho sự sụp dổ miền Nam VN quá nhanh và quá nhục nhã. Ðúng ra khi lệnh rút lui Quân đoàn 2/QK2, Tổng thống Thiệu phải chỉ thị  cho Ðại Tướng Viên, các vị Tư lịnh và Chỉ huy trưởng các Quân Binh Chủng phải ra Nha Trang để tận tình giúp Tướng Phạm Văn Phú điều động và yểm trợ cuộc rút quân lớn nhứt trong lịch sử QLVNCH. Thiếu tất cả mọi hỗ trợ căn bản cần thiết, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đành làm người hùng cô đơn vì mọi sự việc rút lui ngoài khả năng và kinh nghiệm của ông
         Cuộc Chiến Dang Dở trang 272  
         Sau này ngày 21-4-1975, Sư đoàn 18 BB đã thực hiện rút quân tại Xuân Lộc có trật tự, an toàn, ít thiệt hại, người ta đã cho di tản gia đình binh sĩ  trước để lính an tâm chiến đấu. Cuộc rút quân của Sư đoàn 18 cho thấy thất bại của Quân khu 2 và 1.
        - Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh vì quá gấp rút.
        - Không kiểm soát đôn đốc cấp chỉ huy.
        - Gia đình binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn hàng ngũ quân đội.
        - Không duy trì được kỷ luật
          Dân chúng tị nạn làm náo loạn cả lên, binh lính mất tinh thần nên nhiều đơn vị đã rã ngũ, tan hàng mặc dù chưa có chạm súng, người dân chạy tị nạn đã làm đảo lộn kế hoạch triệt thoái của Quân đoàn.
        Cuộc triệt thoái khiến cho Cao nguyên lọt vào tay Cộng quân chỉ trong mấy ngày, nó cũng kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ Quân khu 2 và cũng đã để lọt vào tay Việt Cộng nhiều vũ khí đạn dược, xe tăng, đại bác.
        Tỉnh Quảng Ðức nằm ở tây Nam Darlac (Ban Mê Thụôt) và phía Bắc Lâm đồng vẫn còn đứng vững sau 12 ngày cầm cự tại quận Kiến đức phía Tây thị xã Gia nghĩa. Ngày 9-3 một Sư đoàn Việt Cộng chiếm quận Ðức lập phía Tây Bắc Quảng Ðức, còn lại Quận Kiến  đức phía Tây thị xã vẫn chống trả lại cuộc  tấn công dữ dội của VC  đông gấp bội bên Phước Long đánh qua từ 9-3 cho tới 22-3. Nhờ sự chiến đấu anh dũng của hai Tiểu đoàn 81, 82 thuộc Liên đoàn 24 BÐQ và hai đại đội ÐPQ Phan Rang tăng cường quận Kiến Ðức vẫn còn đứng vững, họ  bảo vệ được thị xã yên ổn được gần hai tuần lễ.
         Ðến ngày 22-3 tình hình tiếp liệu thiếu hụt, binh sĩ  ngoài tiền tuyến quá mệt mỏi trước áp lực địch, tỉnh đã tính chuyện di tản mặc dù chưa có lệnh của Quân đoàn. Sáng 22-3  Ðại tá tỉnh trưởng Quảng Đức lấy tiền trong ngân khố đem lên trực thăng đưa về Sài gòn rồi quay trở lại, ông ghé Lâm đồng nghỉ ngơi xong lên máy bay trở về Quảng Ðức nhưng trực thăng bị hỏng không quay trở về được, đó là theo lời ông ấy nói.  Ðến chiều Trung tá tiểu khu phó bèn cho lệnh tỉnh di tản, hai Tiểu đoàn BÐQ tại Kiến đức gọi về tỉnh xin lệnh nhưng thấy các quan đã triệt thoái nên  anh em cũng lui binh trong trật tự, họ đã gài mìn trên đường về thị xã rồi rút theo đoàn quân của tỉnh.
         Về điểm này trong Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 của Phạm Huấn nói sai hoàn toàn. Trang 170: “Ðại tá Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Ðức liên lạc về khẩn báo: Quận Kiến đức mất. Quận Gia Nghĩa đang bị pháo nặng. Cộng quân từ An Lộc kéo về đã tiến sát Phi trường Quảng Ðức”. Trang 171: “Hầm chỉ huy và hệ thống liên lạc của Tỉnh trưởng Quảng Ðức bị pháo sập. Ðại tá Tỉnh trưởng chỉ huy lực lượng còn lại của Tiểu khu, mở đướng máu rút về hướng Lâm đồng”.
        Không biết Phạm Huấn căn cứ vào tài liệu nào nhưng chúng tôi là nhân chứng  từ đầu chí cuối tại đây đã biết rõ sự việc. Hoàn toàn không có chuyện quận Kiến đức mất, thị xã Gia Nghĩa không hề bị pháo, địch còn bị cầm chân tại Kiến đức cách thị xã khoảng 15 km. Tỉnh trưởng vẫn ở tư dinh cho đến ngày di tản, hoàn toàn không có chuyện pháo sập hầm, ông tỉnh trưởng đã đi máy bay trực thăng từ sáng hoàn toàn không có chuyện mở đường máu rút về Lâm đồng.
         Ðoàn quân triệt thoái từ Quảng Ðức sau 5 ngày băng rừng thì tới Lâm Ðồng ngày 27-3, tổng cộng khoảng sáu, bẩy nghìn người gồm Ðịa phương quân, Biệt động quân, Cảnh sát.. và một số ít dân chúng vượt sông Kinh Ðà qua được Lâm Ðồng, đa số dân chúng bị bỏ lại vì không thể đem theo hết mọi người được. Cuộc di tản tốt đẹp, hiền lành, rất kỷ luật hoàn toàn không sẩy ra lộn sộn nào đáng tiếc.
         Ngày 27-3 đoàn quân di tản từ Quảng đức tới được Lâm đồng nhưng thật không may, ngày họ tới nơi cũng là lúc Lâm Ðồng bắt đầu di tản về Phan Rang trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người. Từ hai ngày trước Sư đoàn 7 CSBV thuộc quân đoàn 4, dưới quyền điều động của Trần Văn Trà  chiếm Ðịnh  Quán, Hoài Ðức,  Giá Rai .. rồi tiến quân đánh tỉnh Lâm Ðồng. Họ tiến theo đội hình xe tăng đi đầu rồi bộ binh, pháo binh, hậu cần theo sau tiến theo đường 20 gặp đồn đánh đồn, gặp bót đánh bót. Tỉnh trưởng Lâm Ðồng bỏ trốn từ hai giờ sáng, lấy tiền trong ngân khố chạy lên Ðà Lạt bằng xe díp, sự thực không riêng gì Lâm Ðồng, Quảng Ðức mà tại cả hai Quân khu 1 và 2, nhiều đơn vị trưởng, nhiều sĩ quan cao cấp thấy tình hình bi đát đã bỏ đơn vị chạy tháo thân, tâm lý chung con người ta ai mà không sợ chết. Cuộc di tản tại Lâm Ðồng về Phan Rang được tiến hành có trật tự, không sẩy ra hỗn loạn như cảnh triệt thoái trên đường số 7B có lẽ vì không bị Cộng quân đuổi theo pháo kích.
        Trong khi ấy hai Trung đoàn Việt Cộng băng rừng từ Phước Long qua tiến  chiếm quận Di Linh, chiều tối hôm ấy, pháo binh thuộc địa phận Ðà Lạt bắn thả dàn vào Di Linh đang nằm trong tay Cộng quân. Hai hôm sau Ðà Lạt cũng di tản về Phan Rang.
        Dưới đây là những ngày cuối cùng của Quân đoàn 2, chúng tôi dựa theo tài liệu của ông Cao Văn Viên.
        Vùng Cao nguyên mất, chủ lực Quân đoàn bị thiệt hại gần hết nhưng ở duyên hải Sư đoàn 22 bộ binh vẫn giữ vững phòng tuyến ở Bình Khê trên Quốc lộ 19, ở Tam Quan Bắc Bình Ðịnh, hai Trung đoàn 41, 42 thuộc Sư đoàn 22 chống trả mãnh liệt cuộc tấn công của Sư đoàn 3 CS dưới chân đồi Bình Khê phía Tây Qui Nhơn. Hai bên giằng co nhau từng ngọn đồi, Cộng quân bị thiệt hại nhiều trong trận đánh. Trung đoàn 95B, Sư đoàn 968 BV được tăng cường tấn công hai Trung đoàn 41, 42  nhưng ta vẫn giữ được phòng tuyến cho đến 30-3.
         Ở duyên hải, BV tăng viện thêm từ Quảng Ngãi đánh Tam Quan, Bồng Sơn ngày 25-3, Trung đoàn 47 sau 3 ngày chiến đấu rút về căn cứ không quân Phù Cát lập phòng tuyến mới ở đó. Sư đoàn 320 BV sau khi đánh phá đoàn di tản trên tỉnh lộ 7B xong nhiệm vụ tiến về Tuy Hoà. Sư đoàn 10 cùng với xe tăng, đại bác từ Phước An theo đường 21 tiến về Khánh Dương ngày 27-3 để tấn công Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù. Ðặc công, thám sát VC xâm nhập Qui Nhơn đóng chốt, cắt đường giao thông, ÐPQ của ta bây giờ biến mất hết. Sư đoàn 22 được lệnh rút về Qui Nhơn.
         Ngày 30-3 Trung đoàn 41 và 42 được lệnh rút khỏi mặt trận Bình Khê, Trung đoàn trưởng  Trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn Hữu Thống đã năn nỉ xin tư lệnh ở lại đánh, ông nói tình hình chưa đến nỗi, nếu rút đi sau này khó đem quân trở lại. Nhưng đã quá trễ, khi hai Trung đoàn vào thị xã Qui Nhơn, họ bị các chốt địch bên trong thị xã chận đánh, ÐPQ miền Nam đã di tản, Qui nhơn đã nằm trong tay Sư đoàn 3 CS. Sau 3 ngày chiến đấu cộng với hải pháo yểm trợ, Trung đoàn 41, 42 phá được phòng tuyến Việt Cộng ở Nam thành phố. Quân của hai Trung đoàn 41, 42 thuộc Sư đoàn 22 tập trung một địa điểm phía Nam cách bến tầu 6 cây số chờ di tản. Hai giờ sáng 1-4  ba tầu hải quân cập bến chở đám binh sĩ còn lại của Sư đoàn, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn hữu Thông từ chối di tản và ở lại tự sát.
        Trung đoàn 47 sau hai ngày cố thủ bị đánh bật ra khỏi phi trường Phù Cát, trên đường di tản về Qui Nhơn Trung đoàn bị phục kích tại quận lỵ, Tiểu đoàn trưởng ÐPQ  tự tử, xác còn nằm trước văn phòng quận. Trung đoàn 47 mất đi hơn nửa quân số coi như bị loại khỏi vòng chiến, Ðại tá Lê Cầu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 47 cũng tự sát. Sư đoàn 22 khi được tầu chở về Vũng Tầu chỉ còn hơn 2,000 quân.
         Sáng 2-4 Cộng quân chiếm Tuy Hoà, ÐPQ rút về Nha Trang, tại đèo Cả phía Nam Phú Yên tiểu đoàn BÐQ 34 bị thất thủ sau hai ngày cầm cự. Tại Khánh Dương Sư đoàn 10 Việt Cộng và Lữ đoàn 3 Dù giao tranh dữ dội ngày 27-3, Việt Cộng được pháo binh, xe tăng yểm trợ đã phá được phòng tuyến VNCH. Tiếp viện cho Lữ đoàn Dù bị chận đánh, lính Dù giữ được Khánh Dương một tuần thì thất thủ ngày 2-4, Lữ đoàn tan rã trước áp lực quá mạnh của BV chỉ còn hơn 300 lính chạy về Nha Trang. Việt Cộng chiếm trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, Ninh Hoà.
         Nha Trang đã trở thành vô chính phủ như nhiều thành phố khác, tù quân lao phá ngục trốn ra lấy súng của đám tàn quân bỏ chạy bắn loạn xạ, cướp bóc dữ dội như thời thượng cổ. Trưa 2-4 Trung tướng Phạm Quốc Thuần chỉ huy trưởng Trung tâm Dục Mỹ đến Bộ tư lệnh Quân  đoàn gặp Tướng Phú hai người bàn bạc với nhau  chừng 15 phút rồi cùng đi tới phi trường Nha Trang. Tướng Phú lên trực thăng bay đi tìm các đơn vị, đến chiều trở lại Nha Trang ông báo cáo cho Bộ Tổng tham mưu biết không liên lạc được với đơn vị nào. Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho ông phối hợp Hải, Không quân để tổ chức phòng thủ phi trường Nha Trang.
         Nửa tiếng sau Tướng Phú bay khỏi Nha Trang, ông không nói gì với Ban Tham mưu Quân đoàn hay bàn thảo kế hoạch gì cả, quá tuyệt vọng ông bèn bay về Sài Gòn nhập bệnh viện Cộng Hoà ngày 4-4. Tướng Phú không còn tinh thần để chỉ huy vả lại Quân đoàn 2 của ông cũng chẳng còn gì cả. Khi ấy Ban Tham mưu Quân đoàn 2 bèn quyết định di tản khỏi Nha Trang. Từ 27, 28-3 các đơn vị của Lâm Ðồng, Tuyên Ðức rút về Phan Rang để tháo chạy về miền Nam.
        Làn sóng tỵ nạn miền Trung từ Quân khu 1, và phía Bắc Quân khu  2 đổ về Phan Rang khiến cho cả tỉnh hốt hoảng  nhập bọn chạy về phía Nam. Ðịa phương quân, cảnh sát, công chức Phan Rang… nhiều người bỏ đơn vị để chạy loạn. Tỉnh trưởng Ðại Tá Trần Văn Tư cho phá hủy máy móc và một số cơ sở quan trọng rồi rút về Phan Thiết.
        Bộ Tổng tham mưu khi ấy bèn lấy Phan Rang và Phan Thiết, hai tỉnh cuối cùng của Quân đoàn 2 đem sáp nhập vào Quân khu 3 kể từ ngày 4-4-1975, Quân đoàn 3 cũng gửi Lữ đoàn 2 Nhẩy Dù ra tăng cường. Nha Kỹ Thuật, Phòng 7 Bộ Tổng tham mưu gửi nhiều toán thám sát vào hai vùng Ðông Bắc và Tây Bắc Phan Rang để dò thám hoạt động của Cộng quân. Bộ Tư lệnh tiền phương của Quân đoàn 3 do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy đặt tại phi trường Phan rang, Tỉnh trưởng Phan Rang được triệu hồi để tổ chức lại hành chánh và phòng thủ tỉnh. Trật tự được vãn hồi, tại phía Tây Phan Thiết Sư đoàn 7 Việt Cộng đang gây áp lực, toán thám sát cho biết địch tập trung 2 Sư đoàn 3 và 10 tại Cam Ranh cách Phan Rang 45 km.
          Quân đoàn 3 lại cho rút Lữ đoàn Dù về lại vùng 3 để phòng thủ Quân khu, thay vào đó cho tăng cường Phan Rang một Trung đoàn của Sư đoàn  22 mới trang bị, bổ sung, một Liên đoàn Biệt động quân, một Tiểu đoàn thiết giáp. Cuộc thay đổi quân sắp hoàn tất thì ngày 4-4 Việt Cộng tấn công dữ dội, Tướng Nghi xin giữ lại một tiểu đoàn Dù. Lực lượng Ninh Thuận, Phan Rang bây giờ gồm: một tiểu đoàn Dù, một Trung đoàn bộ binh, một Liên đoàn BÐQ, 4 tiểu đoàn ÐPQ, một Chi đoàn Thiết giáp M-113, Sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm, Duyên đoàn 27, một Giang pháo hạm, một Hải vận hạm và một số tầu yểm trợ.
         Phan Rang phố xá vắng tanh, dân chúng đã di tản về Phan Thiết. Ngày 14-4  Sư đoàn 3 và 10 Việt Cộng tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang theo Quốc lộ 1 và 11 đánh vào phi trường, tại đây tiểu đoàn Dù giao chiến với Cộng quân, địch chết bỏ xác 100 tên. Ngày 15-4-1975 Ông Trần Văn Ðôn, Phó Thủ tướng đặc trách Quốc phòng và Tướng Toàn thị sát mặt trận. Bị quân trú phòng đánh trả ác liệt BV cho tăng thêm Sư đoàn 325 và nhiều xe tăng, đại bác tấn công phi trường Phan Rang đến trưa thì phòng tuyến vỡ, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh mặt trận, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang tư lệnh Sư đoàn 6 không quân, Ðại tá Nguyễn Thu Lương Lữ đoàn trưởng Dù được ghi nhận mất tích. Toàn tỉnh Ninh Thuận mất ngày 16-4, hai hôm sau ngày 18-4 mất Phan Thiết, Quân khu 2 hoàn toàn thất thủ.
         Cuộc triệt thoái Cao nguyên đã khiến cho Quân đoàn 2 mất gần hết chủ lực quân, chỉ còn Sư đoàn 22 tại vùng duyên hải mặc dù chiến đấu rất anh dũng nhưng không thể chống lại 5 sư đoàn Cộng quân, cuối cùng toàn bộ Quân khu đã rơi vào tay Cộng Sản. Nhiều người đổ choTướng Phú đã làm mất Ban Mê Thuột và sụp đổ Quân đoàn 2, Phạm Huấn cho rằng ông chưa đủ khả năng nắm giữ một quân đoàn, có người cho Tướng Phú đã vận động để được làm Tư  lệnh Quân đoàn, một chức vụ không tương xứng với tài thao lược của ông… Ngoài ra theo Phạm Huấn tại Quân đoàn 2 có những tị hiềm cá nhân, kình chống nhau giữa những phụ tá của Tướng Phú, của những phe cánh trong quân đội và giữa Tướng Phú với những ông Tướng văn phòng ở Sài Gòn của Bộ Tổng Tham mưu. Quân đoàn 2 chia rẽ nội bộ, Tướng Phú không được thuộc hạ ở Quân khu 2 nể trọng và có cảm tình, ông lại không được Tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên nể nang, thù trong giặc ngoài, tất cả cũng đã làm suy yếu phần nào nội bộ của phe ta.
       “Vì sự đố kỵ, bất mãn, bất lực và vô kỷ luật của cả những sĩ quan cao cấp và có trách nhiệm nhất đưa đến sự thảm bại nặng nề trong cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.
       Phạm Huấn (CTTCN, trang 125)
        Sự thực Tướng Phú có một phần trách nhiệm để mất Ban Mê Thụôt vào tay Cộng quân vì ông đã mắc lừa kế nghi binh của địch, nhưng sự sụp đổ Quân đoàn 2 như chúng ta đã thấy Tướng Thiệu, Tổng Tư lệnh là người chịu trách nhiệm nhiều nhất vì kế hoạch của ông đã có nhiều lỗi lầm tai hại.  Tướng Phú đã nhìn thấy cái nguy hại của triệt thoái và đã xin ở lại tử thủ, ông sẵn sàng chết tại Pleiku để giữ đất, nếu được yểm trợ về tiếp liệu ta có thể cầm cự cho tới mùa mưa, lúc ấy hai bên không thể giao chiến được nữa nhưng ông Thiệu một mực bắt phải lui binh
         Theo dư luận chung các nhà quân sự, chính khách cũng như giới truyền thông báo chí ai nấy  đều kết án ông Thiệu là người đã gây lên tấn thảm kịch đầy máu và nước mắt này, có người nghi ngờ ông Thiệu đã nhận lệïnh của Mỹ giật sập miền Trung.
         “Rõ ràng là lệnh giật sập miền Trung là do từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, có điều câu hỏi đặt ra ở đây là Thiệu giật sập miền Trung là do nghe lệnh của Mỹ hay tự ý một mình hành động?
               .  .  .  .  .  .  .   .    .      .   .
        “Trước khi vùng Một thất thủ thì ở vùng 2, toàn bộ quân đoàn 2 đóng tại Pleiku được lệnh di tản về Tuy Hoà bằng liên tỉnh lộ số 7. Ðại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng quân đoàn 2, sau này ra Hải ngoại có lên một đài phát thanh và có kể chuyện lại rằng, khi nhận được lệnh rút quân, một tướng lãnh của Quân đoàn 2 là tướng Cẩm đã nhận xét với ông “Thôi rồi bàn cờ đã sắp xếp xong, chẳng còn gì để nói chuyện đánh đấm nữa” Một thiếu tá pháo binh  bầy tỏ sự tức giận với ông Lý “ Súng đạn còn đầy đủ, quân lính còn đông, sao lại bỏ chạy như thế này”. Chuyện kể của Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Lê Khắc Lý cho thấy khi Quân đoàn 2 được lệnh rút từ Pleiku về Tuy Hoà thì coi như số phận của Quân đoàn 2 cũng được sắp xếp xong cho phù hợp với kế hoạch giật sập vùng 1 và vùng 2 của Sài Gòn”
          Trần Việt Ðại Hưng (Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975).
         Những ý kiến trên đây chỉ là giả thuyết.
          Phạm Huấn cũng cho rằng các Tướng lãnh đạo Thiệu, Khiêm, Viên đã tỏ ra không có tinh thần trách nhiệm can đảm, không dám đi tới tận mặt trận như các tướng ngoại quốc De Lattre, Navarre đã xuống Vĩnh Yên, Hoà Bình, Ðiệïn Biên Phủ hoặc như Westmoreland lên Cao Nguyên khích lệ tinh thần binh sĩ, không ông tướng nào có được hành động anh hùng mà chỉ ngồi văn phòng ra lệnh. Các ông tướng Việt Nam chỉ thích gửi con đi du học nước ngoài không có được tinh thần như De Lattre đưa con trai ra mặt trận đóng tại Ninh Bình, Ðô đốc Sharps, tư lệnh Thái Bình Dương để con trai, một thiếu tá phi công tham gia chiến  trận.
         Nhà báo, dân biểu Trần Văn Ân trong lời Bạt cho cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên Năm 1975 viết.
        “Đây là cuốn sách đầu tiên đã nói lên được cái thân phận vừa đau thương vừa hào hùng của người lính Cộng Hoà thấp cổ bé họng, đã mô tả được những uất nghẹn của của người Sĩ quan Việt Nam nhìn thấy thảm cảnh Quân đội tan hoang mà bó tay chịu chết, và cũng đã phơi bầy được cái hậu trường tàn nhẫn, hèn nhát và bất nhân của nhóm người lãnh đạo Quốc Gia và chỉ huy Quân đội.
       Ba ông tướng cao cấp khác, có mặt tại Hội Nghị Cam Ranh cùng với ông Thiệu, đã hoàn toàn im lặng, không góp bàn gì về cái quyết định giết người của ông Thiệu cả”
         (CTTCN 1975, trang 265, 266)
        Kế hoạch của ông Thiệu và tập đoàn Tướng lãnh đã bị chỉ trích gay gắt như sau:         
         “Người đọc cũng thấy rõ sự tàn nhẫn, lạnh lùng của TổngThống Thiệu khi ban hành thứ mệnh lệnh tự sát choTướng Phú, và thái độ im lặng giả dối, sống chết mặc bay của những tướng hiện diện….
                  .    .  . . .  .  .  .  . .  . .   .  .  .        
       Câu chuyện Phạm Huấn kể về cái Hội Nghị Cam Ranh còn đặt ra một khía cạnh khác của nhân tình thế thái: đó là khía cạnh đạo đức của mệnh lệnh. Trong suốt buổi họp từ ông Thiệu, ông Khiêm tới ông Viên, Ông Quang, không một ai đề cập tới số phận của hằng triệu dân, hàng trăm nghìn Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân và gia đình binh sĩ sẽ bị bỏ rơi lại, và hàng chục ngàn xác chết Quân Dân chắc chắn sẽ đầy rẫy dọc theo con đường tử lộ. Ông Thiệu phân tách tình hình rồi lạnh lùng chỉ thị rút chủ lực quân thật nhanh, thật bí mật về miền Duyên Hải… Các Ông Tướng khác giữ im lặng, thản nhiên như mọi việc đã được quyết định rồi và không còn gì để bàn cãi nữa”
         Trần Văn Ân (CTTCN 1975 trang 267)
         Những lời kết án của Trần văn Ân , Trần Việt Ðại Hưng, của Phạm Huấn… cũng như của bao nhiêu người khác nữa thể hiện nỗi uất hận của quân dân đối với tập đoàn lãnh đạo tham ô và cái Hội Nghị Cam Ranh của họ.
         “Lịch sử sẽ ghi những gì về Hội Nghị Cam ranh và về các tướng lãnh đạo của nền Ðệ Nhị Cộng Hoà? Sử liệu có lẽ sẽ cần năm ba chục năm để hoàn tất. Nhưng ngay bây giờ thì sử xanh đã truyền tụng quá nhiều. Sử xanh ghi rằng. “Hội Nghị Cam Ranh ngày 14.3.1975 và cuộc triệt thoái Cao nguyên ngày 17.3.1975 không phải là khởi đầu sụp đổ của chế độ Ðệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam. Hai biến cố này thực sự là dứt điểm vụt tắt cuối cùng của cơn hấp hối đã dai dẳng nhiều năm của chế độ dũng phu Nguyễn Văn Thiệu-Trần Thiện Khiêm trong đó một khối quân đội gồm Ða Số Tướng lãnh và quân sĩ tài giỏi, anh hùng đã bị lợi dụng, thao túng và chết uổng bởi một nhóm nhỏ Tướng lãnh cầm quyền tham ô, bất lực và thiếu đạo đức, với sự tiếp tay của một thiểu số người vô tài bất hạnh; kể cả một số khoa bảng thời cơ và bịp bợm.
         Tiền bạc của nhân dân mà họ mang ra ngoại quốc có thể giúp họ sống sung túc tới trăm tuổi là cùng. Nhưng tội lỗi của những Tướng lãnh đạo sẽ được lịch sử ghi rõ đời đời. Lương tâm đui chột của họ có thể làm ngơ, nhưng lịch sử bao giờ cũng sáng suốt và tiếng nói dân gian bao giờ cũng công bình.
        Liệu rồi đây, khi họ nằm xuống, những nấm mồ của họ có sẽ được chôn tại miền nắng ấm quê nhà hay sẽ phải nằm cô đơn giữa một miền tuyết lạnh Mỹ Châu, Âu Châu? Liệu rồi đây nhân dân có đủ khoan dung cho phép họ nằm cạnh những nấm mồ của các chiến sĩ anh hùng đã chết trên chiến địa, đã tự sát khi bại trận hay đã chết trong lao tù? Những anh hùng này đã hy sinh cho một chính nghĩa cao đẹp nhưng bị chết uổng vì một Lãnh Ðạo tồi tàn”
         Trần Văn Ân (CTTCN trang 272).
         Tướng Phú phải chịu trách nhiệm phần nào trong cuộc hành quân phá sản và làm sụp đổ Quân đoàn. Là người tự trọng ông đã can đảm tự xử lấy bản thân vì đã không chu toàn trách nhiệm. Ký giả Trần Văn Ân đã luận bàn về tư cách của người chiến sĩ anh hùng thà chết vinh còn hơn sống nhục như sau.
         “Tướng Phú đã nằm xuống. . .  . với đầy đủ khí tiết của một cấp chỉ huy đã dám tự xử mình khi trách nhiệm không hoàn tất.
        Tại sao những Tướng lãnh đạo nền Ðệ II Cộng Hòa lại không thấy được tội lỗi của mình và không dám tự xử? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân, giữa người yêu nước thật sự và người làm chính trị vì tham vọng cá nhân? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa Tướng tác chiến Phạm Văn Phú và các Tướng  chính trị Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm?
        Ước mơ của tôi là một ngày nào quê hương được giải phóng, tôi sẽ về lại Việt Nam thăm mộ Tướng Phú và các chiến sĩ vô danh khác, thắp nén hương tưởng nhớ những anh hùng đã vị quốc vong thân, và xám hối về những tội lỗi của mình”
        (CTTCN 1975 trang 273)
        Trọng Ðạt

     Tài Liệu Tham Khảo
Nguyễn Ðức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Ðức Phương: Những Trận Ðánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975 Ðại Nam
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Toà Bạch Ốc (Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, 1945-1975) Tiếng Quê Hương 2006.
Trần Văn Nhật: Cuộc Chiến Dang Dở, nhà xuất bản An Lộc 2003
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Ðồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh , 2005.
Văn Tiến Dũng: Ðại Thắng Mùa Xuân, Nhà Xuất Bản Quân Ðội Nhân Dân, in lần thứ tư, Hà Nội2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas, 1990.
The World Almanac Of The Viet Nam War, John S. Bowman, General editor, A Bison-book 1985.
Stanley Karnov: Viet Nam, a history, A Penguin Books, 1991.
Marilyn B. Young, John J.Fitzgerald, A.Tom Grunfeld - The Viet Nam War, a history in  documents, Oxfoord University Press 2002.
Trần Việt Ðại Hưng: Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam 1975, Sài Gòn Nhỏ Dallas 4-2002.
Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nhìn Lại Từ Ðầu, Sài Gòn Nhỏ Dallas  số 28-4-2006.
Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, Người Việt Dallas số ngày 21-6-2006, vô danh.
Hồ Ðinh: Cơn Phẫn Nộ Cuối Cùng Của Một Quân Ðội Bị Phản Bội, Người Việt Dallas  23-12-2005.
Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà, Trần Ðỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 26-4-2006.
Hồi Ký Của Trung Uý D, Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, ngày 25-3-2005.
Trần Gia Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004.
Phạm Bá Hoa: Cuộc Rút Quân Trên Ðường Số 7, Người Việt Dallas 19-3-2004.
Tú Gàn: Trở Lại Trận Ban Mê Thuột, Sài Gòn Nhỏ Dallas 4-2005.
Mường Giang: Tiểu Khu Bình Thuận VàTháng 4-1975 Ðẫm Máu và Nước mắt, Sài Gòn Nhỏ Dallas 30-4-2005.

Pleiku - 6 tháng cuối cùng - Nguyễn Thế Khiết

Pleiku - 6 tháng cuối cùng - Nguyễn Thế Khiết


Bài này nói về Pleiku trong mấy tháng cuối cùng trước khi có cuộc di tản dọc theo Liên Tỉnh lộ 7B, bắt đầu từ tỉnh này. Bài này có tính cách tóm lược và vì thế chúng tôi loại bỏ một số sự kiện cho ngắn gọn. Chúng ta có thể đọc để biết qua về tình hình tại tỉnh biên cương này trước khi miền Trung dần dần rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt.


Tháng Chín 1974, Bộ Chỉ huy Tiểu Khu Pleiku dọn sang doanh trại mới xây xong là Trại Biên Trấn có cổng chính nằm trên Đường Hoàng Diệu và cổng sau nằm trên Đường Trần Hưng Đạo, đối diện với cổng chính của trại cũ. Tôi chỉ còn nhớ rằng sau đó tại trại cũ, câu lạc bộ sĩ quan được dùng làm Ty Nhân Dân Tự Vệ mà Trưởng Ty là Đại Uý Bảo Nghê. Trung tâm Điều hành Hỗn hợp vẫn nằm trong trại cũ nhưng Chỉ Huy Trưởng là Thiếu tá Trần Thanh Tâm mới lên trung tá.

Lúc bấy giờ, Tiểu khu Pleiku chỉ còn có ba quận, tức chi khu, là Lệ Thanh, Lệ Trung và Phú Nhơn nhưng có đến 77 xã, tức là 77 phân chi khu cần tới 144 sĩ quan làm phân chi khu trưởng và phân chi khu phó. Hệ thống phân chi khu tại đây vừa mới hoàn chỉnh và cũng vì vậy mà tôi phải ra công tác ngoài này trong một thời gian bất định. Vì hầu hết các sĩ quan tại Pleiku, theo tôi biết, cho rằng việc thành lập các phân chi khu là một mưu đồ chính trị hơn là một chiến lược quân sự nên không có cảm tình với tôi vì tôi có nhiệm vụ tìm hiểu về hiệu năng của hệ thống này.


Về lực lượng chiến đấu, Tiểu khu Pleiku lúc đó có mấy trung đội Pháo Binh Lãnh Thổ, chín tiểu đoàn Địa Phương Quân 205, 213, 222, 223, 239, 240, 241, 278 và 279 và hai đại đội biệt lập. Trong chín vị tiểu đoàn trưởng lúc đó, chỉ có tiểu đoàn trưởng của Tiểu Đoàn 278 là Thiếu tá (Lý Thái Phước), tất cả tám vị kia đều mang cấp bậc đại uý. Tôi nghe nhiều người nói rằng Tư Lệnh Quân Đoàn II và Quân Khu 2 là Tướng Nguyễn Văn Toàn, lúc đó mới lên trung tướng, thuộc binh chủng Thiết Giáp nên hầu hết các chức vụ trọng yếu tại Quân khu 2 và nhất là tại Pleiku đều do các sĩ quan Thiết Giáp nắm giữ. Tôi thấy điều này chỉ đúng một phần nào. Quận Trưởng Kiêm Chi Khu Trưởng Lệ Trung là Thiếu Tá Nguyễn Đình Minh không thuộc binh chủng Thiết Giáp. Quận Trưởng Kiêm Chu Khu Trưởng Phú Nhơn là Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Cẩn cũng vậy và Quận Trưởng Kiêm Chi Khu Trưởng Thanh An là Thiếu tá Nguyễn Tải, một sĩ quan Địa Phương Quân phục vụ tại Pleiku từ khi còn là một thiếu uý. Tuy nhiên, tháng Mười 1974 thì Thiếu tá Tải có nhiệm vụ đặc trách thanh tra phân chi khu và người thay thế ông tại Thanh An là Thiếu tá Lê Phú Mỹ, một sĩ quan Thiết Giáp và Chi Khu Phó Phú Nhơn là Thiếu tá Nguyễn Thiện Thành, một sĩ quan Thiết Giáp khác. Riêng chi Đội Trưởng 214 Cơ Giới thì đương nhiên phải là một sĩ quan Thiết Giáp và người giữ chức vụ này là Thiếu uý Nguyễn Đức Long, cháu ruột của Đại tá Nguyễn Đức Dung, Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Pleiku. Trước đó, Đại tá Dung là Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, về giữ chức vụ này thay thế Đại tá Trương Sơn Ba tức Ya Ba đắc cử vào Thượng Nghị Viện.

Nhìn chung, tình hình tại Pleiku lúc bấy giờ khá yên tĩnh. Có mấy lần tôi theo Thiếu tá Tải đi xe Jeep vào tận các nơi xa xôi hẻo lánh để thăm các phân chi khu mà chẳng phải lo ngại gì. Chỉ có những phân chi khu nằm bên ngoài Bộ Chỉ Huy Chi khu Thanh An về phía Đức Cơ là bị cộng quân mấy lần quấy nhiễu về ban đêm. Cũng nhờ đi theo Thiếu tá Tải vào tận các làng xã mà tôi hiểu thêm về đời sống của dân quê nghèo khổ tại Pleiku, nhất là người Thượng. Và cũng nhờ đi theo Thiếu tá Tải mà tôi biết trước việc Tướng Toàn bị thay thế.

Khoảng cuối tháng Mười, tôi và Thiếu tá Tải ghé vào dùng cơm trưa với một linh mục quản nhiệm một xứ đạo gần Thanh An nhân một chuyến công tác tại đây. Vị linh mục này có tên là Thành, hỏi tôi ở Sàigòn ra hồi nào và cho biết rằng Ngài có quen biết với vị linh mục quản nhiệm giáo xứ của tôi. 

Sau khi ăn trưa, trong lúc Thiếu tá Tải ngồi lại phòng ăn uống trà với linh mục Thành thì tôi ra phía sau nhà hút thuốc và ngắm cảnh núi đồi. Tôi nghe linh mục Thành nói với Thiếu tá Tải rằng “Tướng Toàn kỳ này phải đi đấy!” Thiếu tá Tải vốn ăn nói nhỏ nhẹ, nói những gì sau đó tôi không nghe rõ.

Vài ngày sau, tôi theo Thiếu tá Tải xuống thanh tra các phân chi khu thuộc Phú Nhơn. Tối hôm đó, chúng tôi dùng cơm trong Bộ Chỉ Huy Chi Khu Phú Nhơn với Thiếu tá Cẩn, thân sinh của ông và không có mặt Thiếu tá Thành. Suốt bữa cơm, hai ông thiếu tá này bàn đủ chuyện nhưng không thấy Thiếu tá Tải nói về Tướng Toàn. Sau bữa ăn tối, tôi nói muốn ra bên ngoài chơi và ngủ tối ngoài đó. Thiếu tá Cẩn cười cười nói rằng ra ngoài đó chơi rồi về trong này mà ngủ, đừng có sợ pháo kích vì vùng này rất an ninh. Thiếu tá Tải thì cho phép tôi lái chiếc xe Jeep mang số 113-275 ra ngoài đó nhưng phải trở vào trước tám giờ sáng hôm sau. Tuy nhiên, cô con gái của gia đình quen đã chạy chiếc Honda Dame vào đón tôi ra nhà cô. Chính cái đêm ngủ lại tại nhà người quen này đã khiến tôi rất có cảm tình với dân quê miền Trung, mãi cho đến bây giờ. Tôi rất phục việc nhiều gia đình dù nghèo khổ cách mấy cũng cố gắng cho con ăn học nên người. Cô gái mà tôi nói ở trên lúc đó đang tập sự y tá tại Dân Y Viện Pleiku mà tôi quen biết là vì chiều nào cũng đi bộ từ Bộ Chỉ Huy về nhà tại Cư xá Trần Quí Cáp ngang qua đó nên chào hỏi nhau nhiều lần rồi thành quen.

Trở lại việc Thiếu tá Cẩn nói rằng vùng của ông rất an ninh không sợ pháo kích ban đêm thì thực ra lúc đó tại bất cứ vùng nào trong tỉnh Pleiku cũng vậy mà theo tôi biết là do Tướng Toàn.

Cứ mỗi lần một nơi nào đó trong tỉnh lỵ Pleiku hoặc các vùng phụ cận mà bị pháo kích ban đêm là ngay sáng hôm sau có một uỷ ban điều tra được thành lập. Thông thường, uỷ ban này gồm có các sĩ quan thuộc Văn Phòng Tổng Thanh Tra, Ty An Ninh Quân Đội, Phòng Nhì và Phòng Ba Tiểu Khu Pleiku cùng với một sĩ quan Pháo Binh. Cũng thông thường, khoảng ba hay bốn giờ chiều cùng ngày thì uỷ ban điều tra trở về sau khi đã tìm ra vị trí cộng quân đặt hoả tiễn hay đại pháo và lẽ đương nhiên là biết rõ nơi đó thuộc phạm vi trách nhiệm của đơn vị nào. Thời gian còn lại của chiều hôm đó, vị chủ tịch của uỷ ban điều tra sẽ hoàn thành Phúc Trình Điều Tra để cho đả tự viên đánh máy trình thượng cấp vào sáng sớm hôm sau. Chỉ một hoặc hai ngày sau, viên đơn vị trưởng có chịu trách nhiệm an ninh khu vực mà cộng quân đặt hoả tiễn sẽ mất chức. Tôi biết có ít nhất hai tiểu đoàn trưởng Địa Phương Quân bị mất chức trong trường hợp như vậy. Vì thế nên nhiều người “khoái” Tướng Toàn ở điểm đó. Tôi nhận thấy Tướng Toàn không làm như vậy cũng không được bởi vì Pleiku là nơi đặt bản doanh của rất nhiều đại đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Nếu không kể Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II và Quân Khu 2 thì tại Pleiku còn có, tính từ đông sang tây và theo tôi biết, Liên Đoàn 322 Yểm Trợ Trực Tiếp, Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu 2, Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị, Liên Đoàn 72 Quân Y, Sư Đoàn 6 Không Quân, Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu, Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh tại Căn Cứ Hàm Rồng. Ngoài ra, tại Pleiku còn có một kho xăng thùng và một kho xăng bồn mà đặc công Việt Cộng bò vào rất thường xuyên để rồi chết banh xác.

Từ tháng Mười Một 1974, bầu không khí tại các đơn vị tại Pleiku nhộn nhịp hẳn lên vì các ông thay phiên nhau... khao lon. Ngoài hai đại tá được lên chuẩn tướng là Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân và Trần Văn Cẩm, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II thì còn vô số các sĩ quan cấp uý lên cấp tá. Tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Pleiku, sĩ quan lên cấp tá duy nhất là Đại Uý Phạm Viết Giáp, Trưởng Phòng Nhì. Ông này vừa ít giao thiệp vừa nghèo nên không có tiền khao lon ai cả. Các tiểu đoàn trưởng Địa Phương Quân lên thiếu tá gồm có Đại Uý Trần Kỳ, Tiểu Đoàn Trưởng 205 (ông này mới về thay Đại Uý Nguyễn Tấn Á), Đại Uý Nguyễn Quang Miên, Tiểu Đoàn Trưởng 222 và Đại Uý Nguyễn Hải Thành, Tiểu Đoàn Trưởng 279. Trong ba ông này, Thiếu tá Thành là người đối xử với tôi tốt nhất, như anh em một nhà. Tôi không quen biết Thiếu tá Miên còn riêng về Thiếu tá Kỳ thì tôi nghe nhiều người khen.

Cũng trong thời gian này, có một số người bắt đầu kín đáo bàn tán về tin Tướng Toàn sắp bị thay thế. Tuy nhiên, tôi không nghe thấy bất cứ ai nói rằng ai sẽ là người thay thế Tướng Toàn. Tôi cứ tưởng rằng một khi chuẩn bị ra đi thì người ta không màng đến công việc thường nhật như trước nữa nhưng đối với Tướng Toàn thì lại khác. 

Một ngày kia, chúng tôi được lệnh mở lại hồ sơ điều tra về vụ Plei Dolim. Trước đó, Việt Cộng về lùa dân chúng, hầu hết là người Thượng, vô rừng “học tập” và một đơn vị được lệnh đi giải cứu. Tuy nhiên, đơn vị này chỉ tiến vào rừng một đoạn rồi được lệnh trở về sau khi báo cáo rằng không tìm thấy dấu vết của dân chúng cũng như Việt Cộng. Trên đường về, cái đơn vị này có bắt đi một số gia súc của người Thượng và họ làm dữ sau đó. Theo vài người nói, nếu ngoài đó không làm đến nơi đến chốn thì sẽ có một phái đoàn từ Giám Sát Viện ra điều tra chứ không phải chuyện nhỏ. Có lẽ phúc trình điều tra trước đó không làm cho thượng cấp hài lòng nên người ta bắt mở hồ sơ thêm một lần nữa. Lần này, trên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tăng cường cho chúng tôi một sĩ quan là Thiếu tá Hương (không nhớ họ). Thế là chúng tôi lại gửi công điện đi để gọi hết người này đến người khác về trình diện để thẩm vấn. Có lần, chúng tôi phải gọi cùng một lúc tới mấy sĩ quan về để họ đối chất với nhau nên đơn vị đó không còn đủ sĩ quan thay thế tạm thời. Mấy “ông” bên Phòng Tổng Quản Trị gặp chúng tôi cứ trách lên trách xuống.

Một buổi sáng nọ, tôi vừa xuống ca trực mà không có gì cần làm ngay nên nhân gặp Thiếu uý Nguyễn Đăng Mừng bên Ty Nhân Dân Tự Vệ ghé ngang, tôi cùng ông này kéo nhau ra một tiệm cà-phê trên Đường Hoàng Diệu nghe nhạc, định đến khoảng 10 giờ sẽ trở về. Chúng tôi chưa nghe xong một mặt của cuốn băng Anna 5 thì anh chàng tài xế chạy ra tìm.

Về văn phòng, tôi được lệnh phải cầm chồng hồ sơ Plei Dolim lên Văn Phòng Tư Lệnh Quân Đoàn ngay lập tức vì Trung Tướng Toàn muốn xem một số chi tiết trong đó, thay vì đợi đến khi có phúc trình điều tra như thường lệ. Khi chiếc xe bắt đầu chạy vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, nghe anh tài xế nói, tôi mới biết rằng theo lệnh của Tướng Toàn, chỉ có xe du lịch và xe Jeep mới được phép ra vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II bằng cổng chính.

Vừa lên lầu, tôi đã gặp ngay một viên đại uý đứng chờ. Ông này vừa lật hồ sơ ra xem vừa hỏi tôi về một số chi tiết. Sau đó, ông đem chồng hồ sơ vào trình Trung Tướng Toàn và một lúc sau trở ra, nói với tôi rằng nếu trong khoảng nửa tiếng nữa mà không thấy Tướng Toàn gọi vào hỏi thêm chi tiết thì tôi có thể ra về. Nửa tiếng sau, tôi chào viên đại uý ra về sau khi ông này hứa sẽ cho người mang hồ sơ xuống trả lại.

Sau này, có dịp gặp Trung uý Lãnh của Văn Phòng Tổng Thanh Tra Quân Đoàn II, tôi mới biết trên đó cũng mở một cuộc điều tra riêng của họ về vụ Plei Dolim.

Sau đó, không biết vì lý do gì, một sĩ quan cấp tá khác là Trung tá Đoàn Tuệ từ Phòng Ba Quân Đoàn II xuống làm việc chung với chúng tôi. Trung tá Tuệ và Thiếu tá Nguyễn Tải thay phiên nhau đi thanh tra các phân chi khu trong khi tôi lại phải sang phần hành thanh tra các tiểu đoàn Địa Phương Quân. 

Thông thường, trong các cuộc thanh tra thường niên, phái đoàn chúng tôi dựa vào các câu hỏi đã ghi sẵn trong mẫu QĐ mà thanh tra từng lãnh vực trong đó gồm có:

- Quân Số và Quản Trị Nhân Viên;
- Tổ Chức và Huấn Luyện;
- Trang Bị Cơ Hữu;
- Hành Chánh Tài Chánh, Ẩm Thực Vụ, Quân Tiếp Vụ và Thực Phẩm Phụ Trội;
- Chiến Tranh Chính Trị, Kỷ Luật và Tinh Thần;
- Doanh Trại, Trại Gia Binh và An Ninh Đồn Trú 
- Hoạt Động của Đơn Vị.

Về sau, mục Thực Phẩm Phụ Trội được bãi bỏ và thay vào đó, chúng tôi có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo hàng tháng về tù hàng binh địch.

Việc thanh tra các tiểu đoàn Địa Phương Quân đã đem lại cho cá nhân tôi nhiều thù oán sau này. Số là dựa theo những gì mình xem xét, các lãnh vực trên đây sẽ được đánh giá Thượng Hạng, Ưu, Bình, Thứ, và Liệt. Đơn vị nào mà bị xếp vào loại Liệt thì đơn vị trưởng coi như mất chức. Đơn vị nào bị xếp hạng Thứ thì ít nhất cũng có vài sĩ quan lãnh từ tám ngày trọng cấm trở lên. Có một lần, chúng tôi ghi vào phúc trình rằng “Đơn vị chưa có Huấn Thị Điều Hành Căn Bản”. Đọc xong, Đại tá Dung nổi giận cầm bút phê ngay bên cạnh “Phạt đơn vị trưởng tám ngày trọng cấm”. Cũng có những trường hợp chúng tôi bị oán trách từ các đơn vị khác, không phải đơn vị bị thanh tra mà chúng tôi chỉ xin kể ra một ví dụ.

Có nhiều đơn vị trưởng bổ nhiệm một số sĩ quan vào các chức vụ mà họ chưa từng theo học khoá căn bản, chẳng hạn như sĩ quan trưởng Ban Tư nhưng chưa học khoá tiếp căn bản về liệu bao giờ. Theo chỉ thị, chúng tôi phải phúc trình sự việc này và kết quả là Phòng Tổng Quản Trị phải gửi ông này đi học đồng thời phải kiếm người thay thế tạm thời. Nhiều khi gặp mấy ông bên Phòng Tổng Quản Trị, tôi bị họ trách hoài vì kiếm ra người có đủ khả năng chuyên môn để thay thế không phải là chuyện chơi. Nhưng tôi nghe nói đã có những vụ mua chuộc hối lộ nhau trong những trường hợp như vậy. Và cũng chỉ vì làm việc quá thẳng thắn, không biết “du di” mà có lần chúng tôi suýt mang hoạ vào thân.

Vào thượng tuần tháng Chạp 1974, việc Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn sắp sửa giã từ Quân Đoàn II và Quân Khu 2 là điều mà gần như ai cũng biết. Sau đó, lại có tin thay thế Tướng Toàn sẽ là Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, lúc đó đang là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Quang Trung. 


Có rất nhiều người chú ý đến việc Tướng Phú chưa từng làm đơn vị trưởng một đại đơn vị nào tại Cao Nguyên bao giờ thì nay làm tư lệnh cả một quân đoàn liệu có gặp trở ngại gì hay không. Kế đến, lại cũng có nhiều người đoán tới đoán lui ai sẽ là tham mưu trưởng mới của quân đoàn. 

Ngày 8 tháng Chạp, tôi ở lại văn phòng làm việc rất trễ và đến khoảng tám giờ tối thì có người dưới phòng trực đem xuống cho tôi một điện văn để trong bao thơ có mấy chữ Thượng Khẩn và Kín để tôi ký nhận. Mở bao thư ra xem, tôi mới biết đó là một công điện gọi tôi về Sàigòn nội nhật hôm sau mà đoạn cuối trong đó chỉ ghi rằng “Lý do cho biết sau.” Tôi ở lại văn phòng làm cho xong văn kiện dở dang rồi lên nhà Thiếu Tá Lê Văn Tư là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi trên Chợ Mới để báo tin. Nhân tiện, tôi nhờ ông sáng sớm hôm sau gọi điện thoại sang Thiếu Tá Đinh Văn Yên, Chỉ Huy Trưởng Quân Vận Pleiku xin ưu tiên dành chỗ trên phi cơ cho tôi về Sàigòn trong ngày 9 mong gặp may mắn. Gần tám giờ sáng ngày hôm sau, tôi vào đến văn phòng thì tất cả mọi người đã có mặt. Thiếu Tá Tư bảo đả tự viên đánh sự vụ lệnh cho tôi mà trong phần “Ngày về” ghi là “Khi xong công tác”. Sau đó, ông nói với tôi rằng bên Quân Vận cho biết ngày hôm nay sẽ có rất nhiều phi vụ chuyển quân từ Sàigòn ra nên khi trở về, phi cơ trống chỗ nhiều lắm, không có ai phải đợi sang ngày hôm sau. Ngay sau đó, tôi lại phải sang Khối Tài Chánh của Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận để lãnh lương. Trưởng Khối là Trung Uý Nguyễn Văn Nam giúp tôi xong việc rất nhanh chóng. Sau này, tôi nghe tin anh Nam đã tử nạn trong khi di tản tại Phú Bổn. Tin này làm tôi vừa buồn vừa ân hận vì vào tháng Chín trước đó, tôi có lỗi với anh mà chưa có dịp gặp riêng để xin lỗi.

Lãnh lương xong, tôi sang Quân Vận Pleiku trình sự vụ lệnh để xin phi vụ thì quả nhiên sau đó được cho biết rằng sẽ có chỗ cho tôi trên chuyến bay lúc hai giờ. Tôi xin dời lại bốn giờ vì như vậy, tôi có thể thu xếp một số công việc cá nhân khác. Sau đó, tôi đang định đi bộ ra một tiệm ăn trên Đường Lê Lợi thì gặp Trung Uý Nguyễn Hữu Cải thuộc Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị lái xe chở một số sĩ quan cấp úy chạy vào. Trung Uý Cải cũng cho biết rằng bình thường thì đơn vị của anh phải mua vé Hàng Không Việt Nam cho các quân nhân đi công tác nhưng hôm nay thì có nhiều phi vụ quân sự nên tiết kiệm được khá nhiều tiền. Anh Cải cao lớn, đẹp trai và rất có tư cách, là một trong những đàn anh mà tôi quí mến nhất trong suốt thời gian phục vụ trong quân đội. Rất tiếc rằng đó là lần sau cùng tôi gặp anh vì sau này anh lâm bệnh rồi qua đời trong một trại tù ngoài miền Bắc.

Đi dọc theo Đường Lê Lợi, tôi thấy những chiếc vận tải cơ Hercules C-130 nối tiếp nhau hạ cánh và cất cánh. Có thể nói rằng lúc nào nhìn lên bầu trời lúc đó cũng thấy một chiếc đảo vòng quanh phi trường Cù Hanh. Chiều hôm đó vào phi trường, tôi mới biết có một đơn vị Biệt Động Quân được chuyển từ Sàigòn ra. Nhìn thấy các anh chuyển những khẩu đại bác 105mm từ phi cơ xuống, tôi biết đơn vị này ở cấp liên đoàn.

Trưa ngày 23, tôi xuống Trung Tâm Xã Hội Quân Đội tại Ngã Sáu xin phi vụ trở ra Pleiku thì trưa hôm sau có được chỗ trên một chiếc Caribou C-7. Lúc ngồi chờ phi vụ tại Phòng Hành Khách Quân Sự của Phi Trường Tân Sơn Nhứt, tôi gặp một thằng bạn bên Quân Cảnh cùng với mấy đồng đội áp tải một toán tù binh Việt Cộng vào ngồi tại một khu riêng biệt. Trong toán này, tôi thấy có hai chị bị còng tay chung với nhau chạy lạch bạch, tay còn lại cũng làm điệu cầm một chiếc khăn mouchoir. 

Tôi trở ra Pleiku vào khoảng hơn bốn giờ chiều, lúc sương trắng đã xuống che kín đường phố. Sau khi tắm rửa, tôi vào đơn vị thì hầu hết đã về nhà chuẩn bị cho đêm Giáng Sinh. Điều này chứng tỏ rằng lệnh cắm trại cũng không gắt gao cho lắm. Tôi ghé qua phòng trực thì gặp mấy thằng bạn nói rằng mày không ra sớm mà chứng kiến lễ bàn giao quyền Tư Lệnh Quân Đoàn giữa Tướng Toàn và Tướng Phú rất oai nghiêm. Nghe vậy, tôi ghé qua Khối Chiến Tranh Chính Trị xin phép xem một số hình ảnh về buổi lễ này.

Đến đây, tôi nghĩ cũng nên nói qua về Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và kế đến là Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II.

Vào tháng Mười 1973, Tướng Phú, lúc đó là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Quang Trung, muốn ra xạ trường xem việc sử dụng nòng giảm thiểu M-72 trong việc huấn luyện. Hôm đó, tháp tùng Tướng Phú ra xạ trường có tới hàng chục sĩ quan cấp tá còn tôi vì là tép riu nên ôm cặp đi sau cùng. Đó là lần duy nhất trong đời quân ngũ tôi có dịp đi theo và đứng gần Tướng Phú. Tôi thấy ông nói năng nhỏ nhẹ và giản dị.

Tôi không phải là một người có đủ tư cách và kiến thức quân sự để đánh giá khả năng Tướng Phú. Trong thời gian ngắn ngủi ông ở Pleiku, tôi để ý thấy tất cả các phúc trình đưa lên ông, ông đọc xong, phê bên cạnh bằng bút lông mực đỏ mà không bao giờ bỏ dấu. Về việc Tướng Phú đề cử mấy người bạn của ông ra giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II và Quân Khu 2 mà không được chấp thuận, tôi chỉ biết được một số chi tiết.

Khi Tướng Phú còn ở TTHL Quang Trung, Chỉ Huy Phó của trung tâm là Đại Tá Phạm Văn Huấn và Tham Mưu Trưởng là Đại Tá Phạm Văn Hưởng. Tuy cả ba cùng là Phạm Văn nhưng hai ông kia không phải là bà con thân thích nên có lẽ ông không muốn kéo theo ra Pleiku. Người thứ nhất mà ông muốn giữ chức TMT QĐII là Đại Tá Biệt Động Quân Nguyễn Văn Đại, lúc đó đang là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Theo những người biết về Đại Tá Đại kể lại thì ông là một sĩ quan ưu tú và giỏi về hành chánh quản trị nhưng chức tham mưu trưởng một quân đoàn quả là quá lớn và xa lạ với ông. Nhận xét của cá nhân tôi là Đại Tá Đại hiền lành và khiêm cung giống Đại Tá Huấn của TTHL Quang Trung. Dù sao đi nữa thì việc đề nghị này cũng không được Bộ Tổng Tham Mưu chấp thuận. Kế đến là Đại Tá Cao Đăng Tường. Tôi biết ông này từ năm 1968 khi ông còn là Trung Tá Cục Trưởng Cục Chính Huấn. Ông rất hiền lành nhưng nếu nói về khả năng để giữ chức tham mưu trưởng một quân đoàn thì ông thua Đại Tá Đại. Có lẽ vì vậy nên Bộ TTM cũng không chấp thuận cho ông ra giữ chức vụ TMT QĐ II mà thay vào đó, bổ nhiệm Đại Tá Lê Khắc Lý.

Về Đại Tá Lý, tôi phải công nhận hai điều. Thứ nhất, ông khá nghiêm khắc nên nhiều người không ưa. Thứ hai, ông thừa khả năng giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II và Quân Khu 2. Và điều thứ hai này mới là quan trọng, nhất là ông thuộc loại khá thanh liêm. Đại Tá Lý đã hai lần giữ chức Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 22 Bộ Binh dưới quyền Đại Tá và Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Hiếu nên rất am tường địa hình tại Cao Nguyên cũng như vùng duyên hải. 

Mới về nhậm chức được ít lâu, Đại Tá Lý gửi đi các đơn vị một sự vụ văn thư ra lệnh cho tất cả các quân nhân trực thuộc Quân Đoàn II phải bỏ quân phục bốn túi có kiểu túi tròn, dùng nút của Mỹ giấu bên dưới nắp áo và nắp túi. Thay vào đó, tất cả phải mặc quân phục đúng theo mẫu của Cục Quân Nhu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Anh em chúng tôi thường than phiền là nút áo của Việt Nam làm mỏng dính, khi bỏ ngoài tiệm giặt ủi rất thường bị bể.

Có một ngày nọ đang có lệnh cấm trại, Đại Tá Lý chạy xe ngang qua khu Diệp Kính thấy quân nhân đến đó rất đông để xem phim Gia Lăng Trùng Kiến Tinh Võ Môn. Ngay sau đó ông gọi điện thoại xuống các đơn vị trưởng nghoé cho một tăng. Tôi lại thích Đại Tá Lý ở điểm này. Trong khi Tướng Phú phải chấp nhận việc Bộ Tổng Tham Mưu bổ nhiệm Đại Tá Lê Khắc Lý thì ông lại có toàn quyền bổ nhiệm các tham mưu trưởng tiểu khu mà đầu tiên là Pleiku.

Người đầu tiên mà Tướng Phú bổ nhiệm thay thế Trung Tá Lê Thường trong chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Pleiku là Thiếu Tá Đàm Văn Từ, một người mà tôi chưa hề nghe nói tới. Chỉ một tháng sau, Thiếu Tá Từ lại sang giữ chức Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Pleiku và thay thế Thiếu Tá Từ là Trung Tá Trần Hữu Tác.

Trước đó cả chục năm, tôi đã biết ông này khi ông còn là một trung uý trưởng trại của Lực Lượng Đặc Biệt. Về sau, ông trở thành một trong những sĩ quan ưu tú của binh chủng này. Việc đưa ông về Pleiku giữ chức tham mưu trưởng là đúng, nhiều người muốn, nhưng tại sao Tướng Phú không đưa ông về ngay từ đầu. Trong thời gian đó, tất cả các đơn vị đều bận rộn vì tình hình biến chuyển cùng với việc thay đổi cấp số đơn vị mà cứ phải họp hành thuyết trình liên miên khi có tham mưu trưởng mới, rất phiền phức, nhất là đối với các đơn vị trưởng trấn thủ xa xôi.

Ngày 9 tháng Giêng 1975, anh em chúng tôi được tin Phước Long thất thủ. Tuy nhiên, tôi thấy hầu hết đều có vẻ buồn hơn là lo lắng vì theo họ, tình hình chung trên toàn lãnh thổ không đến nỗi nào. Tôi có một người bà con lúc đó đang ở Phước Long là Linh Mục Vũ Cát Đại, Trưởng Phòng Tuyên Uý Công Giáo Tiểu Khu Phước Long. Vài ngày sau tôi gọi điện thoại về Sàigòn hỏi thăm thì được xác nhận rằng ông đã bị xem như mất tích cùng với Đại Tá Nguyễn Thống Thành và Trung Tá Nguyễn Văn Thành (không phải Trung Tá Thành “Râu” bên Nhảy Dù). Vài ngày sau nữa, chúng tôi nhận được một lá thư của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, đang giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trường Thiết Giáp, gửi ra hỏi thăm chung. Rồi Đại Tá Nguyễn Đức Dung cũng đi theo Tướng Toàn. 

Tối hôm đó, tôi đang ngồi trực thì được lệnh lên ngay Liên Đoàn 66 Khai Thác Truyền Tin Diện Địa để nhận một bưu điệp từ Phủ Thủ Tướng gởi ra có độ khẩn là Hoả Tốc và độ mật là Tối Mật. Vì chỉ có sĩ quan tổng trực mới có quyền mở một bao thư có hai chữ Tối Mật nên tôi đem bao thư đó sang Toà Hành Chánh thì thấy Thiếu Tá Khổng Trọng Phương đang đứng chờ tôi ngoài hành lang lầu một còn Đại Tá Nguyễn Đức Dung thì đi đi lại lại trong văn phòng của ông có gắn hai chữ Tỉnh Trưởng phía bên trên cửa. Thiếu Tá Phương vốn ít nói, chỉ nhận lấy bao thơ, không hỏi gì cả rồi vỗ vai ra hiệu cho tôi về. Gần trưa ngày hôm sau, anh bạn bên Phòng Nhì nói nhỏ cho biết bưu điệp đó có nội dung “Đại Tá Nguyễn Đức Dung chuẩn bị bàn giao chức vụ Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng”. Không biết Thiếu Tá Phương hay Đại Uý Phạm Ngọc Minh Chánh Văn Phòng Tỉnh Trưởng “xì” tin này ra. Lúc đầu, nhiều người xì xào rằng Tân Tỉnh Trưởng Pleiku sẽ là Trung Tá Chương lúc đó đang chỉ huy Tiểu Đoàn 69 Pháo Binh. Sau đó, tôi mới được biết người thay thế Đại Tá Dung sẽ là một người bạn cùng Khoá 11 Võ Bị với ông, Đại Tá Hoàng Thọ Nhu, lúc đó đang là một Liên Đoàn Trưởng Biệt Động Quân.

Tôi biết Đại Tá Nhu khá rõ. Vào năm 1965, khi Đại Uý Bùi Hữu Nghĩa (thường được gọi là Đại Uý Paul), Tiểu Đoàn Trưởng 36 Biệt Động Quân hy sinh tại mặt trận Phước Long thì ông Nhu đã là một thiếu tá ưu tú của binh chủng này. Năm 1972, tôi có phục vụ dưới quyền ông trong một thời gian ngắn tại mặt trận Tân Cảnh, Kontum. Khoảng gần cuối tháng Giêng 1975, Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II xuống chủ toạ lễ bàn giao chức vụ giữa Đại Tá Dung và Đại Tá Nhu, tổ chức ngay sân cờ Toà Hành Chánh mà tôi cũng có mặt.

Vài ngày sau, chúng tôi nhận được Sự Vụ Văn Thư số 7474 từ Bộ Tổng Tham Mưu kèm theo một phụ bản dày gần bằng nửa cuốn Melway tại Úc hiện nay. Phụ bản này được in bằng hai thứ tiếng Việt – Anh mà theo đó, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Pleiku sẽ không còn chức vụ Tiểu Khu Phó. Vì vậy, Tiểu Khu Phó lúc đó là Trung Tá Quách Năng ra giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Chiến Thuật. Hai tuần sau, Thiếu Tá Lê Phú Mỹ cũng đi theo Đại Tá Dung và Trung Tá Năng lại giữ chức vụ Chi Khu Trưởng Thanh An thay thế Thiếu Tá Mỹ.

Trước Tết Ất Mão mấy ngày, Cộng quân vị phạm ngưng bắn, tất công một số vị trí gần Thanh An khiến nhiều thường dân thương vong. Vì vậy nên Trung Tá Năng hướng dẫn một phái đoàn của Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát Đình Chiến ICCS đến tận nơi xem xét. Cộng quân lại tấn công luôn cả đoàn xe này khiến Trung Tá Năng bị thương mù mất một mắt. Thiếu Tá Nguyễn Tải lại từ giã chúng tôi ra làm Quận Trưởng Thanh An một lần nữa. Thực tình mà nói, lúc đó tôi căm giận bọn Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt hơn bao giờ hết.

Chiều 30 Tết, tôi ở lì trong văn phòng không đi đâu cho đến gần trưa hôm sau thì Thiếu Tá Tư cho tài xế vào đón tôi lên nhà ông dùng cơm. Đến chiều, tôi ghé xuống nhà một người bạn thăm bà vợ mới sanh rồi trở về văn phòng. Tối hôm đó, trong phòng trực rất đông anh em nên tôi cũng xuống đó cho vui. Chúng tôi dành rất nhiều thì giờ để bàn về chiến sự và tôi thấy những người phục vụ lâu năm tại Pleiku không tin rằng Việt Cộng sẽ dám tấn công vào đây. Cứ nhìn lại Trận Mậu Thân thì rõ, tấn công Ban Mê Thuột thì Việt Cộng may ra còn có thể đạt được một mục đích nào đó chứ tấn công Pleiku thì chỉ có nướng quân vô ích.

Khoảng một tuần sau, các anh em trong Đại Đội Tình Báo Quân Đoàn II trong khi công tác dọc theo biên giới ghi nhận được nhiều tin tức và dấu hiệu cho thấy Cộng Quân sẽ tấn công Ban Mê Thuột. Tướng Phú không tin. Mấy ngày sau nữa, có mấy người đi làm gỗ trong rừng về báo cáo rằng nhiều đại đơn vị Cộng Quân di chuyển về hướng Ban Mê Thuột, bánh xe tạo thành hai đường mòn song song trong rừng, Tướng Phú cũng vẫn tin rằng chúng sẽ đánh Pleiku. Vì vậy nên chúng tôi được lệnh chuẩn bị cho công việc phòng thủ.

Ngay sau đó, có mấy chiếc máy ủi đến đào đất phía sau văn phòng Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu để làm bunker chỉ huy. Họ thắp đèn sáng trưng làm việc cả ngày đêm, máy chạy ầm ì làm anh em tôi hết ngủ. Kế đến, các quân nhân trong Trung Đội Công Vụ đặt thêm các bao cát dọc theo hàng rào và các bức tường quanh trại trong khi anh em chúng tôi lại được huấn luyện bổ túc tại chỗ về M-72 và một số vũ khí khác. Sau đó, cả Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Pleiku được tổ chức thành các trung đội để sẵn sàng tác chiến. Trung đội trưởng là một trung uý hay đại uý và riêng tiểu đội của tôi có tới gần một chục thiếu uý và chuẩn uý nhìn nhau nhe răng cười. Rốt cuộc, Việt Cộng không đánh Pleiku; chúng tấn công Ban Mê Thuột. 

Chiều ngày 12 tháng Ba 1975, anh em chúng tôi được tin thị xã Ban Mê Thuột mất, nhưng nhiều đơn vị của ta vẫn còn chống trả mãnh liệt tại các nơi khác quanh đó. Tối hôm đó, tôi biết tin hai Đại Tá Vũ Thế Quang và Nguyễn Trọng Luật bị Việt Cộng bắt sống. Ngày 14, Linh Mục Tuyên Uý Phan Hữu Hậu thoát về được từ Ban Mê Thuột. Ông đến Trung Tâm Hành Quân cho anh em chúng tôi biết tình hình tại đó. Kể từ lúc đó, tôi thấy dân chúng khá xôn xao và một số bắt đầu di tản về Nha Trang và Sàigòn. Có mấy gia đình quen chạy vào nhờ tôi xin giùm phương tiện cho gia đình họ nhưng tôi không dám nhận lời. 

Cũng trong ngày 14, tôi theo một phái đoàn vào xem xét trong Phi Trường Cù Hanh thì thấy dân chúng xúm lại chờ ngoài cổng. Đứng từ Đường Phạm Phú Quốc nhìn xuống phi đạo, chúng tôi thấy những chiếc Chinook CH-47 lần lượt hạ cánh và cất cánh di tản một số quân dân về Nha Trang. Chúng tôi vừa rời phi trường được một lúc thì cộng quân pháo kích vào. Chiều hôm đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra mật lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú dời tất cả các đại đơn vị chủ lực tại Pleiku về Nha Trang, bỏ lại tất cả các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân. Sáng hôm sau, tôi được một sĩ quan bên Sở II An Ninh Quân Đội nói nhỏ cho biết tin này. Tôi rất hoang mang không biết phải làm sao nên dại dột gọi điện thoại về Sở Nghiên Cứu Kế Hoạch xin chỉ thị thì một lúc sau được trả lời rằng “Không có lệnh riêng nào cho anh hết.” Vì vậy nên tôi không dám bỏ về Sàigòn. Chiều hôm đó, hầu như ai cũng biết về lệnh di tản Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II về Nha Trang nhưng tất cả các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân được lệnh vẫn tiếp tục nhiệm vụ tại vị trí như thường. Đến tối, tôi nghe xe hơi của Ty Dân Vận và Chiêu Hồi chạy vòng vòng trong thị xã phát thanh lời của Đại Tá Nhu kêu gọi dân chúng bình tĩnh và không nên lo nghĩ đến việc di tản.

Trưa hôm sau, tôi gọi điện thoại cho một người bạn là Trung Uý Phạm Biểu Sang bên Sư Đoàn 6 Không Quân thì không thấy ai trả lời. Tôi gọi sang mấy người bạn tại các đơn vị khác thì vẫn liên lạc được. Như vậy, anh em tại hai tổng đài điện thoại Liên Hoa và Liên Giang vẫn còn làm việc như thường. Một lúc sau, có tin đồn Đại Tá Nhu đã bỏ đi và Trung Tá Trần Thanh Tâm tạm thời thay thế. Đó chỉ là tin vịt. Đến chiều, anh em chúng tôi tập họp tại sân cờ, phía trước Phòng Tổng Quản Trị và Phòng Một. Sau đó, Đại Tá Nhu đến nói chuyện và cho biết ông cũng như tất cả các cấp chỉ huy khác đều ở lại với anh em. Tối hôm đó, tôi nghe nói một đơn vị Biệt Động Quân cho nổ tung Ty Ngân Khố Pleiku để cướp tiền. Tôi biết khá rõ, vụ nổ này có thật nhưng không phải là một vụ cướp.

Đại Tá Hoàng Thọ Nhu được lệnh chuyển tất cả số tiền trong Ty Ngân Khố về Sàigòn. Tuy nhiên, sau đó lệnh này được huỷ bỏ vì không xin được phi vụ. Lại sau đó nữa, Đại Tá Nhu được lệnh thiêu hủy tất cả số tiền trong ty. Không biết vì lý do gì, ông lại làm khác. Ông nhờ một đơn vị Biệt Động Quân bảo vệ an ninh để chuyển số tiền này đi và cuối cùng bỏ lên một chiếc trực thăng C&C của một đơn vị trưởng. Xong xuôi, anh em Biệt Động Quân mới phá huỷ Ty Ngân Khố. Nhiệm vụ này không được trao cho một đơn vị Địa Phương Quân là vì sợ gây hoang mang: đã có lệnh ở lại sao lại chuyển tiền đi và đốt phá Ty Ngân Khố? Khi vị chỉ huy trưởng kia về đến Phú Yên, Tướng Phú có đến cảm ơn ông đã điều động việc di tản và sau đó, Đại Tá Nhu cho người đến nhận lại tiền đựng đầy trong một sac marin. Năm 2002, tôi có liên lạc được với Đại Tá Nhu và ông đơn vị trưởng kia để xin xác nhận lại sự việc này.

Kế đến, những ai nói rằng tình hình tại Pleiku cực kỳ rối loạn trong ngày 16 tháng Ba là nói sai. Tôi chỉ công nhận một điều là dân chúng có hoang mang và nhiều
người hơi hoảng. Tối hôm đó, gia đình các quân nhân trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Pleiku kéo vào trong trại rất đông, nằm chật trong các văn phòng. Anh em trong Trung Đội Công Vụ phải canh phòng cẩn mật vì sợ đặc công Việt Cộng len lỏi vào đặt chất nổ hay ném lựu đạn qua hàng rào vào bên trong. Vì phải nhường chỗ nằm cho gia đình của đồng đội nên anh em độc thân chúng tôi kéo nhau xuống... nhà tù lúc đó trống trơn để ngủ. Tuy nhiên, không anh nào ngủ được. Có anh đề nghị binh xập xám cho vui nhưng chẳng ai còn lòng dạ nào mà đánh bài đánh bạc. Chúng tôi nói chuyện trước mắt, người quyết định ở lại người quyết định di tản theo đoàn quân bất chấp có lệnh cấm. Cá nhân tôi lúc đó cũng chưa biết tính sao vì chỉ thị dành cho tôi là “làm việc theo nguyên tắc và quyết định theo tình hình”. Một lúc sau, tôi sang phòng trực nghe ngóng tình hình rồi nằm ngủ quên tại đó.

Khoảng năm giờ sáng ngày 17, nhiều người thức dậy chuẩn bị di tản khiến tôi cũng thức dậy theo. Tôi trở về văn phòng thì Thiếu Tá Tư cho biết Trung Tá Tuệ lấy xe Jeep đi đâu từ hôm qua chưa thấy trở lại. Còn lại một chiếc xe Jeep duy nhất, anh tài xế Trần Giỏi lái chở gia đình Thiếu Tá Tư và vợ con anh, hơi chật nhưng con nít ngồi lên đùi người lớn rồi cũng xong. Trời sáng, chiếc xe từ từ lăn bánh, tôi đi bộ bên cạnh nói chuyện với Thiếu Tá Tư cho đến đường Hoàng Diệu thì bắt tay từ giã ông và về nhà mà tôi mới thuê trên Đường Phó Đức Chính. Nằm nghỉ một lúc, tôi vẫn chưa biết nên làm gì nhưng thấy trong người không yên nên lại ngồi dậy đi vào trại.

Lúc đi ngang qua Phòng Truyền Tin, tôi định ghé vào đó xem nếu anh em bên đó phá huỷ máy móc của họ dưới hầm truyền tin thì tôi cũng tiêu huỷ hết hồ sơ của tôi. Tuy nhiên, nghĩ lại tôi thấy rằng mình không có phận sự thì không nên đi vào đó. Tôi về văn phòng mở tủ hồ sơ ra nhìn một lúc. Cuối cùng, tôi quyết định nửa nọ nửa kia, tức là thiêu huỷ tất cả các hồ sơ điều tra vốn có độ mật cao hơn hồ sơ thanh tra. Các hồ sơ thanh tra thường niên, tôi giữ lại, chỉ thiêu huỷ các hồ sơ thanh tra bất thần và thanh tra đặc biệt. Xong xuôi, tôi sang phòng Thiếu Tá Tư xoá hết tất cả những gì còn ghi lại trên chart thuyết trình. Sau khi “phá hoại” xong, tôi sang các phòng khác thì thấy vẫn còn một số anh em đang đứng nói chuyện với nhau. Hầu hết họ thuộc thành phần binh sĩ, không di tản là vì gia đình họ lập nghiệp tại Pleiku đã lâu nên quyết định ở lại. Gần trưa hôm đó, tôi được một thằng bạn ghé vào cho biết có một đơn vị chiến xa M-48 của Lữ Đoàn II Kỵ Binh đang bắn phá thiêu hủy các kho quân trang quân cụ trên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và họ sẽ di tản trong vài giờ nữa. Đó là một trong những đơn vị Chủ Lực Quân sau cùng còn có mặt tại Pleiku. Nghe nói vậy, tôi liền lấy vũ khí theo nó về nhà ăn cơm xong rồi ra ngã ba Diệp Kính đứng chờ. Một lúc sau, có một đoàn M-48 chạy qua, chiếc chạy gần cuối dừng lại cho tôi leo lên.

Đi đến Hàm Rồng, tôi nhìn về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II thấy khói đen bốc lên ngụt trời. Tôi không dám nhìn lại lần thứ hai. Hai bên đường, dân chúng gồng gánh đi bộ rất đông. Tôi thầm cầu nguyện ơn trên để không xảy ra một Đại Lộ Kinh Hoàng nữa.

Đến chiều, đoàn xe bắt kịp một đơn vị của Liên Đoàn 6 Biệt Động Quân. Không biết có lệnh từ đâu đến hay không mà hai bên phối hợp bảo vệ đoàn xe và người di tản phía trước. Tuy nhiên, chỉ thấy Việt Cộng bắn ra rất ít trong khi các khẩu đại liên bên ta không ngừng nhả đạn vào các bị trí khả nghi. Sáng hôm sau, đơn vị Kỵ Binh được lệnh cho một toán lên trợ chiến cho đoàn người đi trước. Tôi ngồi trên chiếc thuộc toán này.

Thiết giáp có lợi một chỗ là nó có thể leo lên lề mà chạy, vượt qua tất cả các con suối nhỏ hay mô đất. Tuy nhiên, gặp đoạn đường đèo thì cũng nằm chịu trận. Quá trưa, chúng tôi đến Phú Bổn, người và xe kẹt cứng tại đây và Việt Cộng bắt đầu pháo kích. Thấy vậy, đoàn M-48 chạy ra một bãi đất trống dàn đội hình rồi nã đại bác vào các vị trí địch.

Chiều hôm đó, tôi cầm bản đồ và đeo súng đi bộ về phía trước thì gặp lại một số đồng đội. Đến một con dốc, tôi nhìn xuống đoạn đường cuối dốc phía trước thì thấy có một chiếc trực thăng đáp xuống. Lúc đó, tôi đang đứng bên cạnh một chiếc xe Jeep của Sư Đoàn 6 Không Quân mà trên đó có một thiếu tá. Trên xe cũng có một máy truyền tin. Thấy tôi định đi xuống chân đồi nghe ngóng tin tức, một anh Không Quân nói đừng có đến đó sợ Việt Cộng pháo kích vào khi thấy có trực thăng đáp. Vậy nên tôi đợi cho chiếc trực thăng cất cánh rồi mới đi. Đến nơi, tôi được biết sự việc như sau.

Theo lệnh từ đâu không rõ, anh em thuộc Khối Chiến Tranh Chính Trị Quân Đoàn II đánh một lời kêu gọi của Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm rằng tất cả các đơn vị hãy giữ hàng ngũ và sẵn sàng chiến đấu trong khi di chuyển. Sau đó, Tướng Cẩm đáp trực thăng xuống ký vào giấy stencil rồi anh em CTCT lập tức quay ronéo đem đi phân phát khắp nơi. Tôi cũng cầm lấy một xấp đem về.

Chập tối, có hai chiếc trực thăng đến bắn phi đạn xuống các vị trí Cộng quân gần hai bên đường. Khoảng tám giờ tối, Việt Cộng tấn công. Các đơn vị Kỵ Binh cho nổ máy và quay đầu xe tứ phía đối đầu với địch. Cho đến lúc đó, tôi thấy các đơn vị vẫn chiến đấu có trật tự. Chỉ kẹt một điều là Việt Cộng pháo kích bừa bãi khiến dân lành bị chết quá nhiều, những người sống sót kinh hoảng bỏ chạy tứ tung, gây rất nhiều khó khăn cho việc chiến đấu của anh em chúng tôi.


Nguyễn Thế Khiết