Dưới
đây là một chương ngắn của tập sử liệu rất có giá trị “Tears Before The
Rain”, viết về giai đoạn hấp hối của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, vào
tháng 4 năm 1975, dưới sự chứng kiến tận mắt của Chỉ Huy Trưởng Trung
Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA) Thomas Polgar tại Nam Việt Nam. Xin mời quý
độc giả theo dõi để thấy, không phải những giới chức cao cấp thuộc các
cơ quan như CIA, Tòa Đại Sứ… làm việc trực tiếp, gián tiếp với VNCH, đều
muốn lìa bỏ Nam Việt Nam, mà thật sự ngược lại, họ đã rơi nước mắt… khổ
đau, bó tay trước thời cuộc mà trong tận cùng đáy lòng họ phải thốt nên
lời: “Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.’’
Nước Mắt Trước Cơn Mưa, nguyên tác Anh Ngữ ‘’Tears Before The Rain’’ là
một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann,
Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn
nhiều thành phần: Người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại…
Những
cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch
Việt Ngữ do Nhà Văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995
tại California.
andy
Tác giả Larry Engelmann
Hiểu
ý định địch quân không khó vì Bắc Việt không giữ bí mật phương hướng,
đường lối. Họ thường cho cán bộ học tập kỹ lưỡng cả đến những chi tiết
đáng ngạc nhiên về những gì họ làm, hơi giống kiểu Hitler và cuốn Mein
Kampf. Họ thường nói trước những gì họ sẽ làm, chúng ta thường không tin
những gì họ đã nói. Còn chính sách Hoa Kỳ thì đơn giản là không đáp ứng
những tin tình báo mà chúng tôi thu lượm.
THOMAS POLGAR (Chỉ huy Trung Ương Tình Báo Mỹ tại Việt Nam)
Xin
đưa thí dụ: Mùa Thu 1974, chúng tôi tìm ra được những báo cáo của Hà
Nội nói Nixon đã đổ, chúng ta sẽ chơi một trận cầu mới, chúng ta sẽ có
nhiều thử nghiệm trong phạm vi quân sự. Tôi xem các tài liệu này rất hệ
trọng. Bắt đầu vào tháng 10.1974, khi tìm được phương án hoạt động 75,
tôi lái xe xuống Biên Hòa nói chuyện với viên Trưởng Nhiệm Sở Tình Báo
Vùng, nơi họ bắt được phương án này, chúng tôi đã bàn thảo và đi đến kết
luận: Cái giọng trong văn kiện này tương đồng khủng khiếp với cái giọng
của tập tài liệu 90 nguyên tắc chỉ đạo do trung ương cục miền Nam đưa
ra vài tháng trước cuộc tổng công kích 1972.
Một
hôm, tôi có dịp hỏi ý kiến Kissinger về hoạt động tình báo của chúng
ta, không phải chỉ riêng ở Việt Nam, mà nói chung. Lúc ấy, ông đang tiếp
nhận một lưu lượng khổng lồ các tin tức do Trung Ương Tình Báo từ khắp
nơi trên thế giới gửi về. Tôi hỏi ông nghĩ thế nào về giá trị ngành tình
báo chúng ta ? Ông suy nghĩ một lúc, rồi trả lời: ‘’Khi nó hỗ trợ cho
chính sách của tôi, nó rất hữu ích!’’ Tôi nghĩ: Đấy, chính đấy là tâm
điểm vấn đề. Vấn đề là chính sách Mỹ không được thiết lập để đáp ứng với
tin tức do tình báo thâu nhập được nhưng chúng ta thiết lập chính sách
trước, rồi cố tìm kiếm các tin tức tình báo để hỗ trợ chính sách ấy mà
thôi.
Ở
Việt Nam lúc đó có ba nguồn tình báo chính: Quân Báo, Sở An Ninh Quốc
Gia và Trung Ương Tình Báo. Chúng tôi không bao giờ gặp những trường hợp
tin tức nghịch chiều. Chưa bao giờ Văn Phòng Tình Báo-Văn Phòng Tùy
Viên Quân Sự đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác biệt với quan điểm
những cơ quan tình báo bạn. Chúng tôi phối hợp chặt chẽ với Bill Legro,
người chỉ huy tình báo thuộc Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự suốt phần lớn
thời gian kể từ sau Hiệp Định Ba-Lê. Nhưng trở ngại là chính sách Hoa Kỳ
đã được đặt trên căn bản của một tiền đề: Tiền đề đó là Chiến Tranh
Việt Nam đã chấm dứt. Quân Đội Hoa Kỳ đã rút. Và chắc chắn, Tổng Thống
Ford sẽ không để cho hy vọng tái bầu cử của ông bị đe dọa vì việc có thể
đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam.
Vào
năm 1974, chúng ta đã không gửi tiếp vận cho Nam Việt Nam đúng kỳ hạn.
Chúng ta đã chậm trễ trong việc thi hành các nghĩa vụ đồng minh. Lúc ấy,
tôi báo cáo: Nếu người miền Nam Việt Nam mất tin tưởng vào sự hỗ trợ
của Hoa Kỳ, họ sẽ sụp đổ. Tôi nhấn mạnh vào sự tin tưởng vào tinh thần
của họ, hơn là vào cả cái mức độ thực sự của việc yểm trợ quân sự.
Có 5 sự kiện xảy ra trong năm 1973 dù không liên quan gì đến Việt Nam, nhưng đã ảnh hưởng trầm trọng đến họ.
• Trước hết, cuộc chiến Ả Rập/Do Thái đã làm đổi hướng Bộ Quốc Phòng Mỹ và đổi hướng nguồn quân vận sống chết của Nam Việt Nam.
• Tiếp đến việc phong tỏa dầu lửa, giá dầu thô tăng vọt làm kinh tế Nam Việt Nam bị va chạm, thiệt hại nặng.
• Rồi các nhược điểm trong chính sách ngoại giao Mỹ đã tạo nên những phản ứng tâm lý mạnh mẽ chống lại việc tiếp tục các cam kết ngoại giao đắt giá.
• Rồi việc quân nhân đảo chánh, hạ bệ Salvador Allende ở Chí Lợi làm công luận thuộc Khuynh hướng Tự Do và Khuynh hướng Tả phái tức giận, họ trút sang đầu Nam Việt Nam.
• Sau nữa, Quốc Hội vì ghê tởm vụ bưng bít Watergate, đã tìm cách trừng phạt Nixon, nên cũng gộp luôn cả Việt Nam vào vụ này.
• Trước hết, cuộc chiến Ả Rập/Do Thái đã làm đổi hướng Bộ Quốc Phòng Mỹ và đổi hướng nguồn quân vận sống chết của Nam Việt Nam.
• Tiếp đến việc phong tỏa dầu lửa, giá dầu thô tăng vọt làm kinh tế Nam Việt Nam bị va chạm, thiệt hại nặng.
• Rồi các nhược điểm trong chính sách ngoại giao Mỹ đã tạo nên những phản ứng tâm lý mạnh mẽ chống lại việc tiếp tục các cam kết ngoại giao đắt giá.
• Rồi việc quân nhân đảo chánh, hạ bệ Salvador Allende ở Chí Lợi làm công luận thuộc Khuynh hướng Tự Do và Khuynh hướng Tả phái tức giận, họ trút sang đầu Nam Việt Nam.
• Sau nữa, Quốc Hội vì ghê tởm vụ bưng bít Watergate, đã tìm cách trừng phạt Nixon, nên cũng gộp luôn cả Việt Nam vào vụ này.
Tôi
nghĩ ông Thiệu hiểu rất rõ: Không có Mỹ, ông không thể tồn tại được.
Tôi cũng biết Hoàng Đức Nhã, cháu ông Thiệu rất nhiều. Nhã đã học bốn
năm đại học ở Mỹ, còn hiểu rõ hơn cái bản chất bất định của nền chính
trị Hoa Kỳ, những sự lên xuống thuần túy chỉ do áp lực nội bộ gây ra,
thường chẳng liên quan đến đề mục ngoại giao, mà lại ảnh hưởng lớn đến
liên hệ ngoại giao. Nhưng làm thế nào một người như Thiệu có thể nhận
thức thấu đáo sinh hoạt Quốc Hội Mỹ, trong khi cách làm việc của ông là
chỉ coi Quốc Hội của ông như một công cụ khúm núm quỵ lụy mà thôi?
Vụ
thất thủ Phước Long xảy ra đầu năm 1975 không quan trọng về phương diện
quân sự, nhưng cực kỳ quan trọng ở phương diện tiêu biểu: Nước Mỹ đã từ
chối không thực hiện lời Nixon hứa với Thiệu rằng sẽ ‘’trả đũa mạnh mẽ
và toàn bộ.’’ Quân Bắc Việt thử nghiệm xong, tất nhiên được đàng chân,
lân đàng đầu, họ sẽ tiến sâu hơn nữa.
Khi
Phái Đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ đến Việt Nam, tôi nghĩ cách hành xử của
Fraser và Abzug không tha thứ được. Ngay khi bước vào phòng, Abzug lên
tiếng hỏi: ‘’Trong mấy người ở đây, ai là Polgar?’’ Tôi tự giới thiệu.
Bà ta nói: ‘’Tốt! Tôi đã được người ta cảnh giác về ông.’’
Bà Bella Abzug
Bấy
giờ có một lãnh tụ sinh viên bị nhốt tù, anh này có đôi chút tiếng tăm ở
Mỹ. Bà Abzug đầu tiên bảo anh ta chắc chết rồi, Nam Việt Nam giết hắn
rồi. Tôi bảo ‘’Không. Nam Việt Nam không làm như vậy. Họ có thể xác định
được bất cứ người nào ở đâu trong tù.’’ Bà ta bảo: ‘’Xác định người này
xem.’’ Chúng tôi xác định ra được địa điểm giam anh ta là ở vùng 3, Tuy
Hòa. (Ghi chú của người dịch: Có lẽ là Biên Hòa) Bà bèn bảo bà ấy muốn
phỏng vấn. Nhưng đi xe hơi xa quá, phải có trực thăng, bà ấy lại chỉ có
thể đi sáng Chủ nhật, thực bất tiện cho tất cả mọi người. Nhưng cũng
đành, chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục thăm tù. Sau khi tất
cả lo liệu xong, bà ấy nói: ‘’À, tôi không lưu ý vụ này nữa’’ và không
bao giờ đi gặp người sinh viên này nữa.
Cùng
đi trong Phái Đoàn có Millicent Fenwick. Bà này tuy không có cảm tình
với Nam Việt Nam nhưng vẫn còn cư xử đàng hoàng, đã theo dõi lắng nghe
các buổi thuyết trình. Nhưng Abzug và Fraser hết sức quá quắt. Tổng
Thống Thiệu mời cả phái đoàn dự tiệc, hai người này thản nhiên không dự.
Họ chẳng đếm xỉa nghi lễ, không buồn từ chối. Họ lẳng lặng không đến.
Trước buổi tiệc ấy là tiếp tân của Thủ Tướng, họ đến, nhưng họ không thò
mặt vào buổi tiệc của Tổng Thống. Rồi Đại Sứ cũng mời Phái Đoàn dùng
cơm chiều. Tất cả mọi người đến, trừ Abzug. Tôi rất thất vọng, vì chính
tôi đã được xếp ngồi ngay cạnh bà ta.
Bà Millicent Fenwick
Về
vụ tấn công Ban Mê Thuột ngày 5 tháng 3, tôi không tin có ai đã đoán
trước được, nhưng hầu hết mọi người đều biết một cuộc tấn công lớn sẽ
xảy ra ở Cao Nguyên Trung Phần.. Chúng tôi biết họ sẽ cắt đường, sẽ đưa
vào nhiều sư đoàn. Tất cả đều đã xảy ra đúng như vậy, nhưng Hoa Thịnh
Đốn không bao giờ chấp nhận tin tức tình báo của chúng tôi.
Họ
không chấp nhận vì – (Chúng ta đang bước vào chuyện xuất xứ các nguồn
tin và những phương pháp thâu nhập tin tức tình báo, chẳng rõ tôi có nên
nói ra ở đây không) – Nhưng sự kiện xảy ra là giới tình báo Hoa Thịnh
Đốn đã không sử dụng tin tức tình báo từ Việt Nam do Văn Phòng Tùy Viên
Quân Sự và Sở Trung Ương Tình Báo chuyển đến, nói rằng sẽ có một cuộc
tấn công lớn tại Cao Nguyên vào năm 1975. Họ từ chối không chịu tin điều
ấy. Còn miền Nam Việt Nam thì chẳng có được một quan niệm chiến thuật
riêng tư nào, ngoài việc đặt một trung đoàn chỗ này, đưa một trung đoàn
ra chỗ kia để phòng vệ. Trung đoàn tăng cường Ban Mê Thuột không đủ
đương đầu tình hình, họ cũng không được may mắn. Những lực lượng này
dùng để giữ các địa phương thì tốt, họ tỏ ra đắc lực để đối đầu vài trận
tấn công. Tuy nhiên họ không phải là loại binh đội được huấn luyện và
trang bị để chiến đấu với các đơn vị chính quy chủ lực có chiến xa tăng
cường.
Sau
khi mất Ban Mê Thuột, ông Thiệu họp với Tướng Phạm Văn Phú tại Cam
Ranh, ban lệnh triệt thoái cao nguyên. Tôi nhớ buổi họp ấy nhằm thứ Sáu.
Phú cho thực hiện kế hoạch vào thứ Bảy. Nhận tin sáng thứ Bảy ấy, tôi
chạy theo Tướng Charles Timmes ra Tổng Tham Mưu, và nói rằng ‘’Tôi chẳng
biết chuyện trời đất gì đang xảy ra đây nữa!’’ Tôi cho một phụ tá cao
cấp đi gặp Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh của Thiệu, hỏi chuyện gì
đang xảy ra ở Vùng II. Quang bảo: “Ông thấy, tình hình không được tốt.
Chúng tôi không mở đường lại được, chúng tôi đang lo ngại về tình hình
và sẽ phải thay đổi vị trí một vài đơn vị chớ chẳng có chuyện gì xảy ra ở
Vùng II cả.’’
Tướng Đặng Văn Quang
Hiển nhiên, ông Quang không hay biết ông Phú đang di tản.
Tướng
Timmes vào Tổng Tham Mưu Việt Nam, nhưng không gặp Tướng Cao Văn Viên,
Tổng Tham Mưu Trưởng. Mọi sự ở đấy có không khí của một buổi sáng thứ
Bảy. Nhưng ông đã gặp Tướng Trần Đình Thọ, là Trưởng Phòng Hành Quân để
hỏi thăm tin tức Vùng II.. Ông Thọ nói: ‘’Còn có cái gì xảy ra mà quý
ông không hay biết cả đâu?’’
Rõ
rệt, Bộ Tổng Tham Mưu cũng không biết gì việc ông Phú đang triệt thoái.
Sau đó tôi nhận tin trực tiếp từ Pleiku gửi về. Phó Đại Sứ Wolf Lehman
bấy giờ đang bận một số chuyện lặt vặt. Joe Bennett, sĩ quan chính trị
đang bận đi chữa răng. Tôi điện thoại cho Moncrieff Spear, Tổng Lãnh Sự ở
Vùng II, bảo ông ta: ‘’Tốt hơn hết ông nên chuyển người của ông ra khỏi
Pleiku, theo chỗ tôi hiểu: Người ta đang di tản.’’ Ông ta nói: “Anh
khùng à?’’ Bấy giờ ông ta đang ở Nha Trang, vùng duyên hải, tôi bảo:
“Không, tôi có lý do để tin những việc đang xảy ra.’’ Ông ta nói: “Có
phải anh ra lệnh cho tôi di tản Pleiku đấy chăng?’’ Tôi bảo: “Ông biết
thừa tôi không thể làm thế. Nhưng tôi có thể kết luận nếu khôn ngoan thì
hãy di tản ngay đi.’’
Có
một điểm tôi muốn nêu ra đây về Tướng Phú trong buổi sáng hôm ấy. Bất
kỳ công trạng trước đây của ông thế nào, không kể, nhưng bây giờ ông ta
đã hoàn toàn không phối hợp với chúng tôi. Ông ta không thông báo cả cho
Tổng Lãnh Sự là người mà ông bắt buộc phải thông báo, vì đây là đại
diện chính thức của Hoa Kỳ tại Vùng II. Ông Quang cũng không biết chuyện
gì đang xảy ra, ông ta có vẻ của một người bận rộn, nhưng thực tình chỉ
lăng xăng giết thì giờ. Còn ông Thọ Trưởng Phòng Hành Quân, cũng thế,
chẳng hay biết gì cả. Trong sự suy đoán của tôi: Những việc xảy ra đó là
do Tướng Phú hiểu lầm những gì Tổng Thống Thiệu nghĩ trong đầu, rồi tự
khởi xướng một kế hoạch hành động, không biết việc ấy trong thực tế sẽ
khó khăn đến đâu. Thực tế cuộc di tản ấy không thành công. Mọi cuộc
triệt thoái sớm hay muộn đều là một sự thất bại khủng khiếp.
Quân
đội Bắc Việt bắt kịp cuộc di tản của Tướng Phú. Chiến xa của họ đâm ra
từ các đường nhánh, gặp đoàn quân tại Phú Bổn. Cuộc tàn sát đã diễn ra ở
đấy.
Trước buổi họp Cam Ranh, tôi liên lạc với Hoa Thịnh Đốn để ghi nhận cuộc chơi đã xong. Tôi nhớ tôi nói chuyện với một viên chức có liên hệ khá chặt chẽ với tôi (xin miễn đưa tên), ông ta bảo: Nam Việt Nam không thể nào tiêu hóa nổi việc mất Ban Mê Thuột cùng với cái hậu quả tất yếu của nó là mất toàn thể Cao Nguyên. Ống là một sĩ quan cấp Tướng.
Trước buổi họp Cam Ranh, tôi liên lạc với Hoa Thịnh Đốn để ghi nhận cuộc chơi đã xong. Tôi nhớ tôi nói chuyện với một viên chức có liên hệ khá chặt chẽ với tôi (xin miễn đưa tên), ông ta bảo: Nam Việt Nam không thể nào tiêu hóa nổi việc mất Ban Mê Thuột cùng với cái hậu quả tất yếu của nó là mất toàn thể Cao Nguyên. Ống là một sĩ quan cấp Tướng.
Lúc
ấy vẫn chưa có gì xảy ra ở Vùng I. Rồi tai họa bắt đầu. Thiệu quyết
định rút cả Thủy Quân Lục Chiến lẫn Nhảy Dù khỏi Vùng I. Quyết định này
giống như chợt rút đi cái chiếu trong lúc Tướng Trưởng còn đang đứng
trên ấy, nó làm ông ta hổng cẳng.
Tiếp
đến, mất cả Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Họ trở nên vô dụng, vì đầu
tiên người ta ra lệnh triệt thoái, sau lại ra lệnh ‘’quay đàng sau,
quay,’’ để quay trở lại! Đó là chuyện bất khả thi về phương diện quân
sự. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến mất rất nhiều chiến cụ vì không thể nào
lấy ra được trong cái dòng người tỵ nạn tràn lan. Lúc này ông Thiệu đang
ngoi ngóp trong biển nước, ông cố bám lấy vài cọng cỏ. Nhưng lúc này
ông có làm bất cứ cái gì cũng không còn có thể thay đổi tình thế lại
được nữa. Cuộc chơi đã xong!
Tôi
tin tưởng chắc chắn rằng khi người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta sắp
chạy, tất cả sẽ sụp đổ. Điều này, tôi hoàn toàn đồng ý với Đại Sứ
Martin. Ông Đại Sứ lúc ấy đã rời Việt Nam sang Mỹ cùng với Phái Đoàn
Quốc Hội. Ông nghĩ ông có thể vận động được một vài dân biểu, ông sẽ cố
ra điều trần trước Quốc Hội. Đến Hoa Thịnh Đốn, người ta phát hiện tình
trạng sức khỏe của ông cần giải phẫu, việc này đã làm chuyến về của ông
chậm trễ. Không muốn mọi người phải quan tâm nhiều, ông đi xuống North
Carolina mổ, ngay Bộ Ngoại Giao cũng không biết liên lạc với ông ở đâu.
Ông là một người kín đáo. Ông trở lại Việt Nam cuối tháng Ba, trước khi
Đà Nẵng mất và chuyến C-5A bị rơi.
Về
vụ chiếc C-5A thì thoạt đầu đề nghị chuyển vận các cô nhi đi bằng máy
bay hoàn toàn chỉ có mục đích vận động nhân tâm. Phó Thủ Tướng kiêm Tổng
Trưởng Y Tế, cũng là bác sĩ y khoa-Bác Sĩ Đán cảm thấy cần phải làm một
cái gì về các cô nhi. Đại Sứ Martin và vài cố vấn cũng cảm thấy nếu đưa
được các cô nhi sang Mỹ hàng loạt thì việc này có thể vận động tình cảm
công chúng Mỹ, nó sẽ là một câu chuyện khích động lòng xót xa con
người.
Cùng
lúc ấy, Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự lại có nhiều nhân viên phụ nữ sẵn
sàng di tản, nhưng người ta không thể cấp thông hành cho họ vì Hoa Kỳ
chưa chính thức di tản. Như thế ai sẽ trả phí tổn di chuyển bằng đường
hàng không từ Việt Nam, Hoa Kỳ chăng? Nên tôi nghĩ có thể xếp đặt cho họ
vào những chuyến máy bay quân đội còn trống, xem họ như những người đi
kèm các cô nhi, như thế khỏi lo liệu vấn đề lộ phí, tiền bạc. Chính vợ
tôi cũng đi với tư cách người kèm cô nhi, nhưng rồi vợ tôi tình cờ đã
lên một chiếc máy bay dân sự thuộc hãng Cathay Pacific, đúng một ngày
với chuyến C-5A bị rớt.
Tôi
có hai bác sĩ thuộc Trung Ương Tình Báo, nhân viên của tôi, khi máy bay
rớt đã đi khiêng xác chết, xác của những đứa trẻ nhỏ bé này, vào bệnh
viện Cơ Đốc ở Sài Gòn. Một trong hai bác sĩ ấy mang theo máy ảnh, chụp
rất nhiều hình. Khi tôi đưa những tấm ảnh này cho Đại Sứ coi, ông suy
nghĩ khá lâu xem có nên công bố hay không. Nhưng ông kết luận những bức
ảnh này quá rõ ràng, quá đẹp, màu sắc sống động, với hình ảnh các thân
thể nát vụn của đàn bà trẻ con, thay vì khích động lòng thương xót, lại
tạo ảnh hưởng xấu, nên người ta quyết định không công bố nữa.
Vài ngày trước hôm Thiệu từ chức, một nhân viên cao cấp người Hung Gia Lợi thuộc Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đến gặp tôi, anh ta nói: “Này ông bạn, phải thực tế chút chứ? Ông phải biết các ông đã thua trận chiến này.’’ Tôi bảo: “Ô kê, tôi nhìn nhận: Trận chiến đã bại rồi.’’ Anh ta nói: “Mỗi cuộc thất trận đều tạo nên nhiều hậu quả chính trị.’’ Tôi bảo: ‘’Đồng ý.’’ Anh ta nói: “Hiển nhiên những hậu quả chính trị này sẽ gây nhiều cay đắng. Nhưng bên phía mà tôi đại diện…’’ Anh ta bỏ lửng, không nói đại diện cho ai “…Không có ý định hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức. Có lẽ, có thể tìm ra được một giải pháp nào. Không phải để thay đổi cuộc diện trận chiến, vì nó đã xong, nhưng để thu xếp cho một cái chung cuộc mà…’’ Một lần nữa, anh ta sử dụng những chữ này: “Không hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức.’’
Vài ngày trước hôm Thiệu từ chức, một nhân viên cao cấp người Hung Gia Lợi thuộc Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đến gặp tôi, anh ta nói: “Này ông bạn, phải thực tế chút chứ? Ông phải biết các ông đã thua trận chiến này.’’ Tôi bảo: “Ô kê, tôi nhìn nhận: Trận chiến đã bại rồi.’’ Anh ta nói: “Mỗi cuộc thất trận đều tạo nên nhiều hậu quả chính trị.’’ Tôi bảo: ‘’Đồng ý.’’ Anh ta nói: “Hiển nhiên những hậu quả chính trị này sẽ gây nhiều cay đắng. Nhưng bên phía mà tôi đại diện…’’ Anh ta bỏ lửng, không nói đại diện cho ai “…Không có ý định hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức. Có lẽ, có thể tìm ra được một giải pháp nào. Không phải để thay đổi cuộc diện trận chiến, vì nó đã xong, nhưng để thu xếp cho một cái chung cuộc mà…’’ Một lần nữa, anh ta sử dụng những chữ này: “Không hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức.’’
Tôi
hỏi: “Ông có ý nghĩ gì trong đầu vậy?’’ “À vâng.’’ Anh ta nói: “Ông
biết chúng tôi đã ra Tân Sơn Nhứt thảo luận với các đồng nghiệp Bắc Việt
của chúng tôi. Chúng tôi có người ở Hà Nội. Tôi có cảm tưởng có lẽ
chúng ta có thể tìm được một cách giải quyết trong lúc tình hình đang
diễn tiến thế này – Thiệu bắt buộc phải từ chức. Hoa Kỳ cần phải tuyên
bố bất can thiệp vào nội tình Nam Việt Nam, ngoại trừ việc duy trì ở đây
một cơ cấu sứ quán bình thường. Và chính phủ Nam Việt Nam cần bao gồm
một số người Bắc Việt có thể chấp nhận.. Đấy là những vấn đề chủ yếu.’’
Tôi đáp: “Vâng, tốt lắm, cảm ơn ông bạn nhiều. Đương nhiên, tôi sẽ báo
cáo cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay. Tôi sẽ thảo luận với Đại Sứ
chúng tôi để chuyển về Hoa Thịnh Đốn, rồi tôi sẽ gặp lại ông. Trong lúc
chờ Hoa Thịnh Đốn trả lời, xin ông vui lòng đi gặp các bạn của ông một
lần nữa để tìm hiểu xem ai sẽ là những người mà họ có thể chấp nhận được
trong chính phủ ấy?’’
Vài
ngày sau, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp người bạn Hung Gia Lợi của tôi
mà nói: “Đấy, tôi đã chuyển đạt và thực hiện xong điều thứ nhất của
ông. Chúng tôi vẫn chưa nhận được hết câu trả lời dứt khoát. Còn ông đã
có đề nghị nào về những tên người mà tôi hỏi hay chưa?’’ Anh ta đáp:
“Vâng, thực ra tôi đã có. Nhưng tên người Việt, tôi dở lắm. Để tôi viết
ra.’’ Anh ta lấy một quyển sổ tay nhỏ, bắt đầu viết một số tên. Tôi đáp:
“Thú vị nhỉ. Tất nhiên tôi sẽ tiếp tục xúc tiến câu chuyện lần trước
giữa chúng ta, tôi sẽ trở lại gặp ông.’’ Nhưng anh ta nói: “Tôi có thêm
vài lời nữa từ các đồng nghiệp của tôi ở đây. Họ nói khi họ bảo mọi
chuyện cần phải thu xếp cho sớm, điều ấy có nghĩa là trong vòng vài
ngày, chứ không phải vài tuần đâu.’’ Ông Đại Sứ tỏ ra có thiện cảm với
chuyện này. Ông nghĩ có thể chúng tôi thực hiện được một cái gì chăng.
Nhưng chúng tôi đã gặp phản ứng tiêu cực của Kissinger, là người không
muốn có chuyện thương thảo gì hết.
Đến ngày 26 hoặc 27 tháng Tư, chúng tôi gặp nhau lại, lần này anh chàng Hung Gia Lợi nói: “Tôi nghĩ muộn quá rồi.”!
Đấy,
tôi kể cho các bạn nghe mấy chuyện này bởi vì tôi muốn nhấn mạnh thật
ra không bao giờ chúng tôi thương thảo với đối phương, cũng không bao
giờ làm điều gì đối phương đòi hỏi. Việc ông Thiệu từ chức là vì những
lý do hoàn toàn khác, không liên hệ đến mấy chuyện này, nhưng tôi đã vờ
vịt với họ, làm như chuyện ông Thiệu từ chức có liên hệ đến mấy chuyện
ấy mà thôi.
Thiệu
từ chức ngày thứ hai 21 tháng Tư. Ông Đại Sứ không yêu cầu Thiệu từ
chức, nhưng vào ngày 19 tháng Tư sau khi ông Đại Sứ nói chuyện với
Thiệu, thì hiển nhiên Thiệu đã mất hết tin tưởng vào mọi người, vì mọi
người xem Thiệu như chướng ngại vật trong cuộc dàn xếp, trong các thủ
tục ngưng chiến, mọi người không có thể cục cựa gì nếu Thiệu cứ luẩn
quẩn bên cạnh.
Một
bữa Đại Sứ gọi tôi vào văn phòng nói ông mới gặp Tổng Thống Hương, Tổng
Thống không được thoải mái vì sự tiếp tục có mặt của Thiệu ở trong xứ.
Ông cụ Hương nghĩ sự hiện diện của Thiệu làm giảm uy quyền của ông,
chừng nào Thiệu còn ở đây thì ông cụ tê liệt không làm gì được cả. Ông
cụ khẩn thiết yêu cầu Đại Sứ Martin lo liệu hộ vì lẽ chỉ Hoa Kỳ mới ở vị
thế giúp được chuyện này. Việc đưa Tổng Thống Thiệu ra khỏi xứ cần thực
hiện tuyệt đối trong vòng “Tối mật!’’ Vâng, Đại Sứ Martin là người đầy
lý trí, khi nghe cái gì “Tối mật’’ tất ông nghĩ đến “CIA Trung Ương Tình
Báo,’’ thế là ông hỏi: “Anh làm được không?’’ Tôi bảo “Thưa Đại Sứ, tôi
làm được. Với một điều kiện. Ấy là: Để yên cho tôi lo. Cứ giao việc để
tôi xoay sở, nhưng đừng đem cả một ủy ban dính vào đây.’’ Việc này xảy
ra ngày 24 tháng Tư thì phải.
Mọi
sự được xúc tiến nhanh chóng ngay sau đó. Tôi biết tôi có thể thu xếp
máy bay ở đâu. Tôi lấy Tướng Timmes là điểm liên lạc chính. Vào lúc này
Thiệu đã rời căn nhà trong Tổng Tham Mưu. Các Tướng lãnh cao cấp Việt
Nam đều có nhà trong căn cứ Tân Sơn Nhất. Chúng tôi đồng ý là với một kế
hoạch hành động, cũng có đôi điều cần phải quan tâm: Phải quan tâm công
luận. Phải lo ngại chuyện một số quân nhân vô kỷ luật của Nam Việt Nam
có thể can thiệp, vài sĩ quan cao cấp có thể manh nha trong đầu cái ý
nghĩ làm lịch sử. Cũng phải lo ngại cả chuyện cảnh sát chặn trên đường
ra Tân Sơn Nhất, việc này tuy không liên quan gì đến chuyện Thiệu đi,
nhưng cảnh sát thường có những điểm chặn trên đường, nên chúng tôi phải
bày việc đi dự tiệc trong căn cứ Tham Mưu Liên Quân. Chúng tôi lấy vài
chiếc xe Mỹ kiểu tiêu chuẩn, màu đen, gồm cả xe Đại Sứ, xe tôi, xe phụ
tá của tôi, đủ để chở từ mười đến mười hai người, kể cả các tài xế,
Tướng Timmes, tôi, và hành lý.
Chúng
tôi dặn rõ mỗi người chỉ được mang một vali. Chúng tôi dàn xếp tất cả
sẽ gặp nhau tại nhà Thủ Tướng Khiêm, bởi vì đây là căn nhà lớn nhất, ít
bị chú ý hơn là nhà ông Thiệu. Chúng tôi đồng ý sẽ cho máy bay đi Đài
Loan, nơi người anh của Thiệu làm Đại Sứ, như thế ông ta sẽ thu xếp được
với nhà cầm quyền Đài Loan để mọi người được nhập nội. Thủ Tướng Khiêm
cũng từng là Đại Sứ ở Đài Loan, như thế ông ta cũng có nhiều liên hệ.
Khi chọn Đài Loan làm điểm đến, tôi cũng cân nhắc rằng chuyến máy bay
DC-6 chỉ có thể bay xa nhất bấy nhiêu, mà khỏi cần đổ thêm xăng.
Tôi
chọn vài người làm tài xế mà tôi xem như những tay bảnh nhất, đáng tin
cậy và vững chãi nhất. Tôi không lựa tài xế người Việt-Frank Snepp là
một trong các tài xế ấy. Tướng Timmes, vì cấp bực của ông, không thể lái
xe, tôi cũng thế, cấp bực của tôi không cho phép tôi lái xe. Tôi kiếm
một Đại Tá Cảnh Sát, cũng là Đại Tá Quân Đội, tôi nói: “Cần phải có một
người với cái vẻ chỉ huy lẫm liệt.’’ Tôi dự phòng trường hợp lính gác
hạch hỏi gì chăng. Phòng xa thế, chứ tôi biết khi lính gác nhìn thấy bốn
cái xe Mỹ do Mỹ lái thì họ sẽ bảo ‘’Các tay tổ đây,’’ khi nhận ra xe
Đại Sứ, họ sẽ bảo ‘’Ông Đại Sứ đi họp’’ chắc chắn thế, chả trở ngại gì,
nhưng phải có một Đại Tá quân đội cảnh sát để dự phòng cho vững. Chúng
tôi không biết Thiệu sẽ mang theo những ai. Chỉ biết một mình ông Thiệu
sẽ đi, Khiêm sẽ đi, không biết còn ai khác. Cho nên cứ mang theo một số
giấy tờ để trống, rồi Tướng Charlie Timmes sẽ điền tên họ vào bằng tay.
Chúng
tôi đưa cả cho viên Đại Úy trên máy bay, bảo: “Khi đến Đài Loan chúng
tôi sẽ thông báo cho các giới chức quân sự Mỹ. Anh cứ yêu cầu gặp các sĩ
quan cao cấp, và đưa tận tay chiếc phong bì này. Tất cả giấy tờ ở trong
ấy.’’ Trong lúc đó một xe khác chở Đại Sứ chạy thẳng đến chiếc máy bay
vì Đại Sứ muốn đến chào tạm biệt Thiệu. Tôi nói với Đại Sứ: “Tôi không
muốn đi cùng một xe với Đại Sứ trong thành phố vì chỉ tạo thêm nhiều rủi
ro phiền phức.’’ Cho nên tôi nhớ chúng tôi đã đổi xe. Tất cả diễn ra
chính xác như một cái đồng hồ Thụy Sĩ, cũng như khi chúng tôi thực hiện
các điệp vụ. Chúng tôi đã đưa mọi người đến máy bay an toàn, vào máy bay
an toàn, sau đó sẽ cất cánh an toàn.
Tôi
ngồi chung xe với Thủ Tướng Khiêm, chứ không ngồi với Thiệu. Tôi nhớ
Tướng Timmes ngồi với ông Thiệu. Mọi người đều kiềm chế cảm xúc, không
ai khóc. Gia đình họ đều đã đi cả. Thực ra, có một điều làm tôi ngạc
nhiên. Tôi ngạc nhiên vì trong tất cả các cộng sự viên thân tín gần gũi,
ông Thiệu không mang theo ai, trừ Thủ Tướng Khiêm. Điều này rất lạ vì
chỉ mới vài năm trước tại khắp các quán cà phê ở Sài Gòn người ta sì sào
bàn tán chuyện chia tay giữa Thiệu và Khiêm, chuyện ông này sẽ hất ông
kia vân vân… Tất nhiên tôi không đánh giá cao mấy chuyện ấy vì lẽ tôi có
liên hệ rất tốt với Thủ Tướng, tôi luôn luôn coi ông như một viên chức
tận tụy trung thành với Thiệu. Tổng cộng gồm mười bốn người đi ra chuyến
bay đêm ấy. Tất cả đều là đàn ông.
Tôi
luôn dè chừng trường hợp có người nhận ra ông Thiệu ở các trạm kiểm
soát, nhưng tôi cũng tính toán: Người ta đã quen cách di chuyển cố hữu
của ông Thiệu trong thành phố bằng một chiếc xe Mercedes cũ kỹ, khác với
đây là bốn chiếc xe Hoa Kỳ của Tòa Đại Sứ có bộ dạng quan trọng. Bấy
giờ trời tối, việc chặn xét bốn chiếc xe Hoa Kỳ là việc ít khi xảy ra.
Dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice của Đại Sứ có vỏ chắn đạn, tôi ngồi
trong xe này, có viên Đại Tá Cảnh Sát đi kèm. Mối e ngại nhất của tôi là
lỡ ở trạm gác, cảnh sát soát căn cước, bật đèn pha soi vào chúng tôi
thì sao? Như thế họ sẽ nhận ra ông Thiệu và Thủ Tướng. Nhưng rồi việc
xảy ra là khi thấy bốn chiếc xe với bộ dạng quan trọng như thế chạy đến
trạm, mấy người lính canh nghiêm chỉnh giơ tay chào. Đúng là điều tôi
mong đợi. Có lần tôi đã đưa một nhân vật trọng yếu đào thoát từ Tây Bá
Linh bằng một chiếc xe lớn tựa như vậy, tôi cũng tính rằng lính Liên Sô
sẽ chào kính khi họ thấy chiếc xe, và quả thật họ đã làm y vậy.
Đêm
hôm ấy, Thiệu không hề đem theo vàng xuất ngoại. Câu chuyện ấy chỉ là
chuyện cứt khô! Ai điên khùng gì mà lại gói vàng bỏ lỏng lẻo trong va
li, trời đất! Tôi muốn nói, tôi có một người bạn Việt Nam đã mang vàng
đi, tôi biết vàng phải được bọc chặt chẽ cẩn thận, quấn bằng vải, bằng
dây cao su, bằng băng keo, đủ các thứ. Có ai lại để cho vàng kêu lách
cách trong hành lý bao giờ. Thực ra số vàng dự trữ của Việt Nam vẫn ở
trong xứ, khi quân Bắc Việt đến, vàng vẫn ở đấy. Số vàng dự trữ của Ngân
Hàng Quốc Gia Việt Nam trị giá từ 18 đến 20 triệu Mỹ kim. Trị giá thực
sự của số vàng ấy đúng ra cao hơn nhiều, vì lý do giá vàng chỉ được tính
có 35 Mỹ kim một ounce (0.28g). Đó là cái giá tại Việt Nam trước thời
Nixon phá giá đồng Mỹ kim. Còn vào năm 1975, giá vàng thực ra ở mức 170
Mỹ kim một ounce.
Bấy
giờ đã có lúc Nam Việt Nam không còn tín chỉ trên thế giới nữa, Quốc
Hội Mỹ thì lừng khừng từ chối yêu cầu viện trợ, và như thường lệ, Đại Sứ
Martin đã đưa ra sáng kiến nóng hổi: Ông nghĩ Nam Việt Nam nên gửi số
vàng ấy sang Quỹ Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ, dùng sổ vàng ấy ký quỹ mà mua
chịu võ khí. Vâng, Thiệu đã chấp thuận đề nghị. Tình cờ có chuyến bay
chở hàng của Thụy Sĩ thuộc Hãng Basel Air đang ở Sài Gòn, Nam Việt Nam
thương lượng với Basel Air mang số vàng này đi dưới hình thức hàng hóa
thương mại thông thường. Mấy người Thụy Sĩ suy nghĩ một hai ngày rồi từ
chối không nhận chở, vì lý do bảo hiểm. Họ bảo không cách gì kiếm ra ai
chịu bảo hiểm số 70 triệu Mỹ kim vàng ra khỏi Sài Gòn. Người ta lại phải
tính đến Không Quân Hoa Kỳ. Việc này được đem thảo luận tại Hội Đồng An
Ninh Quốc Gia. Chở một tấn rưỡi vàng đối với Không Quân Hoa Kỳ không
khó, nhưng tìm đâu ra mối bảo hiểm thương mại khi người ta lại sử dụng
máy bay quân đội; chấm hết!
Cái
củ khoai nóng nuốt không trôi lại được ném lên bắp vế mấy anh trạng sư ở
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Suốt thời gian này đống vàng vẫn nằm yên tại Ngân
Hàng Quốc Gia ở Sài Gòn. “Làm thế nào kiếm cho ra mối chịu bảo hiểm
chuyến hàng này nếu chúng ta chở đi bằng máy bay quân sự?’’ Đó vẫn là
cái đề tài làm bù đầu mấy anh trạng sư suốt mấy hôm. Trong lúc ấy Thiệu
từ chức, một tốp người mới vào nắm quyền, Cụ Hương hôm đầu thì bảo ừ,
chở đi, hôm sau lại bảo đừng, đừng chở nữa. Cuối cùng Cụ kết luận thôi
tốt nhất cứ giữ lấy vàng ở Sài Gòn, bởi vì kể từ khi Đại Sứ Martin bắt
đầu nói chuyện này, cho đến lúc ấy tình hình đã biến đổi, dẫu cho có ký
thác vàng để lấy vũ khí Mỹ, vũ khí không còn đến kịp và cũng chả giúp
ích gì nữa. Ngoài ra họ cũng còn giữ được thể diện khi để lại số vàng ở
trong xứ. Như thế, số vàng đã được để lại.
Đêm
hôm ấy, cũng là đêm tôi dự buổi dạ tiệc quốc tế cuối cùng ở Sài Gòn.
Buổi dạ tiệc được tổ chức tại tư thất Đại Sứ Ba Lan nhân dịp giới thiệu
viên Trưởng ngành chính trị Ba Lan với các ngoại giao đoàn. Mọi người
đều có mặt. Tất cả các Đại Sứ còn ở tại Sài Gòn đều được mời, và ông Ba
Lan mới đến nói ông ta rất mong mỏi gặp tôi. Ông ta bảo rõ rệt chúng tôi
đang ở vị trí lưỡng tương hoán chuyển, ông ta muốn biết quan điểm của
tôi đối với tình hình. Chúng tôi bèn hẹn nhau một buổi ăn trưa vào một
tuần lễ sau ngày hôm ấy. Ngày ấy sẽ là nhằm ngày mùng một tháng năm!
Giữa tất cả những chuyện trông ngóng, tôi đã trông ngóng đến ngày mùng
một tháng Năm ấy để gặp mặt ông bạn đồng nghiệp người Ba Lan của tôi!
Đại Sứ Martin không phải là người thích tiệc tùng, nhưng trong trạng thái bồn chồn của thành phố đêm hôm ấy, ông bảo: “Tôi sẽ đi dự, nhưng đi riêng xe nhé.’’ Vì vậy tôi quay trở lại căn phòng gửi một điện văn. Điện văn này tôi đã viết sẵn, chỉ cần dùng điện đài để đánh mật mã mà phụ tá của tôi và tôi đã giao ước trước. Suốt một ngày làm việc, đấy là tất cả những gì tôi cảm thấy sau khi hoàn tất việc đưa ông Thiệu ra đi.
Đại Sứ Martin không phải là người thích tiệc tùng, nhưng trong trạng thái bồn chồn của thành phố đêm hôm ấy, ông bảo: “Tôi sẽ đi dự, nhưng đi riêng xe nhé.’’ Vì vậy tôi quay trở lại căn phòng gửi một điện văn. Điện văn này tôi đã viết sẵn, chỉ cần dùng điện đài để đánh mật mã mà phụ tá của tôi và tôi đã giao ước trước. Suốt một ngày làm việc, đấy là tất cả những gì tôi cảm thấy sau khi hoàn tất việc đưa ông Thiệu ra đi.
Ngày rời Sài Gòn là ngày tôi buồn rầu cùng cực, chỉ thiếu điều muốn sụm.
Đoạn
kịch cuối mở màn ngày thứ Hai. Chiều thứ Hai là một buổi chiều rất xấu.
Dương Văn Minh nhậm chức đêm hôm ấy. Ông vừa đọc xong bản diễn văn nhậm
chức, thì giông bão khủng khiếp ập đến Sài Gòn. Mưa rơi xối xả. Những
cơn mưa đến sớm, lúc ấy chưa đến mùa mưa. Rồi xảy ra vụ chiếc phi cơ
phản nghịch, tức là chiếc phi cơ Mỹ với bình xăng phụ 50 ga-lông do mấy
phi công dưới sự điều động của Bắc Việt dội bom lên Tân Sơn Nhất. Lúc ấy
chúng tôi còn ở tại văn phòng. Mặc dầu đã khoảng bảy giờ đêm, chúng tôi
vẫn còn ở đấy vì lúc này Sài Gòn ban đêm chẳng có gì khác để làm, thứ
nữa Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn cách nhau mười hai tiếng, lúc ấy buổi sáng ở
Hoa Thịnh Đốn, chúng tôi cố chuyển càng nhiều điện văn càng tốt, để khi
bắt đầu làm việc, Hoa Thịnh Đốn đã có đủ thông báo của chúng tôi.
Khi
nghe tiếng nổ, chúng tôi đâm bổ xuống núp dưới gầm bàn. Bấy giờ, tôi
nhớ tôi đang ở trong phòng viên Trưởng Ban Truyền Tin. Nhân viên truyền
tin là những người lo phụ trách các báo cáo tình báo để gửi đi bằng điện
đài.
Chúng
tôi rất thận trọng việc soạn thảo các điện văn này, luôn luôn sử dụng
Anh ngữ một cách văn vẻ, sửa chữa kỹ càng, dù phải vội vã trong các
trường hợp khẩn cấp, y như các phóng viên nhà báo vậy. Lúc ấy chúng tôi
đang lom khom núp dưới gầm bàn, tôi sẽ không bao giờ quên kỷ niệm này:
Một cô nhân viên truyền tin xinh đẹp hấp dẫn nhổm lên, kéo cái máy chữ
xuống, cô ta bắt đầu đánh: “Sài Gòn gửi Hoa Thịnh Đốn, bản báo cáo tình
hình lúc 19 giờ địa phương. Một vụ pháo kích không xác định được xuất xứ
đang phát nổ trong thành phố. Vụ pháo kích đang tiếp diễn quanh chúng
tôi, vẫn chưa có ai biết chuyện gì xảy ra!’’
Không
bao lâu, chúng tôi xác định được chuyện ấy. Chúng tôi chắc chắn đây là
câu trả lời của quân đội Bắc Việt phản ứng lại bài diễn văn nhậm chức
của ông Minh. Trong bài diễn văn này, ông ta nói ông sẽ tiếp tục chiến
đấu, nói đủ thứ lảm nhảm mà một tháng trước đấy ông ta không hề nói. Tôi
nghĩ cái hình ảnh chính xác để mô tả ông là hình ảnh một người không đủ
tài cán được đặt vào một chức vụ quá khả năng, làm mọi người phải mệt
với sự bất lực của ông ta.
Trong
tuần lễ cuối cùng, Sài Gòn vẫn sinh hoạt tốt đẹp mặc dầu có trận không
kích xảy ra. Điện, điện thoại, thực phẩm vẫn đầy đủ, có lẽ chỉ hơi thiếu
chút rau xà-lách. Tối ấy tôi đi ngủ muộn, bốn giờ rưỡi sáng đã bừng dậy
vì lại có tiếng nổ, lần này nổ lớn dữ dội. Tôi điện thoại cho nhân viên
trực của tôi ở Tòa Đại Sứ, một nhân viên tình báo; ở đấy, ngoài lính
Thủy Quân Lục Chiến, chúng tôi luôn có hai nhân viên trực suốt ngày đêm.
Tôi hỏi anh biết có chuyện gì xảy ra không? Anh ta nói lúc ấy chưa biết
rõ, nhưng có pháo kích vào Tân Sơn Nhất, Thủy Quân Lục Chiến đã trèo
lên nóc nhà nhìn thấy có lửa cháy, anh ta đã liên lạc Văn Phòng Tùy Viên
Quân Sự, họ cũng chưa biết gì đích xác. Nhưng đã có một số thiệt hại
đáng kể, hai lính Thủy Quân Lục Chiến tử thương. Tôi bảo: “Được rồi,
tình trạng nghe có vẻ tệ, nhưng có anh đang ứng trực ở đấy là tốt lắm.’’
Tình cờ, chính nhân viên này cũng là sĩ quan trưởng phòng tài chánh.
Tôi bảo: “Sửa soạn mấy cái phong bì khởi hành.’’ Phong bì khởi hành là
những phong bì có đựng một số chỉ dẫn, số điện thoại của những Tòa Đại
Sứ Mỹ các nơi và tại vùng Đông Á. Mỗi phong bì được bỏ vào số tiền 1500
đô la bằng Mỹ kim và bằng một số ngoại tệ các nước khác. Mỗi người sẽ
được trao tay một phong bì này để phòng vệ an toàn, dự phòng trường hợp
thất lạc. Tôi bèn nói với anh nhân viên trực: Tôi sẽ đến Tòa Đại Sứ
ngay.
Tôi
là người đến sớm nhất. Lúc ấy Thủy Quân Lục Chiến đã nhận thêm báo cáo
từ Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự. Dựa vào đấy tôi cảm thấy Tòa Đại Sứ cần
phải được huy động. Tôi điện thoại cho Đại Sứ, tôi nói: “Rất tiếc phải
gọi Đại Sứ vào giờ này. Ông còn có thể được ngủ đến hơn 3 tiếng đồng hồ
nữa. Nhưng tôi nghĩ Đại Sứ cần phải vào gấp.’’ Ông Đại Sứ bảo ông sẽ
vào. Lúc ấy, chúng tôi có một hệ thống tổ chức: Cứ một người gọi bốn
người, mỗi người lại phải liên lạc gọi bốn người khác v.v… Nên tôi bắt
đầu huy động mọi người qua hệ thống này. Buổi sáng sớm hôm ấy, tình
trạng sức khỏe của Đại Sứ rất bết bát. Ông đau ốm khặc khừ, và sau này,
lúc lên đến chiến hạm, người ta mới khám ra là ông bị viêm phổi. Giọng
ông khản đặc, khào khào không ra tiếng. Tinh thần bị kích động trăm phần
trăm. Khi Kissinger gọi điện thoại, Martin không nói nổi, ông thì thà
thì thào rồi tôi phải nhắc to lên cho Kissinger nghe rõ.
Đại
Sứ đã ra tận Phi Trường Tân Sơn Nhất, bởi vì ông ta là Graham Martin
mà, bạn hiểu không, mặc dù đã có đến mấy ông Tướng Không Quân phụ trách
ngoài phi trường, ông vẫn không chịu tin các lượng giá của họ về việc
phi cơ không còn đáp xuống được nữa. Ông đòi phải đích thân đến phi
trường xem xét rồi mới chịu!
Ngày
hôm ấy khi trời sáng, ngoài Đệ Thất Hạm Đội các phi công đã sẵn sàng,
trực thăng xăng nhớt đầy đủ, mọi người chuẩn bị xong. Nhưng chừng tám
giờ rưỡi, chúng tôi lại được bảo không di tản nữa! Họ bảo chúng tôi sẽ
phải thu hẹp số nhân viên, nhưng vẫn giữ Tòa Đại Sứ ở Sài Gòn. Họ bảo
nhân số Tòa Đại Sứ sẽ còn lại 180 người, trong số ấy 50 người sẽ là nhân
viên tình báo, nhóm nhân viên tình báo này có nhiệm vụ phụ trách toàn
bộ các đường truyền thông của Tòa Đại Sứ. Họ bảo các trưởng ban, trưởng
phòng khác sẽ nhận lệnh sắp xếp: Kinh tế 8 người, chính trị 16 người, y
tế, tài chánh, hành chánh…do nơi Hoa Thịnh Đốn xếp đặt. Người ta đoán
chừng lệnh này do Kissinger chuyển đến ông Đại Sứ. Tôi không bao giờ
nhìn thấy lệnh ấy trên văn tự, nhưng lệnh ấy được chuyển đến tôi sáng
hôm ấy do Đại Sứ nói. Do đó tôi về văn phòng, tập họp các nhân viên cao
cấp của tôi, lúc ấy tôi còn chừng 250 nhân viên tình báo tại chỗ. Tôi
nói: “Quý bạn, chúng ta sẽ rút nhân số xuống 50 người, và sẽ phải đương
đầu với một số lượng truyền thông nhiều hơn thường. Nào, bây giờ tính
thử 50 người nào sẽ ở lại, bắt đầu là tôi!’’ Chuyện này không dễ dàng
như thay lính Thủy Quân Lục Chiến bởi lẽ nhiều khi nhân viên tình báo
không thể hoán chuyển. Mỗi người có những khả năng chuyên biệt. Người là
nhân viên truyền tin. Người là nhân viên điều hành. Người là phân tích
viên.
Tôi
lại cần người với các khả năng ngoại ngữ khác nhau. Tôi cần phải giữ
vài người nói được tiếng Việt. Phải có vài người nói được tiếng Ba Lan,
để giao dịch với nhân viên Ba Lan tại Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình
Chiến. Về tiếng Hung Gia Lợi thì khỏi lo, chẳng ai khác ngoài tôi nói
được thứ tiếng này. Cứ như thế, suốt mấy tiếng đồng hồ loay hoay xếp
đặt. Lại còn phải cân nhắc trường hợp những người đã mãn hạn, có người
sắp được hồi hương vào tháng năm, cho dù anh ta mãi đến tháng Bẩy mới
mãn hạn, cũng không nên giữ anh ta lại. Có người gặp tình trạng gia
đình. Nhiều thứ phải cân nhắc, không để giống như hồi năm 1954 ở Hà Nội,
Tòa Lãnh Sự Mỹ và các nhân viên ở đấy dù không bị giữ làm con tin,
nhưng họ đã tự phong tỏa, tự khóa cửa và phải ở trong khuôn viên hàng
mấy tháng, không liên lạc đuợc với ai.
Cái
khẩu lệnh ấy cũng đã được chuyển ra ngoài hạm đội: Tòa Đại Sứ sẽ ở lại.
Tư Lệnh Hạm Đội, Đề Đốc Noel Gayler, tất nhiên không phải là chuyên
viên phân tích chính trị. Nghe thế, ông ta bèn nói “Vậy à, Tòa Đại Sứ ở
lại. Phi công! Trở về giường mà phè một giấc!” Thế là xăng lại được hút
khỏi trực thăng, vì người ta không được phép chứa trực thăng có xăng ở
trên tàu. Người ta lại phải chuyển trực thăng khỏi sàn máy, đưa xuống
tầng dưới.
Bấy giờ là 9 giờ sáng, hoặc giả trễ hơn một chút. Rồi đến 11 giờ 30, cuối cùng lại có lệnh ban ra: Tất cả mọi người phải di tản.