LTS :
Để được đầy đủ
trọn vẹn đề tài này, tác giả trích dẫn tài liệu thêm, kính
mời quý độc giả đọc dưới
đây :
... với kế hoạch toàn bộ sách lược thỏa hiệp với CSBV
của anh em Diệm Nhu có thể tóm tắt trong bốn kế hoạch như sau
:
1.- Công khai
và cụ thể chống Mỹ, nhưng chỉ chống đến một mức độ còn kiểm soát được, để vừa thỏa mãn điều
kiện tiên quyết của Hà Nội vừa lại có thể sử dụng được lực
lượng của Mỹ như một áp lực với Hà Nội, hoặc nếu cần, có thể
quay trở lại tình trạng đồng minh như cũ.
2.- Vận động để
một số quốc gia, đặc biệt là Pháp, đóng vai trò trung gian và
bảo đảm sự thực thi của thỏa hiệp thành hình.
3.- Chuẩn bị và
tiến hành những biện pháp an ninh và chinh trị để kiểm soát
các lực lượng quốc gia và quần chúng miền Nam trong trường hợp
nổi dậy chống đối thỏa hiệp này.
4.- Trực tiếp
đối thoại với chính quyền Hà Nội để thương thảo về vấn đề chấm
dứt chiến tranh và thống nhất đất nước. (Hồi
Ký VNMLQHT của Tướng Đỗ Mậu trang 566).
Bởi những kế hoạch ở trên, nên Nhu đích thân điều động
và kiểm soát cũng như âm mưu bắt tay với Hà Nội, không chỉ nhờ
Đại Sứ Maneili làm liên lạc giữa Hà Nội và Sàigòn, mà chính
Ngô Đình Nhu đã đích thân đi gặp Phạm Hùng, như tướng Trần Văn Đôn đã tiết lộ trong tác
phẩm Việt Nam Nhân Chứng từ trang 183 đến 184
như sau đây :
"Đầu tháng 2
năm 1963, Trung Tá Bường, lúc ấy đang làm Tỉnh Trưởng Bình
Tuy, dùng xe dodge 4 x 4, chở Ông Ngô Đình Nhu và Ông C đi
săn. Trời đã trơ lạnh và có mưa, mà ông Cố Vấn đi săn! Nhưng,
có ai biết được, đó chỉ là lối ngụy trang. Sư thật các ông ấy
không đi săn, mà đi thẳng tới một căn nhà lá trong rừng thuộc
địa hạt quận Tánh Linh thuộc tỉnh Bình Tuy...
Trung Tá Bường
lái xe đưa ông Ngô Đình Nhu đến chỗ hẹn. Đến nơi, Trung Tá
Bường và ông C chờ ngoài xe, lo an ninh. Chỉ có ông Nhu vô.
Hai người ngồi ngoài lắng tai nghe những lời đối thoại ở bên
trong lúc nhỏ lúc to. Người đang nói chuyện với ông Nhu là
Phạm Hùng, có hai người nữa ngồi bên cạnh... Ông Nhu hứa với Phạm Hùng khi nối
xong đường xe lửa thì Bà Nhu và Ngô Đình Lệ Thủy sẽ đi
chuyến xe thống nhưt đầu tiên ra Hà Nội...
Trong câu
chuyện Phạm Hùng cũng trách sao giao
những căn cứ quân sự cho Mỹ sử dụng. Ông Nhu nói
Mỹ là
đồng minh của miền Nam, Mỷ đến miền Nam và dỉ nhiên sử dụng
những nơi đó chứ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không
có giao nhượng cho Mỷ..." Tiết lộ của tướng Đôn
trên đây, nhắc tôi nhớ lại đần năm Quý Mão (tháng 2-1963),
nhân buổi tiếp tân đầu Xuân tại dinh Gia Long, Tổng Thống Diệm
chỉ một cành đào được chưng bày trong đại sảnh rồi nói với
quan khách rằng : Đó là cành đào do đồng bào Bắc Việt gởi
tặng. Mọi người im lặng nhưng đều có vẻ suy tư...(Hồi
KýVNMLQHT trang 598).
Trong khi đó,
ông Nguyễn Văn Ba viết về "Cành
Đào" như sau :
Tết Quý Mão,
1963, cái Tết cuối cùng của nên Đệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống
Ngô Đình Diệm đón xuân ở Dinh Gia Long (Phủ Thủ Tướng), vì
Dinh Độc Lập (Phủ Tổng Thống) đang được sửa chữa do bị hai phi
công Quốc và Cử ném hai trái bom ngay sau Tết Nhâm Dần,
1962.Như thường lệ, Sở Nội Dịch Phủ Tổng Thống lo trang hoàng
phòng khánh tiết với một cành mai.Bổng ngày 28 Tết, Nha Nghi
Lễ Phủ Tổng Thống được thông báo từ phòng Liên Lạc Ủy Hội Quốc
Tế Kiểm Soát Đình Chiến (UHQTKSĐC) rằng ông Ram
C.Goburdhun, Đại Sứ Ấn Độ, chủ tịch UHQTKSĐC tại
Việt Nam có nhờ chuyển đến Phủ Tổng Thống
một cành đào lớn để Tổng Thống Ngô Đình Diệm
thưởng ngoạn trong dịp Xuân về. Cành đào được chuyển từ UHQT
KSĐC trên đường Lý Thái Tổ về Dinh Gia Long bằng một xe vận
tải mui trần với bốn quân nhân đỡ bốn góc và một người khác
giữ gốc.Cành đào lớn thiệt, vô không lọt cửa sau Dinh Gia Long
nên phải dùng cửa trước.
Nhiều người
hiếu kỳ muốn xem cành đào đẹp cỡ nào, nhưng không ai dám mạo
phạm mở lớp giấy dầu, giấy nylon. Một tùy viên của Tổng Thống
Diệm mang lá thư của Đại Sứ Ấn Độ, chủ tịch UHQTKSĐC lên trình
Tổng Thống Diệm.
Sau khi xem
thư, Tổng Thống Diệm xuống lầu, ra lịnh gỡ giấy. Cành đào
tuyệt đẹp hiện ra với tấm băng lụa màu hồng có
những dòng chữ mang nét viết thật mỹ thuật.
Mọi người tái
mặt khi đọc nhưng dòng chữ này, chỉ riêng Tổntg Thống Diệm là
sắc mặt không đổi, có lẽ đã biết lai lịch cành đào từ lá thơ
của ông Đại Sứ Ấn Độ.
Với giọng
Huế thường nhật, Tổng Thống Diệm bảo ông Giám Đốc Sở Nội Dịch
: "mần răng kiếm cái thống lớn, đặt vô trông mơí đẹp..." Sau
khi Tổng Thống Diệm trở lên lầu, mọi người bu lại xem cho kỹ
những dòng chữ trên tấm lụa hồng : "Chủ Tịch Nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa Kính Tặng Tổng Thống Ngô Đình Diệm". Ngày nay
người Việt hải ngoại, qua những hồi kỳ đã ấn hành, ai cũng
biết ông Diệm tuy là Tổng Thống một nước Cộng Hòa, nhưng hành
xử rất phong kiến, không kém vua chúa thời xưa. Nào là xem
thuộc cấp sỗ sàng như quan sát một quái vật, nào là tiếp kiến
Tổng Thống xong phải đi lui, không được quay lưng lại... Một
trong những cái phong kiến ấy là thủ tục "Chúc Thọ" ông ngày
Tết.Mùng một Tết năm ấy, lúc 10 giờ sáng, trên con đường Ngô
Đình Khôi (tên anh ruột Tổng Thống Diệm, một vị Tổng Đốc,
đường này trươc đó mang tên De Gaulle), hàng trăm xe du lịch
nối đuôi nhau, trên kiếng xe có tên và chức vụ của từng người.
Nha Nghi Lễ Phủ
Tổng Thống dùng máy phóng thanh mời những Bộ Trưởng, Tướng
Lãnh...nhập Dinh Gia Long. Bộ Trưởng thì khăn đóng áo dài.
Tướng Lãnh thì đồ đạt lễ trắng, ngực đeo huy chương.
Bước vô phòng
khánh tiết Dinh Gia Long ai cũng ngạc nhiên, trầm
trồ cành đào tuyệt đẹp.
Tấm băng lụa màu hồng có những chữ đề tặng đã không
cánh mà bay.
Nhân lúc Tổng
Thống chưa xuống lầu, mọi người xì xào bàn tán, đoán già đón
non rằng cành đào đó không thể xuất phát từ miệt cao nguyên
Lâm Viên. Ông Giám Đốc Nha Nghi Lễ được hỏi, câu trả lời lập
tức truyền ra, chẳng mấy chốc mọi người đều biết cành đào do
ông Đại Sứ Ấn Độ, chủ tịch UHQTKSĐC đem từ miền Bắc về. Chẳng
ai thắc mắc,
vì phi cơ của UHQTKSĐC
thường xuyên ra vô liên lạc giữa hai miền Nam Bắc, mỗi tuần
hai lần, nên chuyện ông Đại Sứ Ấn Độ mua cành đào ở một nơi
nào đó trên đất Bắc mang vào Nam cũng đơn giản như ta mua hoa
ở chợ Nguyện Huệ Sàigòn mà thôi.Người ta tiếp tục bàn tán, ông
Đại Sứ Ấn Độ thật là một nhà ngoại giao lỗi lạc, một người tế
nhị, đã chịu khó tìm hiểu phong tục tập quán của người Việt
Nam, có lẽ ông ấy cũng đã mua một cành mai thiệt lớn ở miền
Nam, mang ra Bắc tặng Hồ Chi Minh.
Nhân viên phục
vụ Tổng Thống Phủ đã thấy tấm băng lụa màu hồng, giờ tấm băng
lụa biến mất, họ không dám hở môi, cũng không dám hỏi nhau và
dĩ nhiên không dám hỏi cụ Tổng Thống.Tổng Thống Diệm bước
xuống lầu trong tiếng chúc tụng hoan hô.
Cầm ly Champagne trên tay, Tổng Thống đi lại, chuyện trò tự
nhiên với các Bộ Trưởng, Tướng Lãnh và không đề cập gì đến lai
lịch cành đào. Hôm ấy, cụ vui vẻ ra mặt. Ngoài những lời chúc
thọ kinh cẩn, các Bộ Trưởng, Tướng Lãnh...dĩ nhiên còn khen
cành đào :
- Cành đào đẹp
là dấu hiệu của một tương lai thạnh trị, thanh bình.
- Chế độ Cộng
Hòa sẽ mãi mãi tươi sáng, ngai rồng sẽ đời đời bên vững.
- Dạ, cành đào
có nhiều nhánh, trông như cái "lọng", cái "tán", chứng tỏ vận
nước "vượng" lắm, thưa Tổng Thống.
- Dạ, cành đào
trổ thiệt nhiều hoa, Tổng Thống sẽ sống lâu trăm tuổi.
- Trình cụ, từ
thuở nhỏ, con chưa hề thấy một cành đào nào đẹp như vậy.
- Bẩm cụ, cả
đời con, con mới thấy cành đào đẹp như thế này là lần thứ
nhất, ôi chu choa, đẹp sao là đẹp...
Cách mạng 1
tháng 11 năm 1963 bùng nổ, nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ, ông
Diệm và ông Nhu bị thảm sát, chuyện "cành đào chính trị" mới
được "xì" ra cùng với những lời bình luận, những nghi vấn :
-
Băng lụa màu hồng,
với lời đề tặng của Hồ Chí Minh đã bị
ông Diệm hoặc người nhà gỡ đi vì họ Hồ đã "chơi chữ". "Chủ
tịch Nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa kính tặng Tổng thống Ngô
Đình Diệm", "nước Việt Nam Cộng Hòa" đã không được họ Hồ đề
cập đến. Chánh quyền Đệ Nhị Cộng Hòa đưa ra những hình ảnh,
trong đó hai vợ chồng cố vấn Ngô Đình Nhu đã nhiều lần khoản
đãi phái đoàn UHQTKSĐC tại khu vực nghỉ mát nằm trên quốc lộ
1, gần Tháp Chàm, trên đoạn đường Phan Rang - Nha Trang.
Trong những
buổi họp mặt, ngoài vợ chồng ông bà Nhu,
có ông Đại
Sứ Ấn Độ,
chủ tịch UHQTKS ĐC, đại diện cho chánh
quyền Ấn Độ thân cộng và ông Mieczylau Maneli, Đại Sứ nước
cộng Sản Ba Lan, tuyệt nhiên không có Đại Sứ Canada ....
(Để tưởng
nhớ đến tác giả quyển "Khổ Qua Đắng Khổ Qua Đèo", tôi đã trích
đoạn vừa qua. Đó là, nhà giáo Thái Minh Kiệt tức nhà văn
Nguyễn Văn Ba, đồng nghiệp thân quý tôi, anh sanh năm 1947 tại
Sa Đéc. Trước 1975
nhân viên giảng huấn tại Viện
Đại Học Cần Thơ, sau 1975, anh làm chuyên viên
Canh Nông tại Đại Học
Saskatchewan, Canada, nơi gia đình anh tạm định cư. Ngoài ra,
anh đã viết những tác phẩm giá trị như sau : Làm Mai, Lãnh nợ,
Gát cu, Cầm chầu - Phận Đàn Bà (viết chung với Nguyễn Thị Bạch
Mai tức phu nhân của anh) - Thành Đô Gió Bụi - Cây Trái Quê
Mình - Tự Truyện - Khổ Qua Đắng Khổ Qua Đèo - Từ Miền Đất
Lạnh... và anh còn góp phần những
bài viết trên các sách báo khác ở hải ngoại, cũng như tham gia
vào Hội Văn Bút Hải Ngoại.
Nhưng anh lại
đột ngột ra đi vào lúc 1 gìờ sáng ngày 14 tháng 8 năm 1998,
nhằm ngày 23 tháng 7 âm lịch năm Mậu Dần tại Canada sau cơn
bạo bịnh, hưởng dương 51 tuổi. Anh mất đi mọi người thương
tiếc, các văn hữu mất một người bạn quý, các độc giả mất một
cây viết về quê hương dân tộc. Riêng gia đình anh mất con,
chồng và cha thương mến).
Mặt khác,
Cụ Cao Xuân Vỹ, năm 2002 cụ đả
82 tuổi hiện ở thị xã Huntington Beach, Nam California
Hoa Kỳ, đã từng Tổng Ủy Viên
Thanh Niên Cộng Hòa,Tổng Giám Đốc Thanh Niên của Chánh Phủ
rất thân cận với chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa và là người đưa Tổng
Thống Diệm và Ông Cố Vấn Nhu rời khỏi Dinh Độc Lập khi đảo
chánh 1-11-1963 để sau cùng đến nhà thờ Cha Tam. Cụ Cao
Xuân Vỹ cũng xác nhận
về"Cành Đào" do Đại Sứ Ấn Độ, chủ
Cụ
Cao Xuân Vỹ tịch UHQTKS ĐC
mang cành đào của Hồ
Chí Minh vào miền Nam trao tặng Tổng Thống
Ngô Đình Diệm.
Ngoài ra, Cụ
Cao Xuân Vỹ còn cho biết năm 1962 (chớ không phải năm 1963 như
đã trích dẫn ở trước), Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã có gặp tay đôi
với Phạm Hùng, Bí Thư Trung Ương Cục R của Cộng Sản ở miền Nam
tại khu rừng ở Tánh Linh, mà đã Cụ đả có đi tháp tùng.
Riêng về Giáo
Sư Tôn Thất Thiện hiện đang sống tại Canada, theo
lời Cụ Cao Xuân Vỹ nói :"Khoảng giữa tháng 10 năm 1963, giáo
sư Tôn Thất Thiện với tư cách Tham Vụ Báo Chí Phủ Tổng Thống,
ông làm thông dịch cho ông Nhu trong một cuộc tiếp xúc với sau
nhà báo ngoại quốc. Một nhà báo Úc hỏi
ông Nhuvề nguồn tin rằng Việt Nam Cộng Hòa đang có những cuộc
thương thảo riêng với Hà Nội. Theo lời thuật lại của giáo sư
Thiện, ông Nhu giơ tay chỉ chiếc ghế mà nhà báo Úc đang ngồi
và nói rằng : Tướng Trần Độ của Hà Nội đã vào Dinh Độc Lập gặp
ông và ông Độ ngồi trên cái ghế đó... (nếu quý độc giả cần tìm
hiểu thêm, xin tìm đọc "Giai Phẩm Xuân Nhâm Ngọ 2002" của tạp
chí Việt Tide, phát hành tại Nam California Hoa Kỳ, từ trang
77 đến 79 do Nguyễn Xuân Nghĩa ghi).Như ở trang trước, các
quan khách có nói đến ý nghĩa cành đào to lớn lại xum xuê,
khoe sắc tốt tươi tuyết đẹp đầu năm đặt trong dinh
Tổng Thống Ngô Đình Diệm : "Chế độ Cộng Hòa sẽ mãi mãi tươi
sáng, ngai rồng sẽ đời đời bên vững.", tôi nhớ lại trong quyển
Đệ Nhất Phu Nhân tập 1 của Hoàng Trọng Miên, nơi Chương XI I :
Triều Đại Nhà Ngô, xin trích đoạn tại đầu trang 505
như sau :
"Trưa hôm Ba
Cụt rơi đầu trên máy chém, tại dinh Độc Lập, một bữa tiệc lớn
tụ họp anh em họ Ngô nhân dịp lễ thánh bổn mạng đứa con trai
đầu của vợ chồng Lệ (tức Ngô Đình Nhu & Trần Lệ Xuân).Diệm
gọi cháu trai đến bên mình võ vai nói : "Cháu lớn lên rồi bác
nhường ngôi Tổng Thống lại cho"Lệ cười nói : Anh làm
như ghế Tổng Thống là ngôi hoàng đế
"truyền tử lưu tôn" không bằng.Chớ thím nghĩ không phải sao?
Tôi ngồi chức Tổng Thống hai nhiệm kỳ cũng mười năm, rồi
nhường lại cho chú, thêm mười năm nữa, thì vừa cháu lớn lên,
đủ tuổi tiếp tục ba cháu để trị vì, nối dõi cho họ Ngô. Còn ai
vô đó nữa? Với tâm trạng tự cho mình có sứ mạng thiêng liêng,
như một vị thiên tử từ xưa, Ngô Đình Diệm xem địa vị Tổng
Thống không khác nào ngôi vua danh riêng cho gia đình họ Ngô,
với tất cả những quyền tối thượng..."
Trở lại, việc Cố
Vấn Ngô Đình Nhu thỏa hiệp với CSBV đã đề cập ở
trước, nay xin mời quý độc giả đọc tiếp từ trang 18 đến trang
22 trong tác phẩm Một Kiếp Người của Tướng
Huỳnh Văn Cao (Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao đã
từng Tư Lệnh Quân Đoàn 4 /Vùng 4 Chiến Thuật, là người rất
thận cận với anh em Ngô Đình Diệm, hiện nay ở Hoa Thanh Đốn,
U.S.A), ấn hành năm 1963 tại Hoa Kỳ. Xin trích có
liên quan đến : Trận Ấp Bắc như sau :
18 Huỳnh
Văn
Cao
...
Một ngày
trước khi hành quân ấp Bắc băt đầu,
Tham mưu trưởng Quân
đoàn và cố vấn
Trưởng Quân đoàn đem lệnh hành quân của Sư doàn 7 có bản đồ và
phóng ảnh đính kèm, trình cho tôi xem. Nhận thấy kế hoạch hành
quân của Sư đoàn hoàn toàn khác hẳn với kế hoạch do tôi khuyến
nghị, không thích ứng với địa hình địa vật, khônng dồn nỗ lực
chính vào mục tiêu, cho nên tôi đã nói trước mặt cố vấn trưởng
và tham mưu trưởng Quân đoàn :"Ngày
mai Sư đoàn 7 sẽ thất bại".
Sáng ngày hành
quân ấp Bắc, được tin Sư đoàn 7 bị tổn thất ngay khi vừa mới
lâm trận, đụng độ với địch, bị rơi một trực thăng, cháy một
M113, tôi bay đến Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Đoàn 7, hội thảo với
Tư Lệnh Sư Đoàn 7. Muốn chuyển bại thành thắng, tôi "khuyến
nghị" một thế đánh mới : xin Bộ Tổng Thaml Mưu tăng phái ngay
một đaị đội Nhảy Dù, nhảy vào 1 giờ trưa, DZ là một thửa ruộng
nơi cánh quân thiết vận xa M113 đang chiếm giữ, mục
đích (a) tăng cường lực lượng cho M113 xung phong
chiếm mục tiêu ấp Bắc, (b) quân Dù nhẩy xuống giữa mặt trận sẽ
kích thích tinh thần chiến đấu của quân ta, (c) đồng thời làm
nao núng tinh thần của quân địch. Nguyên tắc hành quân là phải
kịp thời tiến chiếm mục tiêu nội trong ngày, giải quyết chiến
trường trước khi trời tối.Nhân dịp tôi phải về
Sàigòn có công việc, tôi nhận giúp Tư
Lệnh Sư Đoàn 7 trình với Bộ Tổng Tham Mưu, xin tăng
cường hành quân cấp kỳ.
Đến Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đã gặp Đại
Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Tham
Mưu Trưởng Liên Quân, có Trung Tướng Charles Timmes
hiện diện. Tham Mưu Trưởng Liên Quân và tôi đi sang phòng bên
cạnh, để tôi tiện trình bày chi tiết mọi thỉnh cầu
của Sư Đoàn 7. Xong nhiệm vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đi vào
Dinh Độc Lập yết kiến Tổng Thống, có Đại Biểu Chính Phủ Miền
Tây và Tư Lệnh Sư Đoàn 21 chờ tôi tại Dinh Tổng Thống. Tại
chiến trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 và tôi nhận thấy DZ chỉ vừa
cho một đại đội nhảy xuống, thời gian gấp rút, chỉ cần một đại
đội lên máy bay nhảy xuống mật trận kịp 1 giờ trưa,
như vậy mới có thì giờ tập trung quân Dù sau khi nhảy xuống,
rồi phối hợp với M113 để tấn công vào mục tiêu
trươc tối. Thế nhưng, sau khi tôi rời Bộ Tổng Tham Mưu thì kế
hoạch laị hoàn toàn đổi mới. Bộ Tổng Tham Mưu cho một lực
lượng nhảy Dù gồm 2 đại đội, có một bộ phận chỉ
huy, sắp xếp như vậy thì ĐÚNG sách vở, mà KHÔNG ĐÚNG với thực
tế chiến trường. Chờ cho máy bay chuẩn bị đầy đủ để chở một
lực lượng Nhảy Dù thì gần hết ngày, thả quân Dù xuống mặt trận
thì trời sắp tối, và khi máy bay thả Dù xong thì trời tối om.
Có số nhảy xuống đúng DZ, nhưng chỉ để nằm tại chỗ qua đêm, có
số mắc tòn ten trên cây trong
Một kiếp người 19
làng, có số nhảy xuống giữa vị trí
địch. Hành quân như thế, tất nhiên không tránh khỏi thất bại,
và cũng không thể quy trách nhiệm cho Tư Lệnh Sư Đoàn 7, chỉ
huy cuộc hành quân ấp Bắc.Tại đồng bằng sông Cửu Long, quy
luật hành quân phải là thanh toán mục tiêu ban ngày, giải
quyết chiến trường trước khi trời tối. Nếu không xong, thì
Việt cộng không bao giờ ngồi qua đêm tại chỗ, để chờ quân ta
tấn công vào ngày kế tiếp. Sự thật về mọi diễn tiến trong Trận
Ấp Bắc là như vậy...
Để tìm hiểu chi
tiết của Trận Ấp Bắc như thế nào? xin
quý độc giả tìm đọc tạp chí Đông Phương, phát hành miền Đông
Hoa Kỳ tháng 8 năm 2001, từ trang 36 đến trang 40 do Cựu Tướng
Lý Tòng Bá, người chỉ huy Sư Đoàn 7 của trận Ấp
Bắc.Hành quân bắt được LÊ DUẨN nhưng cuối
cùng được cố vấn Ngô Đình Nhu thả ra sao?
Mùa Thu
63, tin tình báo Mỹ tại Sàigòn, ở Đông Nam Á và Thái Bình
Dương đều biết rằng Cộng Sản Hà Nội sẽ gởi một lãnh tụ cao cấp
vào miền Nam hội họp với Xứ Uỷ Nam Bộ, để chuẩn bị cho một
chính sách mới, giải pháp mới. Ước tính tình hình
và thời điểm,MACV ra
20
Huỳnh Văn Cao
lệnh cho tất
cả các đại đội trực thăng Mỹ khăp trên lãnh thổ VNCH đều nghỉ
bay để bảo trì đến mức hoàn hảo nhưt, để có thể sử dụng được
eố tối đa trực thăng hiện có. Mục đích la thực hiện một cuộc
hành quân trực thăng vận to lớn nhứt, gọi là Hành
Quân Liên Vùng II và III, dự trù vào một mục tiêu tại vùng
liên ranh ba biên giới, nơi sẽ có cuộc hội nghị cao cấp và
quan trọng nhưt của Cộng Sản. Vùng II do Tướng Nguyễn Khánh và
vùng III do Tướng Tôn Thất Đính làm tư lệnh.
Làm Tư Lệnh
Quân Đoàn IV và vùng IV Chiến Thuật, tôi thường xuyên theo dõi
và ước tính tình hình trong vùng và trong nước, luôn luôn sắp
sẵn các giải pháp quân sự để đối phó kịp thời. Tôi đồng ý là
sẽ có hội nghị của phía Cộng Sản sẽ xảy ra nay mai, vì đương
nhiên al chúng biết chắc sắp có đảo chánh tại miền Nam; nhưng
tôi không đồng ý về địa điểm hội nghị tại cùng ba biên giới,
mà trái lại tôi nghĩ rằng, địa điểm hội nghị của Cộng Sản sẽ ở
tại Miền Đồng Bằng Sông Cửu Long. Thẩml định tình hình một
cách kỹ lưỡng, tôi đoan chắc là cộng Sản sẽ mở hội nghị tại
Hậu Giang. Vì Sao? Vì lãnh tụ cao cấp từ Bắc vào Nam, sau ông
Hồ già lão, thì chỉ có Tổng Bí Thư Cộng Sản Lê Duẩn,
mà Lê Duẩn đã từng là Xứ Ủy Nam Bộ, Lê Duẩn đã từng lặn lội
khắp miền Tây, đặc biệt ở Hậu Giang, từ Chương Thiện, Chắc
Băng, Thới Bình, Biện Nhị, Cà Mau.Trung tá Phạm
Ngọc Thảo, hiện là sĩ quan của miền Nam, diện
hồi chánh, nhưng đã từng là bạn thân của Lê Duẩn, ngày đám
cưới của Thảo tại Thiên Hộ Đồng Tháp thì Lê Duẩn đã đích thân
đến dự. Khi tôi còn là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 kiêm Khu Chiến Thuật
Tiền Giang, thì Thảo làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu
Trưởng Kiến Hòa, người được Tổnt Thống Diệm tin cậy. Trong
những giây phút thân tìn, Thảo đã thỏ thẻ với tôi :"Nếu Đại Tá
Tư Lệnh muốn quen biết với ông Lê Duẩn thì tôi có thể sắp xếp
được". Cho nên, đã có lần tôi thưa với Cụ Diệm : "Sao Cụ cứ để
Trung Tá Thảo làm Tỉnh Trưởng Kiến Hòa lâu vậy, Cụ không sợ
Thảo rủ rê cháu theo Cộng Sản hay sao?". Lúc ấy, tôi đã hiểu
là Tổng Thống Diệm tin chắc không thể nào Thảo rủ rê tôi được,
nhưng đồng thời có nghĩa là Tổng Thống Diệm biết rõ Thảo là
Cộng Sản.
Trong mấy tháng
vừa qua, Thảo đã mạo hiểm đến Hậu Giang, thăm viếng
vùng ở Chương Thiện, Cà Mau, thăm Biên Nhị, Thới Bình, Sông
Ông Đốc. Tiếp đó, Biên Nhị Cái Nước bị thất thủ, vùng an toàn
của Cộng Sản rộng mở thênh thang giữa 2 cánh rừng U Minh
Thượng và U Minh Hạ. Do đó, Tư Lệnh Vùng IV có lý
để đoan chắc là Cộng Sản sẽ mở hội nghị gần mé biển giữa U
Minh Thượng và U minh Hạ, mà chỗ lý tưởng an toàn nhứt là vùng
Heng Mây.Cũng bởi vì, muốn chọn lộ trình đi từ Bắc vào Nam,
lãnh tụ cao cấp Cộng Sản chỉ cần xuống một chiếc tàu biển của
Liên Sô hoặc của
Một kiếp người
21
một nước nào
đó trong khối Cộng Sản, đi từ Hải Phòng đến Sihanouk Ville,
rồi từ hải cảng Sihanouk Ville đi bằng ghe biển có máy đẩy,
qua các đảo chung quanh Phú Quốc, đến U Minh một cách mau
chóng, dễ dàng và an toàn. Ngoài ra, dương Đông kích Tây là
chiến thuật trí trá cơm bữa của Cộng Sản, khi chúng tung tin
họp ở Núi thì chúng sẽ họp ở đồng bằng; ngày D mà
chúng tiết lộ thì chúng lại họp 1, 2 ngày sớm hơn, để chúng
ngồi rung đùi nhìn quân ta tấn công vào mục tiêu trống
rỗng.Thẩm định tình hình như thế, và
sau khi rà sát các hoạt động thường ngày của Việt
Cộng tại các tỉnh Chương Thiện, Cà Mau, kiểm chứng
tin tức các đường giao liên của Tiền Giang và Hậu Giang, của
miền Đông và miền Tây, tìm hiểu khả năng tập họp Xứ Ủy Nam Bộ
đến địa điểm hội nghị, Tư Lệnh Vùng IV quyết định
mở hành quân ở U Minh. Xin được tăng cường tàu Hải Quân để :
(a) chở một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ từ
ngoài biển vào, (b) bao vây mặt biển để chận bắt
toàn thể hội nghị tìm đường thoát thân ra các đảo trong Vùng
Phú Quốc. Bởi vì, Cộng Sản đương nhiên phải dự trù nhiều
phương án rút lui, mà tốt nhứt cho chúng là ra phía biển.Quân
Đoàn IV cũng xin 2 đại đội trực thăng dùng để đổ quân Sư Đoàn
21 xuống mặt trận, làm thành 3 cánh quân tấn công vào mục
tiêu. Bình thường thi 2 đại đội trực thăng của Mỹ, đóng ở Bạc
Liêu và ở Vĩnh Long là để sử dụng cho Vùng IV Chiến Thuật,
nhưng lần này tôi muốn sử dụng thì Mỹ không cho.Thẩm định tình
hình, tôi nắm chắc phần thắng mà bị cản trở, tôi nóng nảy bay
về Sàigòn, cầu cứu Tổng Thống Diệm. Cụ Diệm điện thoại ngay
cho Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Đại Tướng nói chuyện liền với Đại
Tướng Harkins, MACV buộc lòng phải ra lệnh cho 2 đại đội trực
thăng đóng ở vùng IV, đặt thuộc quyền sử dụng hành quân của
tôi.Chiều ấy, tức ngày D-1, tôi
bình thản ngồi tại tư dinh,
lúc 6 giờ chiều Đại Tá cố vấn trưởng từ Sàigòn về, đến thẳng
tư dinh tôi, gặp tôi với bộ mặt hớt hãi lo âu, Connor nói :
"Ông tướng ơi! Cả Sàigòn phẫn nộ về ông, bảo rằng ông ỷ thế
Tổntg Thống, phá hoại cuộc hành quân liên vùng nhằm đánh vào
cuộc hội nghị cao cấp cuả Cộng Sản. Việc này rất quan trọng,
mọi người ở MACV, Tổng Tham Mưu, Toà Đại Sứ, đều đổ tội cho
ông phá hoại. Ngày mai, nếu hành quân không có kết quả, thì
ông và tôi phải lấy một cái bè bơi ra Thái Bình Dương, chứ
không sống trên đất liền này được nữa" Tôi bảo với Connor
:"Đại Tá Connor ạ! Ông sống gần tôi mấy tháng qua, ông đã thấy
tôi làm đúng, quyết định đúng, và ngày mai hanh quân cũng đúng
thôi. Đừng có lo".
Ngày hành quân,
các cuộc đổ bộ bằng trực thăng cũng như bằng tàu hải quân đều
nhịp nhàng đều đặn. Tôi ở tại Bộ Chỉ Huy Hành
22
Huỳnh Văn Cao
quân tại Cà Mau,
các cánh quân báo cáo về, có chạm súng lẻ tẻ, tiến vào một nơi
xem như sào huyệt của chúng, cánh quân khác khám
phá hầm súng đạn và công binh xưởng, canh quân khác
thì giải thoát hơn 80 quân nhân công chức bị
Cộng Sản cầm tù trong rừng U Minh. Bây
giờ đến lượt màn lưới bao vây mặt biển
báo cáo, một tàu hải quân bắt được một ghe biển có máy đẩy, từ
U Minh đổ ra, chở mười mấy người toàn đàn ông, có
vài phụ nữ, một tàu hải quân khác chận bắt một chiếc ho-bo
biển, có máy mạnh gấp mấy lần ho-bo của Mỹ, cũng tư U Minh đổ
ra, trêbn đó chỉ có một người khách và một tài công. Từ tàu
hải quân đến các cánh quân trung đoàn, radio thông báo cho
nhau là đã bắt được Lê Duẩn.Tôi ra
lệnh cho các tàu hải quân đem tất cả các người bắt
được về Bộ Tư Lệnh Hành Quân, hãy đối xử lịch sự vơí họ? Và
các cánh quân bắt đầu rút lui. Chiều lại, tôi giao cho Tư Lệnh
Sư Đoàn 21 chỉ huy cuộc hành quân. Tôi và cố vấn Connor bay về
Cần Thơ.
Lối 8 giờ tối, Connor điện thoại cho tôi :"Ông
Tướng ơi! Tàu hải quân thả Cộng Sản hết rồi" Tôi bảo :
"Tôi đã ra lệnh đem về cho tôi, ai dám ra lệnh thả chúng?" Đại
Tá Connor nói tiếp :" Thế mà, tàu hải quân đã thả
đi rồi. Bây giờ, tôi đề nghị sáng mai, ông Tướng
khỏi về Cà Mau làm gì nữa. Nhưng xin ông vui lòng tiếp 3 người
khách từ Sàigòn đến, và họ ăn cơm trưa với ông tại tư dinh
ông. Có 2 tướng 1 đại tá". Tôi bảo Connor cùng
đến ăn cơm luôn thể. Cố vấn Connor nói tiếp :"Ngày
mai tôi sẽ ra sân bay đón khách, đem đến nhà ông, rồi tôi xin
kiếu về, ông hãy tiếp họ một mình". Tại tư dinh Tư Lệnh Vùng,
phía Mỹ có tướng 2 sao, 1
tướng 1 sao và 1 đại tá. Gặp nhau thì chào hỏi lịch sự thân
tình, nhưng trên mặt của 3 vị khách vẫn còn nét nóng nảy.
Tướng Mỹ 2 sao nói : "Cả một cuộc chiến tranh chỉ có một cơ
hội duy nhứt, cuộc diện chiến tranh này tùy thuộc nơi người
Cộng Sản ấy, thế mà sao ông thả cho họ đi?".Ngồi thoải mái tại
phòng khách, tôi nhẹ nhàng nói : "Vì tinh thần chóng Cộng của
tôi, với khả năng và kinh nghiệm chiến trường của tôi và vì
danh dự một tướng lãnh, tôi đã lấy hết can đảm để mở cuộc hành
quân, quyết bắt cho được họ. Bắt được họ rồi, tôi đã ra lệnh
cho cánh quân ngoài biển giải họ về cho tôi. Tôi điên gì mà ra
lệnh thả họ đi".Chúng tôi sang phòng ăn, dùng bữa
trưa. Mọi việc trắng đen trong các cuộc Hành Quân tại Sư Đoàn
7 và vùng IV Chiến Thuật là trung thực rõ ràng như vậy. Thế mà
một số tác giả Mỹ đã nói rằng tôi nghe lời khuyến dụ của Tổng
Thống Diệm nên đã để cho Việt Cộng chạy thoát trong các cuộc
hành quân....Để cho rõ ràng Lê Duẩn do ai ra lệnh thả? tác giả viết thơ nhờ Cụ Lê Tấn Bửu, Cựu
Thượng Nghị Sĩ VNCH, rất thân quen cũng là người hàng xóm với
tướng Huỳnh Văn Cao ở Arlington, VA, Hoa Kỳ, để hỏi tướng Cao
hư thực như thế nào? và may thay
được Cụ Lê Tấn Bửu, cựu Thượng Nghị Sĩ VNCH gởi
thơ cho biết như sau :
Xin
trích dẫn từ trang 458 – 459 tập 1 50 năm qua (1963-2013) đã
đăng Anh em Ngô Đình thỏa hiệp với CSBV cho nên sau khi bị
đảo chánh 1-11-1963 phải chạy trốn nhà Mã Tuyên để hy vọng
được CSBV tiếp cứu....
3-Theo ông VIỆT THƯỜNG
(Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam):
"... Nguyễn công Tài đã dành nhiều thời gian để
nghiên cứu hàng núi hồ sơ về gia đình nhà ông Ngô Đình Diệm
và những người kế cận, cũng như những người đối lập. Tài
liệu cập nhật từ nhiều nguồn, nhưng phần đóng góp của nội
gián Phạm ngọc Thảo là rất quan trọng. Làm sao phải chọn
người tiếp xúc thật đúng mà lại bảo toàn bí mật. Cuối cùng,
sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, Nguyễn công Tài đã lựa nhân vật
Mã Tuyên, người Tàu ở Chợ-lớn đang làm công việc kinh tài
cho gia đình ông Ngô Đình Diệm.
Thông qua dịch vụ buôn bán táo bạo, Nguyễn công Tài đã tiếp
xúc trực tiếp được với Mã Tuyên. Và, cái thời điểm để đưa ý
kiến cho Mã Tuyên "gợi ý" với anh em ông Ngô Đình Diệm là
sau tháng 2-1962, sau cái ngày mà hai trung uý của quân đội
ông Diệm là Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử ném bom dinh Độc
Lập làm đảo chính. Sự việc của hai trung uý Phạm Phú Quốc và
Nguyễn Văn Cử tuy không thành công nhưng nó lại là lý do hợp
thời để Nguyễn Công Tài làm cuộc tiếp xúc với anh em ông
Diệm, Nhu thông qua thương gia người Tàu ở Chợ-lớn là Mã
Tuyên. Tín hiệu có thuận lợi. Quả nhiên ông Nhu nhận sự tiếp
xúc một cách thận trọng và kéo dài thời gian để mặc cả cho
cái giá đi đêm. Nguyễn công Tài có nhận xét là anh em ông
Diệm, Nhu tuy học ở Pháp và Mỹ về nhưng óc bài ngoại cực
đoan như "Tự Đức" và cũng có mộng Việt Nam sẽ gồm cả Miên và
Lào và phải là cường quốc ở châu Á.
Sự việc tin đi mối lại chỉ dừng ở đó. Phải cho đến lúc được
phép của ông Line, Nguyễn công Tài cung cấp cho ông Nhu một
số tài liệu chứng minh người Mỹ muốn lưu lại ông Diệm còn vợ
chồng ông Nhu phải đi lưu vong nước ngoài, cũng như họ trước
sau cũng buộc ông Diệm phải từ bỏ chế độ độc tài, gia đình
trị, phải chia quyền lãnh đạo cho các đảng phái cũng như
phải có chính sách bình đẳng tôn giáo. Ông Nhu chấp nhận một
cuộc gặp gỡ với phái viên đặc biệt của ông Line. Có thể đây
chỉ là giải pháp phòng ngừa mà cũng có thể ông Nhu muốn hiểu
rõ hơn ý đồ của địch. Những điều này còn là bí ẩn đi theo
ông Nhu xuống tuyền đài.
Phạm Hùng nhận những chỉ thị toàn quyền hành động từ ông
Line tại phủ toàn quyền Đông Dương ở Ba-Đình (Hà-nội) và cấp
tốc đi Nam bằng cả ba thứ phương tiện: thủy, bộ và hàng
không.
Đầu tháng 2-1963, cuộc họp "bí mật" giữa ông Ngô Đình Nhu và
Phạm Hùng diễn ra tại một địa điểm kín đáo ở quận Tánh Linh,
tỉnh Bình Tuy. Trong cuộc họp này có cả Nguyễn công Tài cũng
được dự. Khi chia tay, cả hai bên đều hỷ hả. Nội dung cuộc
họp vẫn còn nằm trong bí mật cho đến nay.
Đầu tháng 11-1963, các tướng trong quân đội của
ông Diệm làm đảo chánh thành công. Anh em ông Diệm, Nhu theo
đường hầm trốn vào Chợ-lớn ở nhà Mã Tuyên. Phải chăng hai
anh em ông Diệm, Nhu định chờ người của Phạm Hùng và Nguyễn
công Tài đến đón ra bưng biền?
Người duy nhất còn lại là Nguyễn công Tài, sau này "tình cờ"
làm cái việc xét căn cước, cảnh sát của miền Nam đã bắt được
Nguyễn công Tài. Người Mỹ đã cho giam Nguyễn Công Tài ở Bạch
Đằng (Sài-gòn), cho hưởng mọi tiện nghi vật chất rất cao và
cũng được ngồi xe hơi (tất nhiên có bảo vệ) đi "tham quan"
phố xá Sài-gòn. Đến 1975, trước khi đứt phim miền Nam, Mỹ đã
thả Nguyễn công Tài ra...
4-Theo ông QUANG PHỤC
(Ký giả, chủ nhiệm “Góp Gió”):
Chúng tôi nhận định rằng chính gia đình ông (Ngô Đình Diệm),
cụ thể là ông bà Ngô Đình Nhu, và Đảng Cần Lao của ông ta đã
làm hại ông, khi âm mưu thỏa hiệp với CS Hà Nội từ năm 1958
khi ra lệnh cho các Tỉnh trưởng ngưng bắt các cán bộ cộng
sản và thu hồi vũ khí tự động của Bảo An, Dân Vệ, thay vào
đó bằng súng mousqueton và dao găm.” (Hồi ký Công và Tội
của Nguyễn Trân, trang 269)
(trích từ cuốn “Hãy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử” của
Quang Phục Võ Văn Sáu, 2004, trang 39)
5-Theo Trung Tướng HUỲNH VĂN CAO:
“Đọc hồi ký Một Kiếp Người của Trung tướng
Huỳnh Văn Cao, tới đây thì vấn đề ông Nhu có liên hệ với CS
không cần bàn cãi nữa. Cả tướng (Trần Văn) Đôn, tướng Huỳnh
Văn Cao và Nha An Ninh Quân Đội của Đại tá Đỗ Mậu đều báo
cáo (rằng) Đại tá Phạm Ngọc Thảo là VC nằm vùng, nhưng cả 2
ông Diệm và Nhu lẫn cha Thục vẫn cứ cố ý bảo vệ cho Thảo.
Trong hồi ký Một Kiếp Người của Huỳnh Văn Cao cho
biết Đ/tá Thảo còn dám cả gan “móc nối” ông Cao (lúc còn Đại
tá), đòi giới thiệu để ông Cao làm quen với Tổng bí thư Lê
Duẫn, các sĩ quan dưới quyền ông Cao rất tức giận vì biết
Thảo là VC nằm vùng, đòi giết Thảo (các trang 79-80). Ông
Nhu nghe Thảo báo cáo bèn dọa “Kẻ nào đụng tới Thảo (tôi) sẽ
bỏ tù rục xương” (trang 90). Đồng thời, nơi trang 84, Tướng
Huỳnh Văn Cao còn cho biết cả Đại tướng Harkins cũng nghi
ngờ TT Diệm. Bởi vì cuộc hành quân nào của QLVNCH sắp mở ra
mà báo cho Tổng Thống phủ thì VC đều biết trước! Cho thấy
người Mỹ, CIA đã biết và theo dõi bám sát ông Ngô Đình Nhu
từ lâu. Và người Mỹ nhiều lần đòi Tổng Thống Diệm loại trừ
ông Nhu. Các tướng lãnh cũng đòi loại trừ ông Nhu nhưng ông
Diệm cương
quyết giữ ông Nhu!.