Kỹ Thuật Đồ Gốm Việt
Nhiều nhà khảo cổ cho rằng Gốm cổ truyền Việt Nam đã có cách đây sáu, bảy ngàn năm trải qua những thời kỳ văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Hạ Long, rồi trải qua thời kỳ đồ đá Phùng Nguyên, giai đoạn Đồng Đậu và giai đoạn Gò Mun. Nhưng không thấy họ đưa ra được những hiện vật khai quật làm bằng chứng ở những thời văn hóa này. Khoa khảo cổ chỉ cho bằng chứng các hiện vật của những thời kỳ sau đây:Thời kỳ văn hóa Đông Sơn (Thanh Hóa) ,
Nhiều nhà khảo cổ khai quật được những hiện vật như: các loại gùi, vò, ấm, lọ, chậu, các thổ hình lẵng hoa có chân đế và vành rộng với những đồ án hoa văn trang trí phức tạp.
Gốm thời hùng vương 2000 năm trước công nguyên
Thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh
Nhiều nhà khảo cổ khai quật được hàng trăm chum vò gốm ở Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Huế, Đà nẵng, Đồng Nai như:
(Bình gốm Sa Huỳnh. Hiện vật Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Ảnh Nguyễn Anh Tuấn)
Người Sa Huỳnh cổ rất khéo tay và có mỹ cảm tuyệt vời. Các đồ gốm gia dụng đều được tạo dáng thanh nhã, cân đối, hoa văn phong phú, sinh động thể hiện một tâm hồn tinh tế và giàu xúc cảm.Trong gốm Sa Huỳnh, các đồ đựng như bát, bình có chân đế, có thân gãy ở vai hay đáy, chiếm tỷ lệ lớn. Mẫu gốm thường gặp thì vàng đỏ, nhiều khi có vệt đen bóng, có hoa văn chữ S có đệm tam giác, những đường chấm hay đường in dấu răng vỏ sò.
Thời kỳ văn hóa Óc Eo
Nhiều nhà khảo cổ khai quật được những hiện vật gốm là đồ gia dụng ,vật liệu xây dựng và đồ trang trí kiến trúc.
a/ Đồ gia dụng
Đồ gia dụng gồm: bình, hũ, nồi, nắp, bát, cốc, chai… và cả bếp lò.
Bình gốm thì có nhiều loại, loại nào cũng có vòi..
Bếp lò được người Khmer hiện nay ở đồng bằng sông Cưủ Long gọi là “cà ràng” Đây là vật dụng quen thuộc và rất cần thiết cuả cư dân sống ở vùng ven biển và sông rạch, trên nhà sàn hay trên ghe xuồng. Bếp lò gốm đã xuất hiện trong các di tích cư trú và cả trong mộ táng (với chức năng là đồ tuỳ táng) từ thời tiền sử ở lưu vực sông Vàm Cỏ- Đồng Nai và trở thành di vật đặc trưng cuả văn hóa Óc Eo. Hiện nay bếp lò gốm phổ biến ở nhiều nơi trong vùng Đông Nam Á.
b/ Vật liệu xây dựng và đồtrang trí kiến trúc
Gạch là vật liệu xây dựng. Các viên gạch: được trang trí bằng các hình sư tử, rắn mang bành, động vật một sừng và các động vật khác. Còn phù điêu là vật liệu trang trí kiến trúc. Cả gạch và phù điêu được làm bằng đất nung. Gạch và phù điêu là những di vật chủ yếu trong các di tích kiến trúc đền tháp của văn hóa Óc Eo
(Bình gốm Óc Eo có vòi)
Thời kỳ Lý - Trần (thế kỷ XI - XIV )
Những nhà khảo cổ cho rằng thời này đồ gốm sứ cực thịnh Những trung tâm sứ gốm xuất hiện từ thời Lý - Trần mà đến nay vẫn còn hưng thịnh đó là Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Quế Quyển (Hà Nam Ninh), Chum Thanh (Thanh Hóa).
Theo họ , thì Đồ gốm thời Lý - Trần phát triển mạnh, nhiều ở số lượng và quý ở chất lượng. Thịnh hành hai loại gốm chính, là:
(1) Gốm trang trí kiến trúc, thường là đất nung để mộc, hoặc phủ một lớp men có giá trị độc đáo. Ví dụ như gạch có in hoa văn để trang trí với nhiều dáng hình, kích thước khác nhau. Hoặc ngói bò có gắn đầu phượng, đầu rồng. Hoặc hình gốm trang trí hình chiếc lá nhọn đầu để gắn trên nóc hoặc riềm nhà…
(2) Gốm gia dụng, đủ thể loại: bát vò… đĩa, ấm, âu, chén, vại, chum
(Chậu gốm men trắng thời Lý. Cao 24,3cm; ĐKM 25,2cm men trắng và men ngọc tinh xảo)
Giờ đây xin mời độc giả đi tìm hiểu nghề gốm Việt
I- Kỹ Thuật Cơ Bản
1-Lò gốm
Thực ra, nguyên lý của lò gốm xưa và nay không khác nhau nhiều lắm. Nó vẫn dựa trên nguyên lý cơ bản, cấu tạo gồm 3 phần: bầu lò, thân lò, hệ thống ống khói.
- Lò ếch xa xưa
Theo tài liệu của Viện Khảo cổ về việc khai quật khu lò nung gốm sứ ở Bút Tháp (Thuận Thành) thì: Khu lò nung gốm sứ gồm 4 lò với cấu trúc kiểu lò tương tự giống nhau. Toàn bộ lò nhìn bên ngoài có hình quả dưa, giữa phình rộng, hai đầu cụt.. Đó là loại Lò ếch là kiểu lò gốm cổ nhất được sử dụng một cách phổ biến ở khắp mọi nơi. Lò ếch dài khoảng 7 mét, bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 3-4 mét, cửa lò rộng khoảng 1,2 mét, cao 1 mét. Đáy lò phẳng nằm ngang, vòm lò cao khoảng từ 2 mét đến 2,7 mét. Bên hông lò có một cửa ngách rộng 1 mét, cao 1,2 mét phục vụ cho việc chồng lò và dỡ sản phẩm. Lò có 3 ống khói thẳng đứng cao 3-3,5 mét. Bầu lò chia thành 5 khu vực xếp sản phẩm là: hàng dàn, hàng gáy, hàng giữa, hàng chuột chạy và hàng mặt.
Trong quá trình lâu dài sử dụng lò ếch, để khắc phục nhược điểm của lớp đất gia cố bên trong và sàn lò, người ta thay vào đó lớp gạch mộc và vữa ghép lại. Cấu trúc lò ếch rất đơn giản và sáng tạo: thợ đắp lò thời xưa chỉ dùng đất sét mà đắp.
Theo tài liệu khảo cổ học của Sở Văn hóa Bắc Ninh năm 1975, thì lò nung gốm ở Đông Yên
(Bắc Ninh) thời Lê Mạt c ũng tương tự như lò Ếch
- Lò đàn
Lò đàn xuất hiện vào giữa thế kỉ 19. Lò đàn có bầu lò dài 9 mét, rộng 2,5 mét, cao 2,6 mét được chia thành 10 bích bằng nhau. Vị trí phân cách giữa các bích là hai nống (cột). Cửa lò rộng 0,9 mét, cao l mét. Bích thứ 10 gọi là bích đậu thông với buồng thu khói qua 3 cửa hẹp. Để giữ nhiệt, bích lò kéo dài và ôm lấy buồng thu khói. Lớp vách trong ghép gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây bằng gạch dân dụng. Mặt dưới của cật lò gần như bằng phẳng còn mặt trên hình vòng khum. Hai bên cật lò từ bích thứ 2 đến bích thứ 9 người ta dấu mở hai cửa nhỏ hình tròn, đường kính 0,2 mét gọi là các lỗ giòi để ném nhiên liệu vào trong bích. Riêng bích đậu người ta mở lỗ đậu (lỗ giòi rộng hơn nửa mét). Nhiệt độ lò đàn có thể đạt được 1250–1300°C.
- Lò bầu, hay lò rồng
Lò bầu, hay lò rồng, xuất hiện vào đầu thế kỉ 20. Lò bầu chia ra làm nhiều ngăn, thường có từ 5 đến 7 bầu (cũng có khi đến 10 bầu). Bầu lò có vòm cuốn liên tiếp vuông góc với trục tiêu của lò tựa như những mảnh vỏ sò úp nối với nhau. Người ta dùng gạch chịu lửa đề xây dựng vòm cuốn của lò. Lò dài khoảng 13 mét cộng với đoạn để xây ống khói ở phía đuôi dài 2 mét thì toàn bộ độ dài của lò tới 15 mét. Độ nghiêng của trục lò khoảng 12-15⁰. Nhiệt độ của lò bầu có thể đạt tới 1300°C.
-Lò hộp hay lò đứng
Lò hộp hay lò đứng: khoảng năm 1975 trở lại đây người Bát Tràng chuyển sang xây dựng lò hộp để nung gốm. Lò thường cao 5 mét rộng 0,9 mét, bên trong xây bằng gạch chịu lửa giống như xây tường nhà. Lò mở hai cửa, kết cấu đơn giản, chiếm ít diện tích, chi phí xây lò không nhiều, tiện lợi cho quy mô gia đình. Vì thế hầu như gia đình nào cũng có lò gốm, thậm chí mỗi nhà có đến 2, 3 lò. Nhiệt độ lò có thể đạt 1250°C.
- Lò con thoi ,lò tuynen (Lò gốm hiện đại)
Lò con thoi (hay lò gas), lò tuynen (lò hầm, lò liên tục): Trong những năm gần đây, Bát Tràng xuất hiện thêm những kiểu lò hiện đại là lò con thoi, hoặc lò tuynen, với nhiên liệu là khí đốt hoặc dầu. Trong quá trình đốt, nhiệt độ được theo dõi qua hỏa kế, việc điều chỉnh nhiệt độ mà thực chất là quá trình tăng giảm nhiên liệu được thực hiện bán tự động hoặc tự động, công việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều.
- Bao nung
Trước đây, các lò gốm dùng một loại gạch vuông ghép lại làm bao nung. Loại gạch này sau hai ba lần sử dụng trong lò đạt đến độ lửa cao và cứng gần như sành).Gần đây bao nung thường được làm bằng đất sét chịu lửa có màu xám sẫm trộn đều với bột gạch hoặc bao nung hỏng nghiền nhỏ (gọi là sa mốt) với tỉ lệ 25–35% đất sét và 65–75% sa mốt. Người ta dùng một lượng nước vừa đủ để trộn đều và đánh nhuyễn chất hỗn hợp này rồi đem in (dập) thành bao nung hay đóng thành gạch ghép ruột lò. Bao nung thường hình trụ để cho lửa có điều kiện tiếp xúc đều với sản phẩm.. Một bao nung có thể dùng từ 15 đến 20 lần.
Nếu sản phẩm được đốt trong lò con thoi hoặc lò tuynen, thường không cần dùng bao nung.
2- Nhiên liệu
Đối với loại lò ếch có thể dùng các loại rơm, rạ, tre, nứa, các loại “củi phác” và “củi bửa” để đốt lò. Củi bửa và củi phác sau khi đã bổ được xếp thành đống ngoài trời, phơi sương nắng cho ải ra rồi mới đem sử dụng. Đối với loại lò đàn, lò bầu thì tại bầu, người ta đốt củi phác còn củi bửa được dùng để đưa qua các lỗ giòi, lỗ đậu vào trong lò.
Đối với loại lò đứng, nguồn nhiên liệu chính là than cám còn củi chỉ để gầy lò. Than cám đem nhào trộn kĩ với đất bùn theo tỷ lệ nhất định có thể đóng thành khuôn hay nặn thành bánh nhỏ phơi khô. Nhiều khi người ta nặn than ướt rồi đập lên tường khô để tường hút nước nhanh và than chóng kết cứng lại và có thể dùng được ngay.
3- Đất làm Gốm
Nghề gốm thời n ào cũng vậy đều phát triển dọc sát các triền sông, bởi lẽ triền sông tiện đường chuyên chở, và sẵn đất sét là thứ nguyên liệu quý để sản xuất gốm. N ên điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm. Đất sét Trúc Thôn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng xám, độ chịu lửa ở khoảng 1650°C. Thành phần hoá học (tính trung bình theo % trọng lượng) của đất sét Trúc Thôn như sau: Al203: 27,07; Si02: 55,87; Fe203 1,2; Na2O 0,7; CaO 2,57; MgO 0,78; K2O: 2,01; Ti02: 0,81. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất tại chỗ. Trong đất sét thường có lẫn tạp chất, nên người thợ gốm áp dụng phương pháp truyền thống là ngâm đất trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau.
Bể thứ nhất ở vị trí cao hơn cả dùng để ngâm đất sét thô và nước (thời gian ngâm khoảng 3-4 tháng). Đất sét dưới tác động của nước sẽ bị phá vỡ kết cấu hạt nguyên thuỷ của nó và bắt đầu quá trình phân rã (dân gian gọi là ngâm lâu để cho đất nát ra). Khi đất đã “chín” (cách gọi dân gian), đánh đất thật đều, thật tơi để các hạt đất thực sự hoà tan trong nước tạo thành một hỗn hợp lỏng.
Sau đó tháo hỗn hợp lỏng này xuống bể thứ hai gọi là “bể lắng” hay “bể lọc”. Tại đây đất sét bắt đầu lắng xuống, một số tạp chất (nhất là các chất hữu cơ) nổi lên, tiến hành loại bỏ chúng.
Sau đó, múc hồ loãng từ bể lắng sang bể thứ ba gọi là “bể phơi”, người Bát Tràng thường phơi đất ở đây khoảng 3 ngày.
Sau đó chuyển đất sang bể thứ tư là “bể ủ”. Tại bể ủ, ôxyt sắt (Fe2O3) và các tạp chất khác bị khử bằng phương pháp lên men (tức là quá trình vi sinh vật hoá khử các chất có hại trong đất). Thời gian ủ càng lâu càng tốt.
Trong quá trình xử lí, tuỳ theo từng loại đồ gốm mà người ta có thể pha thêm cao lanh ở mức độ nhiều ít khác nhau.
(Pha chế đất)
4- Các loại men
Thợ gốm Việt quen chế tạo men theo phương pháp ướt bằng cách cho nguyên liệu đã nghiền lọc kĩ trộn đều với nhau rồi khuấy tan trong nước đợi đến khi lắng xuống thì bỏ phần nước trong ở trên và bã đọng ở dưới đáy mà chỉ lấy các “dị” lơ lửng ở giữa, đó chính là lớp men bóng để phủ bên ngoài đồ vật. Trong quá trình chế tạo men người thợ gốm nhận thấy để cho men dễ chảy hơn thì phải chế biến bột tro nhỏ hơn nhiều so với bột đất, “.
Các dòng men thợ gốm Việt chế tạo ra
1/- Men tro
2/- Men ngọc là loại men dày màu xanh mát, trong bóng như thuỷ tinh,
Gốmmen ngọc có từ thời Lý - Trần : Người ta thường sánh gốm men ngọc của ta với đồ gốm Long Tuyền thời Tống của Trung Quốc.
3/ Men trắng chàm
Nền men trắng, hoa văn màu xanh biếc
4/ Men màu nâu
Thành phần Men màu nâu bao gồm men tro cộng thêm 5% đá thối (hỗn hợp ôxít sắt và ôxít mangan . .Men nâu có sắc độ đỏ nâu hay gọi là màu bã trầu (chocolate), men này không bóng, trên bề mặt men thường có vết sần
Gốm hoa nâu có từ thời Lý - Trần. Đó là loại gốm đàn, kiểu dáng to, chắc chắn, cốt gốm dầy và thô. Bên ngoài có phủ lớp men trắng ngà hoặc vàng nhạt.
Hình thức trang trí hoa văn trên gốm hoa nâu thường là hoa dây chạy viền quanh miệng đồ gốm. Đặc biệt, hầu hết các sườn gốm hoa nâu có đắp nổi hình hoa thảo, chim cò, thú bốn chân, hoặc tôm cá… rất sinh động. Các hình rồng trang trí ở gốm hoa nâu thời Trần có khác thời Lý. Đó là mình rồng khỏe mập, uốn khúc thoải mái, khác hẳn con rồng thời Lý thân hình thanh mảnh và uốn khúc gò bó.
Thời thế kỉ 14 đầu thế kỉ 15, men nâu kết hợp với men nền màu trắng ngà được dùng tô lên các đồ đồ gốm như chân đèn, thạp, chậu, âu, đĩa..
Thời thế kỉ 16–17, men nâu được dùng xen lẫn với men xanh rêu, men ngà, tạo ra các sắc độ khác nhau. Men nâu tô lên hoa sen hoặc các hình rồng, men nâu tô lên phần chân đế lư hương chữ nhật
Thời thế kỉ 18, men nâu dưới lớp men rạn tạo nên bộ da hổ có màu sắc đa dạng.
Thế kỉ 19, men nâu dùng để tô trên những thân cây tùng, cây liễu hoặc điểm thêm vào các dải mây, tà áo của Bát tiên. Thế kỉ 19 là thời điểm đánh dấu men nâu chuyển sắc thành một loại men bóng (thường gọi là men da lươn), sử dụng rộng rãi ở Bát Tràng cho tới tận ngày nay
5- Men trắng ngà
hình trang trí. Vì men trắng mỏng, xương gốm được lọc luyện kĩ và độ nung cao nên có chất lượng tốt, một số sản phẩm men trắng ngà phủ lên trang trí nổi dày vẫn có vết rạn men.
Thế kỉ 18, men trắng ngà sử dụng trên những lư hương tròn được đắp nổi hình rồng và mặt nguyệt,
Vào thế kỉ 19, men ngà còn thấy sử dụng trên các loại bình, lọ, lư hương, tượng tròn.. Trên các loại bình, lư hương quai tùng, lư hương chữ Thọ; cặp tượng đầu khỉ thân rắn, tượng rồng trang trí kiến trúc, tượng ba đầu, tượng Phật Bà Quan Âm ngồi trên toà sen đều thấy sử dụng men ngà, xám
từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 19.dùng để phủ trên các rìa, ước và đường viền lư hương, rất ít khi phủ lên
6/- Men xanh rêu
Men xanh rêu tô lên những bông sen nổi, các bông hoa tròn hình bánh xe, các hình rồng, các bông hoa nổi đường diềm quanh vai trên chân đèn
Men xanh rêu còn dùng vẽ mây, tô lên các cột dọc của long đình; men rêu sắc sẫm ở các cột vuông mô hình nhà 2 tầng hay một số mảng đường diềm lư hương chữ nhật. Men xanh rêu, sắc nhạt, trên chân đèn, đế nghê. Men xanh rêu sắc sẫm còn thấy tô trên một số mảng trang trí nổi, hình nghê của lư tròn và trên diềm trang trí nổi chân trước tượng nghê.
7 - Men lam
Gốm hoa lam có từ thời Lý - Trần . Loại men này được chế từ đá đỏ (có chứa ôxít côban) đá thối (chứa ôxít mangan) nghiền nhỏ rồi trộn với men áo. Men lam phát màu ở nhiệt độ 1250°C. Đây Men lam có sắc độ từ xanh chì đến xanh sẫm Men lam xuất hiện khởi đầu ở Bát Tràng với những đồ gốm có sắc xanh chì đến đen sẫm;. Men lam dùng để vẽ mây kết hợp với trang trí hình rồng nổi để mộc, vẽ cánh sen, ngoài ra men lam dùng vẽ vào các hình trang trí nổi rồng, hoa dây và cánh sen của chân đèn và lư hương. Thế kỉ 19, men lam được vẽ trang trí trên lư, choé, bình, lọ, bát hương. Men lam dùng với kĩ thuật bút lông làm công cụ vẽ trên đồ gốm. Nét biểu hiện đặc trưng của men lam gốm là sắc màu và lối vẽ, nhìn chung có sắc trầm
8- Men rạn
đươc chế tạo bằng cách dùng vôi sống, tro trấu và cao lanh có màu hồng nhạt. Men rạn có sắc ngà xám các vết rạn chạy dọc và ngang chia ra nhiều hình tam giác . Men rạn xuất hiện từ cuối thế kỉ 16 và phát triển liên tục qua các thế kỉ 17–19.
Men rạn có màu trắng xám. hoăc men rạn có màu vàng ngà… được sù dụng trên các loại hình: chân nến trúc hoá long; ấm có nắp, đài thờ các nắp, cặp tượng nghê. Men rạn kết hợp với trang trí vẽ lam trên các đồ gốm, đắp nổi, khắc chìm hoặc không trang trí.
(Bình gốm Bát Tràng, men rạn, thế kỉ 19)
II- Kỹ Thuật sản xuất đồ gốm
1-Tạo dáng cho sản phẩm
Phương pháp tạo dángcổ truyền:
Làm bằng tay trên bàn xoay:, người thợ gốm ”vuốt tay, be chạch“ trên bàn xoay"đắp nặn” với trình độ kĩ thuật và mĩ thuật cao.Thợ ngồi trên một cái ghế cao dùng chân quay bàn xoay và tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm. Đất trước khi đưa vào bàn xoay được vò cho thật nhuyễn, cuốn thành thoi rồi ném (“bắt nẩy”) để thu ngắn lại. Sau đó người ta đặt vào mà giữa bàn xoay, vỗ cho đất dính chặt rồi lai nén và kéo cho đất nhuyễn
Phương pháp tạodáng hiện nay
Khuôn được dùng để sản xuất hàng loạt sản phẩm giống nhau, rất nhanh và giản tiện.
Nghệ nhân có thể dùng khuôn gỗ . Đặt khuôn gỗ giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn rồi ném mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc chân, vét đất lên lợi vành, quay bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết đề tạo sản phẩm
Nghệ nhân có thể dùng khuôn bằng thạch cao để đúc" hiện vật..
Ngoài ra người ta còn dùng phương pháp đổ rót: đổ “hồ thừa” hay “hồ đầy” để tạo dáng sản phẩm
(Khuôn làm gốm Bát Tràng)
(Tạo dáng sản phẩm)
2- Sản phẩm đem phơi rồi sửa cho hoàn chỉnh
Phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người thợ gốm vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Biện pháp hiện đại: sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần. Sản phẩm khi đã khô thì được đặt trên bàn xoay. Nghệ nhân vừa xoay bàn xoay vừa đẩy nhẹ vào chân vóc cho cân, dùng dùi vỗ nhẹ vào chân “vóc” cho đất ở chân “vóc” chặt lại và sản phẩm tròn trở lại (gọi là “lùa”). Người thợ gốm tiến hành các động tác cắt, gọt chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp các bộ phận của sản phẩm (như vòi ấm, quai tách…), khoan lỗ trên các sản phẩm, tỉa lại đường nét hoa văn và thuật nước cho mịn mặt sản phẩm. Những sản phẩm sửa lại mà không dùng bàn xoay thì gọi là “làm hàng bộ”, phải dùng bàn xoay thì gọi là “làm hàng bàn”. Theo yêu cầu trang trí, có thể đắp thêm đất vào một vài vùng nào đó trên sản phẩm rồi cắt tỉa để tạo hình (đắp phù điêu), có khi phải khắc sâu các hoạ tiết trang trí trên mặt sản phẩm
3-Trang trí hoa văn và phủ men
Vẽ họa
Thợ gốm dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc áo gốm các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn học tiết phải hài hoà với dáng gốm thì mới nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật,. Thợ gốm dùng rất nhiều hình thức trang trí như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu…
Phủ men (Tráng men) lên xương gốm.
Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm đem tráng men. Sản phẩm mộc trước khi đem tráng men phải được làm sạch bụi bằng chổi lông. Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng men phải có một lớp men lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải tính toán tính năng của mỗi loại men định tráng nên từng loại xương gốm, nồng độ men, thời tiết và mức độ khó của xương gốm… Kĩ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội men nên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là “kìm men”, “quay men” và “đúc men”.
Quay men là hình thức tráng men bên trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc, còn đúc men thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Đây là những thủ pháp tráng men của thợ gốm vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp
4-Áo gốm
Áo gốm là một dung dịch tổng hợp giữa đất và chay, với công thức 4 đất 1 chay. Đất giã nhỏ, sàng lọc cẩn thận. Còn chay là một thứ đá có lẫn gỉ sắt ở ngay địa phương. Chay cũng phải giã nhỏ, sàng lọc kỹ càng. Đất và chay trộn lẫn, pha nước, hòa tan thành một dung dịch. Tất cả các đồ gốm trước khi đem nung được nhúng vào dung dịch này, tạo ra một lớp áo gốm. Nếu cứ thế đem nung lên, là có gốm đẹp rồi.
5-Chồng lò
. Việc xếp sản phẩm trong lò nung như thế nào là tuỳ theo sản phẩm và hình dáng kích, cỡ của bao nung trên nguyên tắc Bởi cấu tạo của mỗi loại lò khác nhau nên việc chồng lò theo từng loại lò cũng có những đặc điểm riêng. Đối với loại lò ếch, người ta xếp sản phẩm từ gáy lò ra tới cửa lò. Đối với loại lò đàn thì người ta xếp sản phẩm từ bích thứ 2 đến bích thứ 10 (riêng bích thứ 10 vì lửa kém nên sản phẩm thường để trần không cần có bao nung ở ngoài). Đối với loại lò bầu (lò rồng) Sản phẩm được xếp trong lò giống như lò đàn. Riêng đối với lò hộp (lò đứng), tất cả các sản phẩm đều được đặt trong các bao nung hình trụ không đậy nắp và xếp chồng cao dần từ đáy lên nóc, xung quanh tường lò và chỗ khoảng trống giữa các bao nung đều được chèn các viên than
6-Đốt lò
Nhìn chung đối với các loại lò ếch, lò đàn, lò bầu thì quy trình đốt lò đều tương tự nhau . Khoảng một nửa ngày kể từ khi nhóm lửa người ta đốt nhỏ để sấy lò và sản phẩm trong lò. Sau đó người ta tăng dần lửa cho đến khi lửa đỏ lan tới bích thứ tư thì việc tiếp củi ở các bầu được dừng lại, nhưng tiếp tục ném củi bửa qua các lỗ giòi. khi biết sản phẩm ở từng bích bắt đầu chín thì ngừng ném củi bửa . Càng về cuối sản phẩm chín càng nhanh.
Sau khi nung xong người ta bịt hết các cửa lò, lỗ giòi, lỗ xem lửa để làm nguội từ từ. Quá trình làm nguội trong lò kéo dài 2 ngày 2 đêm, sau đó mới mở cửa lò và để tiếp 1 ngày 1 đêm nữa rồi mới tiến hành ra lò.
Đối với lò đứng, việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều vì khi hoàn tất khâu chồng lò cũng có nghĩa là đã kết thúc việc nạp nhiên liệu. Thế nhưng do đặc điểm của lò, người thợ đốt lò dù có dày dạn kinh nghiệm cũng rất khó có thể làm chủ được ngọn lửa, đây thực sự là vấn ra khó khăn nhất trong khâu kĩ thuật ở làng Bát Tràng. Người ta dùng gạch chịu lửa bịt cửa lò lại rồi nhóm lò bằng củi. Lửa cháy bén vào than và bốc từ dưới lên. Than trong lò cháy hết cũng là lúc kết thúc công việc đốt lò. Thời gian đốt lò kể từ lúc nhóm lửa đến khi hoàn toàn tắt lửa kéo dài khoảng 3 ngày 3 đêm. Sau khi lò nguội, sản phẩm ra lò được đánh giá phân loại và sửa chữa lại các khuyết tật (nếu có thể được) trước khi đem ra phân phối sử dụng.
III- Gốm Việt biểu trưng cho văn hóa Việt :
Gốm Bát Tràng và Gồm Chu Đậu
1- Gốm Bát Tràng
Ba vị Hứa Vĩnh Kiều, người làng Bồ Bát (Thanh Hóa), Đào Trí Tiến, người làng Thổ Hà (Hà Bắc), và Lưu Phong Tú , người làng Kẻ Sặt (Hải Dương) là những bậc tổ của Gốm Bát Tràng. Theo tư liệu đánh máy của Viện Mỹ thuật (năm 1964) thì vào khoảng thời Lý - Trần, sau khi đỗ Thái học sinh, ba ông được cử đi sứ nhà Tống (Trung Quốc). Cả ba ông này, khi đi sứ đã học được nghề sứ gốm, về nước thìtruyền nghề cho dân .
Loại hình
Sản phẩm của gốm Bát Tràng rất phong phú, đa dạng như bát, đĩa, chén, lục bình, lư hương…
- Đồ gốm gia dụng: Bao gồm các loại đĩa, chậu hoa, âu, thạp, ang, bát, chén, khay trà, ấm, điếu, nậm rượu, bình vôi, bình, lọ, choé và hũ.
- Đồ gốm dùng làm đồ thờ cúng: Bao gồm các loại chân đèn, chân nến, lư hương, đỉnh, đài thờ, mâm gốm và kiếm.
- Đồ trang trí: các loại tượng như tượng nghê, tượng ngựa, tượng Di Lặc, tượng Kim Cương, tượng hổ, tượng voi, tượng người ba đầu, tượng đầu khỉ mình rắn và tượng rồng
Chất liệu men của sản phẩm có độ óng, sâu mịn và đều
Thế kỉ 14 – 15 thời Lý – Trần : khắc chìm, tô men nâu theo kĩ thuật gốm hoa nâu chạm nổi và vẽ men lam.
Thế kỉ 16 xuất hiện những chân đèn, lư hương có kích thước lớn hơn, kĩ thuật trang trí chạm nổi kết hợp vẽ men lam đạt đến trình độ tinh xảo. Đề tài trang trí phổ biến có các loại: rồng, phượng, xen kẽ cụm mây, ngựa có cánh, hoạt cảnh người, cánh sen đứng, hoa dây, lá đề, phong cảnh sơn thuỷ…
Rồng vẽ trên gốm lam (ảnh chụp tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam)
Thế kỉ 17, kĩ thuật chạm khắc, đắp nổi càng tinh tế, cầu kì, xuất hiện các đề tài trang trí mới: bộ tứ linh, hổ phù, nghê, hạc… Những đề tài chạm nổi, để mộc điển hình như bông cúc hình ôvan, bông hoa 8 cánh, bông cúc tròn, cánh hoa hình lá đề, cánh sen vuông, các chữ Vạn-Thọ (chữ Hán)… Thế kỉ 17 xuất hiện dòng gốm men rạn với sự kết hợp trang trí đề tài nổi bật như rồng, tứ linh, hoa lá, cúc-trúc-mai. Còn xuất hiện loại gốm nhiều màu, nổi trội nhất là màu xanh rêu với các đề tài trang trí độc đáo: hoa sen, chim, nghê, hình người…
Thế kỉ 18, trang trí chạm nổi gần như chiếm chủ đạo Các kỹ thuật, chạm khắc nổi đúc nổi dán ghép, thích ứng với việc sử dụng men đơn sắc (men trắng xám và men rạn). Đề tài trang trí ngoài bộ tứ linh, rồng, nghê còn thể hiện các loài cây tượng trưng cho bốn mùa. Ngoài đề tài sen, trúc, chim và hoa lá còn thấy xuất hiện các loại văn bát quái, lá lật… Hoa văn đường diềm phát triển manh các nền gấm, chữ vạn, cánh sen nhọn, hồi văn, sóng nước..
Minh văn
Gốm Bát Tràng nhiều trường hợp có minh văn, thể hiện bằng khắc chìm hay viết bằng men lam dưới men trắng. Một số minh văn cho biết rõ năm sản xuất, họ tên quê quán tác giả chế tạo cùng họ tên, có khi là cả chức tước của người đặt hàng
2 - Gốm Chu Đậu-Mỹ Xá
Các nhà khảo cổ đã khẳng định ông Đặng Huyền Thông và bà Bùi Thị Hý là tổ nghề gốm Chu Đậu..
Sản xuất tại vùng thuộc làng Chu Đậu xãThái Tân và làng Mỹ Xá xãMinh Tânhuyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, khoảng từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 18. Gốm Chu Đậu đã hội tụ không những tinh hoa của nghệ thuật gốm, mà còn thể hiện nét đặc sắc của nền văn hoá truyền thống dân tộc. Hình ảnh thuần túy Việt Nam: tàu lá chuối, nhánh rong, chim sẻ, chim chích chòe, tôm, cá bống, cóc, rùa, cọng rau muống, bông hoa cúc, hoa sen. Hoạ tiết, hoa văn luôn mang đậm dấu ấn tâm linh, giá trị truyền thống về đạo giáo dân tộc, tình cảm gia đình, phong cảnh thiên nhiên, và thể hiện 4 mùa xuân, hạ, thu, đông…
Gốm Chu Đậu thời hưng thịnh được xuất đi 32 quốc gia trên khắp thế giới, và là biểu trưng của văn hóa VIệt Nam trong nhiều bảo tàng lớn trên thế giới
Gốm Chu Đậu nổi tiếng vì màu men và họa tiết thuần Việt
Men gốm &Hoa văn
Men gốm rất phong phú: men ngọc (celadon), men nâu, men trắng, men lục. Tuy nhiên tiêu biểu nhất là men trắng trongvới hoa văn màu xanh (men trắng chàm) và men trắng trong với hoa văn ba màu vàng, đỏ nâu và xanh lục(men tam thái).
Men trắng chàm (nền men trắng, hoa văn màu xanh biếc) chiếm số lượng cao nhất. Rất nhiều hồ rượu hoa văn trắng chàm và hoa văn tam thái. Khi nói về đồ gốm Chu Ðậu, người ta chỉ thường biết về loại này mà ít để ý đến các loại men khác Loại đồ gốm Men trắng chàm Chu Ðậu hạng này nhiều món đẹp tuyệt vời, bứt xa đồ nhà Minh, và đẹp không kém gì đồ gốm men lam của nhà Thanh bên Tàu. Loại đồ gốm phẩm chất cao, tuyệt đẹp đã nằm trong tay các nhà sưu tập chuyên nghiệp ở Âu Châu, Úc Châu, Singapore, Hong Kong, ở các viện bảo tàng Âu Châu và Ả Rập… Từ giữa thập niên 1980 cho đến giữa thập niên 1990, họ đã vào Việt Nam vào mua hết tất cả,.
Hoa văn phản ảnh đời sống nông thôn Việt Nam,được vẽ bằng men màu.
Đáy của đồ gốm Chu Ðậu thường được quét một lớp son nâu, màu đậm, thường khi vẫn còn nguyên dấu bút. Lớp son nâu này không phải là men, mà chỉ là một lớp son pha màu nâu rất mỏng để bảo vệ đáy chén đĩa.
Đồ gốm Chu Ðậu thật phong phú đủ cả, từ các món đồ dùng trong nhà người dân, trong đình chùa, trong nhà giới trưởng giả, cho đến đồ xuất cảng:
Bát chân cao, bát chân thấp, tô, đĩa, chén, tước, bình, ấm, âu, chậu, lu, hũ, chậu, bát hương, bát trầm, chân đèn, hộp, lọ, bình vôi, nghiên mực, nghiên mực hình con trâu, con cua, đồ chơi của trẻ em như các hình tượng con gà, con cóc, con lợn, người cưỡi ngựa… các hồ rượu hình chim vẹt hình con gà, các chén uống trà có quai cầm là chim vẹt.
Một số nét đặc biệt của đồ gốm Chu Đậu
Tước (hay bôi)
là ly uống rượu chân cao. Ngoài những tước men ngọc, màu xanh trong, còn có những sáng kiến kỳ diệu như tước thần kim quy. Ẩn trong chân tước này là một quả nổi để lộ hình rùa thần kim quy ngồi dưới đáy, khi rượu được rót vào, thì hình thần kim quy từ từ nổi lên theo mực
Lư hương và chân đèn
. Có những chân đèn cao 70, 80cm, lư hương cao 35, 40cm. Một số lớn có ký tên người làm và đề rõ năm tháng, như vợ chồng Ðặng Huyền Thông – Nguyễn Thị Ðỉnh, vợ chồng Ðỗ Xuân Vi – Lê Thị Ngọc, vợ chồng Bùi Duệ – Lê Thị Cận, Ðặng Hữu, Ðặng Tính Không…
Bình tỳ bà
nổi tiếng quốc tế ưa chuộng. Bình tỳ bà có hình dáng giống cây đàn tỳ bà để dựng đứng. Mình thuôn tròn, cổ nhỏ, miệng loe, thân tròn phình to, thường có bốn tầng hoa văn, trong lòng miệng bình cũng có hình vẽ hoa lá. Tầng thứ nhất ở chung quanh cổ bình hoặc vẽ những tàu lá chuối hay hình cây lúa; tầng thứ hai khi hình hoa cúc, hoa mẫu đơn, khi thì những chuỗi hình xoắn ốc đứng; tầng thứ ba lớn nhất là hình chim chích choè, chim sẻ hay là những ô vẽ đợt sóng biển, bên cạnh những ô vẽ hình hoa lá; tầng dưới cùng là các ô với những vòng tròn hình bầu dục chồng lên nhau. Bình tỳ bà to nhỏ khác nhau, nhưng đa số thường có đường kính đáy độ 9cm, chỗ to nhất ở thân bình phình ra vào khoảng 14cm, đường kính ở cổ bình là 4cm, và ở vành miệng loe là 8cm, bình cao khoảng 30, 32cm.
Ðĩa nổi tiếng quốc tế ưa chuộng. Men trắng trong với hoa văn màu chàm. Có những đĩa tam thái rất lớn, đường kính đến khoảng 50cm, nhưng thường thường thì vào khoảng hơn 25cm đường kính. Hoa văn trong lòng đĩa thường gồm hai phần. Vành đĩa rộng 5cm, vẽ cành rau, nhánh lá, tâm đĩa vẽ nhiều hình rất đẹp: Hình con công, con vạc, con nghê, cá chép vượt vũ môn, hươu chạy trên đồng cỏ, bên khóm trúc, bờ lúa, đôi chích chòe, đàn vịt bơi trên hồ sen, trận thủy chiến, cành mai, đóa cúc, đóa mẫu đơn… đường kính độ 15cm. Vành ngoài thành đĩa cũng vẽ những hình hoa lá rất chi tiết, hoa văn màu xanh chàm, đĩa lớn thường là men ba màu (Tam Thái).
Bát Chu Ðậu nổi tiếng quốc tế ưa chuộng. Thường là men trắng chàm, đường kính ở miệng bát từ 14 đến 16cm, cao từ 8 đến 10cm. Nhiều loại hoa văn khác nhau. Khi thì chim sẻ đậu trên cành mai, khi thì đóa cúc, đóa mẫu đơn, khi thì lại là khóm phong lan… trong lòng bát. Vành trong của bát cũng vẽ những vòng tròn hoa lá. Hoa văn ở mặt ngoài bát thường gồm hai tầng, phía trên là một vành hoa mai, hoa cúc cao khoảng hơn 3cm, tầng dưới, khoảng 4cm, là những ô có hình các vòng xoắn ốc tiêu biểu của gốm Chu Ðậu. Trên vành ngoài miệng bát cũng có những vòng đồng tâm.
Gốm Chu Đậu ngày nay được coi là phục dựng từ năm 2001
Tài liệu được sưu tầm theo tác giả: Phạm X. Khuyến