29 tháng 9, 2018

Những chiến dịch hãm thành đẫm máu nhất trong lịch sử cổ đại

Với mục đích chặn đường tiếp tế khiến đối phương kiệt quệ, những đội quân hãm thành thời cổ đại thường gây ra thương vong rất lớn cho dân thường.

nhung-chien-dich-ham-thanh-dam-mau-nhat-trong-lich-su-co-dai
Quân La Mã hủy diệt Jerusalem sau chiến dịch vây hãm. Ảnh: TopTenz.
Hãm thành là chiến thuật quân sự đã được áp dụng suốt hàng nghìn năm, với mục đích buộc lực lượng bị bao vây mệt mỏi, đói khát tới mức phải đầu hàng. Trong lịch sử cổ đại, chiến thuật vây hãm này được sử dụng rất phổ biến, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho binh lính và người dân trong các tòa thành bị bao vây, theo WATM.
Trận bao vây Jerusalem
Sau cuộc nổi loạn của người Do Thái năm 66, La Mã quyết định dập tắt hoàn toàn cuộc nổi dậy này. Hoàng đế La Mã Titus Flavius triển khai 70.000 lính bao vây thành Jerusalem, nơi có gần 40.000 quân phòng thủ vào năm 70.
Sau khi dùng 4 quân đoàn bao vây thành phố, Titus cố gắng đàm phán với lực lượng thủ thành bằng việc cử sứ giả Do Thái Josephus đến thương thuyết. Tuy nhiên, Josephus bị thương sau khi trúng một mũi tên, khiến cuộc vây hãm tiếp tục diễn ra. Dần dần cư dân trong thành rơi vào cảnh đói khát, buộc phải ăn uống bất kỳ thứ gì có thể tìm thấy. Một số người thậm chí còn ăn thịt đồng loại.
Cuối cùng, quân La Mã sử dụng chiến thuật đột kích bí mật trong đêm khuya, chọc thủng tường thành và bắt đầu tàn sát người dân. Một số tòa nhà bị san phẳng và cướp bóc, trong đó đền thờ Do Thái bị phá hủy theo lệnh của Titus. Gần như toàn bộ người sống sót bị gom lại và bán làm nô lệ, trong khi hơn 1 triệu người khác bị thảm sát trên đường phố.
Chiến dịch hãm thành Baghdad
Năm 1258, đội quân 100.000-150.000 của đế chế Mông Cổ cùng nhiều nước chư hầu dưới quyền Húc Liệt Ngột, cháu của Thành Cát Tư Hãn, bao vây thành phố Baghdad, sau khi chinh phạt hầu hết Iran và miền bắc Iraq.
Ngay sau khi hạ trại, Húc Liệt Ngột ra lệnh công thành, nhưng không có đạn cho máy bắn đá. Việc chở các tảng đá cần thiết để công thành mất tới ba ngày. Trong lúc tìm các khối đá phù hợp để bắn phá tường thành, Húc Liệt Ngột ra lệnh cho cung thủ bắn tên chứa thông điệp khẳng định cư dân trong thành sẽ được đối xử tốt nếu đầu hàng.
Quân Mông Cổ đập phá các tòa nhà ở vùng ngoại ô Baghdad để lấy đá, đồng thời chặt hàng loạt cây cọ để làm đạn công thành. Quốc vương Baghdad nhanh chóng cử sứ thần để hòa đàm, nhưng họ lập tức bị tống giam vì Húc Liệt Ngột muốn đối phương đầu hàng vô điều kiện.
ba-tran-vay-ham-tham-khoc-nhat-trong-lich-su-co-dai-1
Húc Liệt Ngột khi vào ngân khố của thành Baghdad. Ảnh: Wikipedia.
Quân Mông Cổ tập trung tấn công tháp Ajami, san phẳng nó trở thành bình địa rồi tràn vào thành, chiếm được phía đông Baghdad. Húc Liệt Ngột gửi thông điệp cho quân đội Baghdad khuyên họ hạ vũ khí và rời vị trí phòng thủ.
Nhận thấy không thể thắng bằng vũ lực, các cận thần khuyên quốc vương Baghdad bỏ trốn, nhưng một người tên Ibn Alquami đề nghị quốc vương gả con gái cho Húc Liệt Ngột để chấm dứt cuộc vây hãm.
Quốc vương đồng ý và đưa quân đội ra khỏi thành, nghĩ rằng họ sẽ được rút quân về Syria. Tuy nhiên, toàn bộ đội quân này bị lính Mông Cổ giết chết, quốc vương và các con trai cũng bỏ mạng. Quân Mông Cổ tràn vào thành Baghdad, tàn sát không nương tay trong suốt 40 ngày. Ước tính có khoảng 2 triệu người đã thiệt mạng, chưa kể tới rất nhiều người bị bán làm nô lệ, sau cuộc hãm thành thảm khốc này.
Trận vây hãm Kaffa
Đây là trận chiến để lại hậu quả thảm khốc nhất trong lịch sử nhân loại, bệnh dịch hạch ở châu Âu cũng bắt nguồn từ đây.
Genoa và Mông Cổ ký hiệp ước năm 1266, quy định Kaffa là trung tâm thương mại giữa châu Âu và Viễn Đông, với điều kiện người Mông Cổ kiểm soát thành phố và sẽ trả lại sau.
Tới năm 1343, cư dân địa phương theo Cơ đốc giáo và người Hồi giáo ở Tana xảy ra xung đột, khiến họ phải chạy đến Kaffa để trốn. Vua Mông Cổ Jani Beg cho quân đuổi theo người Cơ đốc giáo, phát hiện họ trốn ở Kaffa nên quyết định bao vây thành phố. Năm 1344, quân Genoa phá vây thành công, tiêu diệt 15.000 quân của Jani Beg và phá hủy vũ khí công thành.
Vua Jani Beg tiếp tục vây hãm Kaffa vào năm 1346. Trong lúc bao vây thành phố, một dịch bệnh bí ẩn bùng phát tại các trại quân khiến nhiều lính Mông Cổ tử vong. Thấy vậy, quân Mông Cổ quyết định sử dụng máy bắn đá phóng thi thể người chết vì dịch bệnh vào thành với hy vọng chúng sẽ giết chết mọi người bên trong.
ba-tran-vay-ham-tham-khoc-nhat-trong-lich-su-co-dai-2
Quân Mông Cổ bắn thi thể người nhiễm bệnh vào thành. Ảnh: Wikipedia.
Hàng núi xác chết thối rữa được bắn vào thành, làm ô nhiễm không khí, đầu độc nguồn nước, gây mùi hôi thối nồng nặc khắp thành, dù quân Genoa đã cố gắng vứt nhiều thi thể xuống biển. Những người nhiễm bệnh từ xác chết lại lây sang nhiều người khác, trong khi không ai biết biện pháp phòng ngừa, theo sử gia Gabriel de Mussis.
Kiệt quệ vì dịch bệnh, Kaffa đầu hàng năm 1349. Một số người Genoa trốn lên tàu trở về Italy mà không hề biết rằng mình đã bị nhiễm bệnh dịch hạch.
"Trong số những người thoát khỏi thành Kaffa bằng tàu, nhiều người bị nhiễm mầm bệnh. Một số tàu đến Genoa, số khác đến Venice và khu vực người Cơ đốc giáo, dẫn tới việc lây bệnh cho người dân ở đó", sử gia Mussis viết.
Trận Kaffa năm 1346 có thể là cuộc bao vây đẫm máu nhất trong lịch sử. Hậu quả của nó là bệnh dịch hạch lan ra khắp châu Âu, cướp đi sinh mạng của khoảng 50 triệu người trên tổng số 80 triệu dân sống tại châu lục này thời điểm đó.
Trận bao vây Tenochtitlan
Đây là trận đánh cuối cùng, mang tính chất quyết định giữa người Aztec bản địa và quân đội thực dân Tây Ban Nha ở Mexico.
Năm 1520, hầu tước Hernán Cortés chỉ huy đội quân 200.000 người vây hãm Tenochtitlan, thủ đô của người Aztec, với quyết tâm tiêu diệt dân bản địa để chiếm đất đai và tài nguyên giàu có về cho Tây Ban Nha. Lực lượng phòng thủ Aztec có gần 300.000 người, trong khi Tây Ban Nha có lợi thế công nghệ đáng kể, giúp họ chiếm thế thượng phong.
Thời gian đầu, người Aztec giành được một số thắng lợi nhỏ, nhưng sau đó họ bị nhiễm bệnh đậu mùa, khiến lực lượng phòng thủ suy yếu đáng kể. Nhận thấy việc xâm chiếm qua từng cứ điểm là bất khả thi, Hầu tước Cortés ra lệnh pháo kích thành phố, phá hủy mọi công trình cho đến khi người Aztec đầu hàng.
Cuộc vây hãm kéo dài chỉ gần ba tháng nhưng khiến hơn 200.000 người thiệt mạng, chủ yếu là người dân Tenochtitlan.
Duy Sơn

Những vũ khí gieo kinh hoàng cho các hiệp sĩ thời Trung Cổ

Hiệp sĩ cưỡi ngựa từng được coi là đội quân thống trị chiến trường Trung Cổ, nhưng cuối cùng bị xóa sổ khi các vũ khí mới ra đời.

Hiệp sĩ cưỡi ngựa từng được coi là đội quân thống trị chiến trường Trung Cổ. Ảnh: History.
Hiệp sĩ cưỡi ngựa từng được coi là đội quân thống trị chiến trường Trung Cổ. Ảnh: History.
Thời Trung Cổ, các hiệp sĩ cưỡi chiến mã oai dũng được coi là lực lượng tinh nhuệ nhất trong quân đội của các vương quốc. Các hiệp sĩ này phần lớn có xuất thân từ tầng lớp quý tộc, được huấn luyện rất kỹ lưỡng và trang bị những vũ khí tốt nhất, tạo ra sức mạnh vượt trội so với lính bộ binh.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của nhiều loại vũ khí mới đã giúp bộ binh nâng cao khả năng tác chiến và lấy lại được ưu thế trên chiến trường, dần chấm dứt thời kỳ thống trị của các hiệp sĩ, những người vẫn chỉ trung thành với lối đánh cưỡi ngựa vung gươm, theo War History.
Nỏ
Các tài liệu lịch sử cho thấy nỏ bắt đầu xuất hiện ở châu Âu từ thế kỷ 1, dù nó đã được sử dụng ở Trung Quốc từ năm 600 trước Công nguyên. Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ tiếp theo, nỏ chủ yếu được người châu Âu sử dụng cho mục đích săn bắn, không được coi là một loại vũ khí trên chiến trường.
Các hiệp sĩ châu Âu luôn khinh thường nỏ, vì họ cho rằng chúng là loại vũ khí phi mã thượng, không phù hợp với phong cách chiến đấu quý tộc. Một người bình thường được huấn luyện sơ qua là đã có thể dùng nỏ để hạ một hiệp sĩ mặc giáp ở khoảng cách từ khá xa.
Nhận ra sự lợi hại của nỏ, các đội quân bộ binh châu Âu bắt đầu sử dụng rộng rãi loại vũ khí này, tiêu biểu là trong trận vây hãm Senlis của quân Pháp năm 947. Từ thế kỷ 11 trở đi, lính dùng nỏ trở thành lực lượng có địa vị cao trong các đội quân châu Âu, ngoại trừ ở Anh.
Tranh vẽ trận đánh Crécy giữa quân Anh và Italy trong thế kỷ 15. Ảnh: War History.
Tranh vẽ trận đánh Crécy giữa quân Anh và Pháp trong thế kỷ 14. Ảnh: War History.
Vua John Lackland của Anh vào năm 1215 ra sắc lệnh cấm quân đội sử dụng nỏ vì tính "bất công" của nó trong chiến đấu. Giáo hoàng Innocent II (1130-1143) cũng ra lệnh cấm dùng nỏ. Tuy nhiên, những lệnh cấm này không thể ngăn được sự phát triển và phổ biến của nỏ trên chiến trường suốt nhiều thế kỷ sau, cho đến khi súng hỏa mai và đại bác ra đời.
Trường cung của Anh
Trường cung là dòng cung cổ của người Anh. Thân cung được làm từ gỗ tùng, gỗ tro, hồng bì, dâu..., dây cung được làm bằng cây gai dầu, lanh, hoặc lụa và gắn vừa vặn vào hai đầu của cánh cung, ban đầu được các thợ săn sử dụng rộng rãi.
Khi được đưa vào chiến trường, trường cung trở thành vũ khí lợi hại của người Anh để chống lại các hiệp sĩ cưỡi ngựa. Lực bắn rất mạnh của nó kết hợp với đầu mũi tên nhọn bằng sắt có thể xuyên thủng áo giáp của các hiệp sĩ từ khoảng cách xa, khiến họ gục ngã trước khi tiếp cận được đối phương.
Trường cung kiểu Anh thời Trung Cổ. Ảnh: War History.
Trường cung kiểu Anh thời Trung Cổ. Ảnh: War History.
Trường cung là một vũ khí quan trọng trong trận Crécy năm 1346 giữa quân Anh do vua Edward III chỉ huy và quân Pháp của vua Philip VI. Trong trận chiến đó, các xạ thủ Anh dùng trường cung đã "vùi dập" các tay nỏ Pháp, bởi nỏ có tầm bắn ngắn hơn rất nhiều so với trường cung.
Điểm hạn chế của trường cung là đòi hỏi xạ thủ phải mất rất nhiều thời gian để thuần thục vũ khí. Ngoài ra, lực kéo của trường cung khá lớn, lên tới 72,5 kg, nên đòi hỏi cung thủ phải có sức khỏe rất tốt.
Trường thương
Sức mạnh của các hiệp sĩ nằm ở khả năng cơ động của họ, khi đội hình hiệp sĩ mặc giáp sắt, cưỡi ngựa có thể nhanh chóng xông thẳng vào bộ binh đối phương, chia cắt quân địch và gây ra thương vong lớn. Nhưng từ khi trường thương ra đời, các hiệp sĩ không còn có thể áp dụng chiến thuật này thành công như trước.
Trường thương được thiết kế giống như một cây giáo dài với mũi nhọn bằng sắt ở đầu trước, được dùng để đâm thẳng vào ngựa hoặc kỵ sĩ cưỡi ngựa đang lao tới. Người ta bắt đầu nhận ra một lính bộ binh cầm thương dù không mặc giáp trụ vẫn có thể đánh bại một hiệp sĩ cưỡi ngựa vũ trang đến tận răng.
Chiến thuật sử dụng thương nổi tiếng nhất là đội hình bộ binh Phalanx của người Macedonia dưới sự dẫn dắt của Alexander Đại đế (356-323BC). Những cây thương chĩa ra từ mọi phía trong đội hình này khiến kỵ binh không thể tiếp cận từ mọi hướng, giúp bộ binh chiếm lợi thế lớn hơn so với các hiệp sĩ. 
Người Scotland cũng áp dụng đội hình bộ binh dùng thương tương tự, nhưng theo hình bầu dục có tên gọi "schiltron" trong Chiến tranh độc lập Scotland (1296–1328) chống lại người Anh.
Quân Scotland áp dụng chiến thuật khi không có lực lượng bảo vệ bên sườn hoặc phía sau. Khi đó, các hiệp sĩ Anh tấn công từ bất cứ hướng nào cũng phải đối mặt với những cây thương tua tủa, không thể tìm ra điểm yếu để tiến công vào đội hình.
Đội hình thương chống kỵ binh cuối thế kỷ 14. Ảnh: War History.
Đội hình thương chống kỵ binh cuối thế kỷ 14. Ảnh: War History.
Năm 1302, tại trận Courtrai, người Flemish với trang bị trường thương và một loại chùy lớn gọi là "goedendag" đã đánh bại quân đội Pháp đang chiếm giữ vùng Flanders của Bỉ, diệt hơn 1.000 hiệp sĩ đối phương.
Bộ binh Thụy Sĩ sau này kế thừa đội hình Phalanx của người Macedonia và phát triển thành chiến thuật hoàn hảo có tên "Đội hình thương thủ hình vuông", gồm 100 người xếp thành hình vuông, chĩa mũi thương ra ngoài. Đội hình này không có điểm yếu vì bốn mặt đều có thể tác chiến như nhau và hỗ trợ lẫn nhau.
Quân đội Thụy Sĩ đã áp dụng chiến thuật này để đánh bại lực lượng hiệp sĩ cưỡi ngựa của quận công Charles xứ Burundy trong trận Nancy năm 1477.
Thuốc súng
Thuốc súng được phát minh ở Trung Quốc từ thứ thế kỷ 9, sau đó được áp dụng rộng rãi vào lĩnh vực quân sự ở châu Âu và trở thành thứ vũ khí gây thương vong lớn nhất cho các hiệp sĩ cưỡi ngựa.
Các hiệp sĩ dù được vũ trang đến đâu, mặc áo giáp cỡ nào cũng đều có thể bị hạ gục bởi những vũ khí sử dụng thuốc súng thô sơ nhất. Những cuộc tấn công liều lĩnh của các hiệp sĩ xông thẳng tới đội hình bộ binh địch dùng súng ngắn hay súng hỏa mai đều kết thúc trong thảm kịch. Tiếng nổ, chớp lửa và khói tạo ra từ những khẩu súng này còn khiến các chiến mã hoảng sợ và có thể hất ngã hiệp sĩ.
Từ thế kỷ 16, khi đại bác, súng hỏa mai phát triển cực thịnh, vai trò của bộ binh cận chiến mất đi tác dụng và lính đánh thương chỉ còn nhiệm vụ bảo vệ lính bắn súng khỏi kỵ binh đối phương.
Những pháo đài từng được coi là "bất khả xâm phạm" trước các cuộc vây hãm cũng có thể sụp đổ trước sức mạnh của đại bác, khiến chúng không còn là biểu tượng cho quyền lực tối cao của các lãnh chúa thời Trung Cổ.
Minh Anh

16 tháng 9, 2018

Con "Quốc quốc"

Con "Quốc quốc" vốn là chim Cuốc. Tiếng "quốc quốc" do cách tá âm "cuốc cuốc" mà ra. 

Trong bài "Qua đèo Ngang" của bà huyện Thanh Quan, có câu:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

 
Chim Cuốc còn có tên là Đỗ Quyên, Tử Quy hay Đỗ Vũ. Giống chim này, đầu mỏ hơi cong, miệng to đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng có một đường đen thẳng ngang. Nó thường lủi trong bụi rậm dưới ao sâu hoặc hồ rộng. Cuối xuân sang hè thì bắt đầu kêu. Giọng thê thảm khiến khách lữ hành động lòng nhớ nhà, nhớ quê hương.
Chim này không tự làm tổ lấy, đẻ trứng vào ổ chim Oanh. Chim Oanh ấp, nuôi cho đến lớn.

Sự tích chim Cuốc có nhiều thuyết.
Có điển cho rằng vua nước Thục là Đỗ Vũ thông dâm với vợ một bề tôi là Biết Linh, Biết Linh dấy loạn. Vua Thục thất bại, mất ngôi, chạy trốn vào rừng. Đoạn này sách "Thành đô ký" lại nói: Vua Thục thông dâm với vợ Biết Linh. Biết Linh biết chuyện, bày kế cho vợ nói khích Đỗ Vũ nhường ngôi cho Biết Linh rồi cùng vợ Biết Linh bỏ nước đi, để sống cho trọn tình chung. Đỗ Vũ nghe theo, giao nước cho Biết Linh nhưng vợ Biết Linh bây giờ bỏ Đỗ Vũ, trở lại sống cùng chồng.
Buồn khổ, nhớ nước, sau thác, Thục đế hóa thành chim Đỗ Quyên, ngày đêm kêu mãi không thôi.
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du đoạn tả về khúc đàn của Kiều gảy cho Kim Trọng nghe lúc tái hợp, có câu:
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ Quyên.

Lại cũng có điển chép: Thục đế An Dương Vương của nước ta (207 trước D.L.?), vì con gái là Mỵ Châu bị lừa, trao nỏ thần cho chồng là Trọng Thủy nên phải thua trận và nhảy xuống biển tự tử. Vì nhớ nước nên hóa thành chim Cuốc, ngày đêm kêu lên những tiếng não ruột.
Thuyết sau này e không đúng. Vì tiếng "Đỗ Quyên", "Đỗ Vũ" nguồn gốc vốn ở Trung Hoa.
Thật không có tiếng gì kêu bi thảm, não ruột cho bằng tiếng chim Cuốc. Những buổi trưa hè nắng chang chang hay những đêm hè tịch mịch, tiếng chim Cuốc trong những bụi rậm hay trong bụi niễng dưới đầm vọng lên làm lòng người cảm thấy bi ai một cách lạ lùng. Nó gợi lên được sự nhớ nhung một thời oanh liệt xa xôi nào; có khi nó thúc giục và làm bừng dậy cái tinh thần ái quốc nồng nàn đương tiềm tàng trong lòng người dân thời nước mất nhà tan.
Thi ca cổ điển Việt Nam dùng rất nhiều điển về chim Cuốc.
Trần Danh An, một di thần nhà Lê (1428-1788), nghe tiếng Cuốc kêu cũng cảm xúc, nhớ lại một triều đại hưng thịnh, một công nghiệp dựng nước của Thái Tổ, tài đức Thái Tông... Hôm nay, Chiêu Thống hèn nhát, họ Trịnh chuyên quyền, lòng ái quốc thiết tha sống động trong tâm hồn thi sĩ; nhưng thi sĩ cảm thấy mình bất lực trước thời cuộc nên đành gói ghém tâm sự di thần của mình trong mấy vần thơ:

    Giá cô tại giang Nam
    Đỗ Quyên tại giang Bắc
    Giá cô minh gia gia
    Đổ Quyên minh quốc quốc.
    Vi cầm do hữu quốc gia thanh,
    Cô thần đối thử tình vô cực.


    Nghĩa:
    Chim giá cô ở bờ sông Nam,
    Chim Đỗ Quyên ở bờ sông Bắc,
    Giá cô kêu gia gia,
    Đỗ Quyên kêu quốc quốc
    Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
    Cô thần đối cảnh tình man mác.


Bà huyện Thanh Quan khi qua đèo Ngang đã mượn tiếng Cuốc kêu để diễn tả tâm trạng thầm kín của mình đối với công nghiệp của triều Lê đã mất:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Nhưng tiếng Cuốc ở đây lại càng lâm ly, não nùng hơn nữa.
Đứng trước thành Cổ Loa, xưa kia nơi đây là cung miếu của vua Thục, nhà thơ Chu Mạnh Trinh bất giác sinh lòng hoài cổ. Cung miếu đó, xưa kia tráng lệ huy hoàng bao nhiêu thì ngày nay điêu tàn quạnh quẽ bấy nhiêu. Trong cảnh vắng vẻ lạnh lùng này, dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng cuốc khắc khoải năm canh vọng lên buồn bã.
... Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt,
Trăng mờ khắc khoải Cuốc kêu thâu
(Bản dịch của Tiền Đàm)
Nguyên văn:

... Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu,
Đỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm.

Tiếng Cuốc của quan Án Chu Mạnh Trinh tuy có não nuột thật nhưng chưa sâu xa thấm thía và bi đát bằng tiếng Cuốc kêu của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến. Tiếng Cuốc của Cụ Nguyễn là tất cả tiếng nói của lòng một người dân tha thiết yêu nước bị mất nước. Tiếng Cuốc đó còn nói lên một mối đau buồn uất hận của tác giả vì nỗi bất lực trước cảnh đen tối của thời cuộc. Và, đó cũng là tiếng nói của lương tâm thôi thúc tác giả xông pha vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc:
Khắc khoải sâu đưa giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đừng gọi?
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Mượn tiếng Cuốc kêu để diễn tả tâm sự của một người dân vong quốc vẫn là một thông lệ trong văn chương Việt Nam.
"Thục đế", "Đỗ Quyên", "Quốc quốc" đều do điển tích trên.

ĐỌC TẬP SƯU KHÀO VIỆT NAM VÀ HOA KỲ TRONG CHIẾN TRANH LẠNH CUẢ SOẠN GIẢ QUÂN ĐỘI ĐẠI TÁ HÀ MAI VIỆT


Tôn Nữ Hoàng Hoa
Tôi nhận được tập Sưu Khảo Việt Nam và Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Lạnh của Soạn Giả Quân Đội Đại Tá Hà Mai Việt do tác giả gởi tặng.
Như đã được tác giả tâm sự từ hai năm trước là ông sẽ dành tất cả thì giờ cho cuộc đời còn lại để tìm hiểu về cội nguồn cuộc chiến Việt Nam mà cá nhân ông cùng rất nhiều đồng đội đã tận tụy góp tay thực hiện trong khi không thấu hiểu được bản chất và nguyên uỷ của cuộc chiến .
Đồng thời soạn giả cũng hy vọng là tập sưu khảo này để lại cho thế hệ ngày sau hiểu được rằng vì sao có cuộc chiến Việt Nam. Cũng trong ý nghĩ đó soạn giả còn mang trong lòng lời nói của thân phu là nên làm một việc gì để lại cho đời sau như thân phụ của soạn giả là nhà giáo Hà Mai Anh tác giả cuốn sách Tâm Hồn Cao Thượng mà đến nay vẫn còn được đời sau dùng làm nhân sinh quan cho cuộc sống
Tôi có ý định muốn viết lời giới thiệu tập sưu khảo này đến độc giả nhưng ngại với kiến thức thô thiển của mình có thể khó mà gói trọn hết nội dung tập sưu khảo . Vì lẽ đó bài viết này chỉ là một tấm lòng gởi đến qúi vị độc giả và nhất là với tâm huyết của Đại tá Hà Mai Việt.
Cuốn sách nói về cuộc chiến tranh Việt Nam. Viết về cuộc chiến không phải chỉ đơn thuần trên những dữ kiện, mà ở đó còn có máu thịt của con dân Việt Nam đã thấm vào lòng đất, có nước mắt của những mãnh đời tang chế từ thế hệ này đến thế kia.. Có kỳ niệm của những người thân, bạn bè. Nói cho cùng ở đó còn có cuộc đời mình và cuộc đời dân tộc
Cái thấu đạt của cuộc chiến và những biến chuyễn đi từ khởi đến chấm dứt nhanh như một chớp mắt nhưng,con người sống hôm nay không thể nào không quên những cảnh máu rơi thịt đổ và những người chết từ thế hệ này sang đến thế hệ khác đã cúi đầu ra đi không hề trở lại từ hàng thế kỷ.
Những sự sống, nước mắt và những dòng lệ bi thương mất mác vẫn tiếp diễn như âm thanh của tiếng kèn đồng lê thê bên những cổ quan tài vẫn còn hiện hữu.
Dân tộc Việt Nam tự hỏi: Tại sao trên một mảnh đất hiền lành với sức sống tận tuỵ can đãm của người dân chỉ mơ ước một cuộc sống bình thường nhưng không bao giờ đạt được.. Trên nỗi niềm bất định , xin mời qúi vị tìm câu trả lời cho mình qua cuốn sưu khảo VIET NAM VÀ HOA KỲ TRONG CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH
Trang bìa cuốn sách với màu đen tang tóc, nỗi bật lên hai lá cờ Mỹ và VNCH. Ngay giữa lá cờ là hai chiến binh Mỹ và VNCH kế vai sát cánh bên nhau.
Sách dày 410 trang bao gồm những tài liệu nghiên cứu của soạn giả
Trong lới mở đầu soạn giả thắc mắc : cả những người Mỹ và người Việt còn có ai quan tâm đến cuộc chiến Việt Nam? Nhưng với soạn giả và những ai đã một lần mặc quân phục VNCH thì không thể nào quên được cuộc chiến Việt Nam.
Cũng cần nhắc lại soạn giả Quân Đội Đại Tá Hà Mai Việt đến nay đã  85 tuổi
Tôi cũng đồng ý và khâm phục soạn giả về việc này. Là con dân VNCH từ lúc hồi sinh sau khi bị Pháp đô hộ cho đến lúc bị Mỹ bức tử, ai ai cũng mang trong đời một định mệnh nghiệt ngã câm nín của cả hai lớp người ra đi và kẽ ở lại.
Cái câm nín nghiệt ngã đó là do cuộc chiến gây ra và nạn nhân của cuộc chiến đó đành vứt bỏ mọi tương giao để tự mình làm tù nhân cho mình, cho dù là kẽ lưu vong hay là những người bị kẹt lại
Cuốn sách dày 410 trang bao gồm lời nói đầu và lời cảm tạ. Sách có 7 chương , ngoài ra còn có phần phụ lục và phấn Tóm lược Việt Nam và Hoa Kỳ trong cuộc Chiến Tranh Lạnh
Trong phần phụ lục Việt Nam và Hoa Kỳ Trong Chiến Tranh Lạnh (VNVHKTCTL) soạn giả nói về những ngày cuối cùng của VNCH. Trong phần tóm lược của cuốn soạn khảo soạn giả đã đề cập đến những vị Tổng Thống Mỹ có liên quan đến cuộc chiến VN từ  năm 1945 đến năm 1975
Với TT Truman 1945-1953 Soạn giả cho rằng ông TT này nghĩ là Cộng Sản Đông Dương có thể chế ngự Đông Nam Á. Vì thế, ngày 3-8-1950 Hoa Kỳ đã thảo luận với Pháp về việc cung cấp chiến cụ và tài khoản yễm trợ Pháp chống Cộng ở Đông Dương
Với TT Eishenhower 1953-1961. Với TT này thì không thích can thiệp vào chiến tranh Việt Nam mà chỉ muốn viện trợ cho VNCH chống Cộng
Với TT Kennedy 1961-1963  TT này thì lại khác đã không những tham chiến mà lại còn đổ quân sang Nam VN và cho đến năm 1963 Hoa Kỳ nâng tổng số cố vấn tại Nam VN lên đến 12,000 người
Với TT Johnson,1963-1969 : ông này thì lại muốn thương thuyết vô điếu kiện với CS Bắc Việt vì ông ta muốn chấm dứt chiến tranh VN nhưng CS Bắc Việt không đồng ý. Tuy nhiên, lại là người đun nóng cuộc chiến Việt Nam lên cao độ để cuối cùng đành phải rút lui không ra tranh cử nữa.
Với TT Nixon 1969-1974 . Trong nhiệm kỳ của TT Nixon, ông muốn kết thúc Cuộc Chiến VN trong danh dự nên đã dàn dựng Hoà Đảm 1973. Theo soạn giả hoà đàm này chỉ là một cuộc thương thuyết giữa Mỹ và Việt Cộng.
Với TT Ford 1974-1975. Theo soạn giả, VNCH mất cơ hội thương thuyết tại Hoà Đàm Ba Lê vì TT Thiệu cho rằng "Sách Lược 4 Không" của ông là thượng sách. Nhưng sau đó thì sách lược 4 không không work và trong thời gian này thì bọn phản chiến ở Mỹ và Đảng Dân chủ khuynh loát Quốc Hội Hoa Kỳ buột phải bỏ rới VNCH
Trong khi đó TT Thiệu không đưa ra được một sách lược nào khả thi, do đó cuối cùng TT Thiệu từ chức giao quyền lại cho Phó TT Trần văn Hương rồi bỏ chạy trước cả triệu quân và 30 triệu con dân VNCH. TT Ford di tản các giới chức Hoa Kỳ ra khỏi VN an toàn
Xin mời qúi vị cùng tôi rão bước vào tập sưu khảo VIỆT NAM VÀ HOA KỲ TRONG CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH
CHƯƠNG I : CỘI NGUỒN CHIẾN TRANH
Đi vào chương Một của phần sưu khảo soạn giả cho rằng chiến tranh lạnh là do hai khối Tư Do và Tư Bản
Nguyên nhân bắt đầu là sự khác biệt ý kiến giuã hai vị lãnh tụ của hai khối tự do và cộng sản trên vấn đề sách lược sau Thế Chiến thứ hai của Nga và Hoa Kỳ. Khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh là cuộc chiến giữa khối Tây Âu và Cộng sản Nga qua vấn đề trong hoàn cảnh Văn hoá, chính trị, ngoại giao, kinh tế khó khăn và đường lối đấu tranh khác biệt.
Trong Chương I, cũng còn nói thêm là hai siêu cường quốc Nga Mỹ chỉ có khả năng quân sự đủ để triệt hạ nhau nhưng không có khả năng đối đầu
Cuối thập niên 1940 Đồng Minh đã có 3 hội nghị quan trọng đó là Tehran, Yalta và Potsdam với 3 ông lãnh tụ: Roosevelt Hoa kỳ. Churchill Thủ Tướng Anh và Stalin Chủ tịch Nga Sô
Hội nghị Tehran tại Cairo Egypt khai mạc năm 1943 quyết định hợp tác để chiến thắng Hitler ở Châu Âu
Hội nghị Yalta  hoạch định kế hoạch hậu chiến tại Âu Châu tự do tổng tuyển cử  để tiến tới thành lập Liên Hiệp Quốc và Hội Đồng Bảo An
Hội nghị Potsdam là hội nghị cuối cùng của Đồng Minh khai diễn vào giữa tháng 7 đến 2/8/1945 tại Đức
Thế chiến Hai đã được kết thúc vào năm 1945 nhưng đến năm 1949 cuộc chiến tranh lạnh đang đi vào con đường quyết liệt bởi Nga chia cách Bá Linh bằng một bức tường kiên cố dựng lên vào năm 1948 và đầu năm 1949 để chia nước Đức ra làm hai: Tây Đức Cộng Hoà và Đông Đức Cộng sản
Một biến cố của năm 1949 là sự xuất hiện của Mao Trach Đông . Mao gia nhập Liên Minh Chiến Lược cùng với Liên Bang Sô Viết đã làm Hoa Kỳ bị đe doạ trầm trọng vì phải trực diện với các quốc gia Cộng sản và Lực Lượng Cách Mạng Chủ Nghĩa  Dân Tộc cực đoan tại Đông Nam Á.
Trên nỗ lực đẩy lui mối đe doạ bởi Nga và các nước Cộng sản. Hoa Kỳ đã liên quan đến chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam, mở đầu cuộc chiến đối với Nga Sô và Trung Cộng.
Theo Soạn Giả “chính Trung Cộng đã làm thay đổi cán cân quyền lực giữa hai siêu cường quốc Nga Sô và Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh lạnh"
Việc Mao gia nhập Liên Minh Chiến Lược cùng Liên bang Sô Viết và chính điễm này Trung Cộng đã làm cán cân quyền lực giữa hai nước Nga và Mỹ. Trong khi đó, Hoa Kỳ cũng ra một CHÍNH SÁCH NGĂN CHẬN (Trang 5 )Trong đó nói đến việc Hoa Kỳ bỏ ra hằng tỷ mỹ kim để tái thiết Tây Âu theo kế hoạch Marshall. Trong phần ngăn chận này soạn giả đã đế cập đến Chiến Tranh Cao Ly (trang7)
CHƯƠNG 2: nói đến TT Hoa Kỳ Harry S. Truman
Theo soạn giả TT Truman được ngẫu nhiên thay thế TT Roosevelt vì bạo bịnh qua đời. TT Truman là người quyết định thả bom nguyên tử Nhật Bản`. Sau quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima Nhật Bản vẫn không nhúc nhích và ba hôm sau ngày 9/8 một quả bom nguyên tử thứ hai đã được thả xuống Nagasaki ba ngày sau Nhật Hoàng Hirishito mới xin đầu hàng (trang 10)
Trong CHƯƠNG 2, ngoài phần thả bom nguyên tử nước Nhật, soạn giả còn đế cập đến việc Pháp trở lại Việt Nam 1945-1954 (trang 10) rồi Pháp chiếm Nam Việt từ 12-10-1945 đến 5-2-1946
Theo soạn giả từ thế kỷ 18 , Pháp cai trị Đông Dương gồm Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao nhưng sau Đại Chiến thứ hai bùng nổ tại Âu Châu, Đức chế ngự Pháp từ năm 1940. Đồng thời Nhật lấn chiếm Đông Nam Á và chính quyền Pháp bị Nhật hất cẳng ra khỏi Đông Nam Á. Nhưng sau hai quả bom Nguyên Tử Nhật đầu hàng vô điều kiện. Nhưng Hoa Kỳ vẫn giữ ý định ngăn chận làn sóng đỏ tràn qua Đông Nam Á (trang 11)
Trong Chương 2 soạn giả đề cập đến việc Pháp Xâm Nhập Miền Bắc (trang 13) Cũng trong năm 1945 soạn giả nói đến việc Hồ Chí Minh kêu gọi các đảng phái Quốc Gia hợp quần gây sức mạnh, yêu cầu Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị , sau đó Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Độc lập
Sau khi Nhật thất bại , Pháp trở lại Đông Dương nhưng Mỹ không giúp Pháp lấy lại các thuộc địa của Pháp mà Hoa kỳ chỉ yễm trợ cho Pháp với mục đích cân bằng lực lượng sau khi Trung Cộng liên minh với Nga (trang 16)
Cũng trong chương 2 này, từ trang 17 đến trang 38, tác giả đề cập đến QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VN từ trang 17 đến trang 24. Giai đọan hình thành 1950-1952 cùng giai đoạn phát triển 1952-1954 từ trang 24 đến trang 34
Trong phần QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM 1946-1950
Trong chương này soạn giả có nhắc đến những vị tướng lãnh như Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm (1946), Tôn Thất Đính (1948) đã được huấn luyện thành Sĩ Quan Vệ Binh (trang 17) . Riêng ba ông Nguyễn văn Thiệu , Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn tất cả đều ở trong Quân Đội Pháp. Mãi đến 1950 các trường Võ Bị tại địa phuơng của 3 miền Nam, Trung, Bắc đã được thành lập để đào tạo cán bộ cho các đơn vị Bộ Binh
Ngoài ra, soạn giả còn đề cập đến chiến tranh Cao Ly để thấy rõ ràng Cộng Sản Quốc Tế đang bành trướng chiến lược Domino và Việt Nam là cửa ngõ cho chiến lược này.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, Nga và Mỹ đồng ý chia cắt Đại Hàn làm hai. Bắc Cao Ly (Bắc Hàn do Nga yễm trợ, Nam Cao (Nam Hàn) do Mỹ đở đâu. Tháng 11 năm 1947 Liên Hiệp Quốc đứng ra tổ chức bầu cử để Cao Ly thống nhất nhưng Cộng sản Bắc Cao không cho tự do bầu cử trong khi Nam Cao vẫn tiến hành cuộc tự do bầu cử và chính thể Cộng Hoà Hàn Quốc ra đời vào ngày 15-8-1948. Riêng tại Bắc Cao đến tháng 9 năm 1948 Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên mới ra đời( Trang 38-39)
Năm 1950 , 90,000 quân Triều tiên do Nga sô yễm trợ vũ khí vượt vĩ tuyến 38 tràn vào chiếm thành phố SOUL và toàn vùng Nam Cao mở đầu cho một cuộc chiến tranh nóng trong Chiến Tranh Lạnh giữa Nga và Hoa Kỳ (trang 38)
Trong phần Giai Đoạn Hình Thành về Quân Đội Quốc Gia, (trang 25)
Dưới thời Pháp thuộc Quốc Gia Việt Nam chưa có Quân Đội đúng với danh xưng mà chỉ có các tổ chức đãm trách việc an ninh hay tự vệ như Vệ binh Nam Kỳ, Phụ lực quân Giáo phái mãi đến lúc Pháp trả độc lập cho Việt Nam thì lúc đó Quân Đội Việt Nam chống Cộng mới ra đời
Trong Phần Giai Đoạn Phát Triễn (1953-1954). Sau khi Điện Biên Phủ thất thủ vào ngày 7 tháng 5 năm 1954. Tính đến năm 1953 Quân Đội Quốc Gia có 198,200 người gồm 151,200 chính qui và 47,000 phụ lục quân
Đến tháng 7-1955 tất cả mọi đơn vị của Quân Đội Quốc Gia được đặt dưới quyền chỉ huy và kiễm soát của người Việt Nam
Hơn 10 năm sau nhóm sĩ quan thời Pháp đã kể trên đã kết hợp lại và đảo chánh chính quyền Ngô Đình Diệm dưới sự tán thành của TT Kennedy và sự tiếp tay ủng hộ của Đại sứ Cabot Lodge
Theo soạn giả sau cuộc đảo chánh , các tướng lãnh cách mạng đó vội vã nhảy ra nắm chính quyền giữ những chức vụ lãnh đạo và chỉ huy then chốt của thời Đệ Nhị VNCH. Nhưng các vị ấy thuộc về tầng lớp của các sĩ quan Pháp hay Liên Hiệp Pháp nên trình độ văn hoá còn kém, lại thiếu khả năng lãnh đạo và chưa có kinh nghiệm chỉ huy
CHƯƠNG III TỔNG THỐNG DWIGHT D. EISENHOWER
Trên thực tế sau 3 năm chiến tranh với Cao Ly Hoa Kỳ đã tổn thất 50.000 quân và vĩ tuyến 38 vẫn là ranh giới giữa hai miền Nam Bắc Đại Hàn. Vì thế TT Eisenhower đã phòng ngưa chiến tranh có thể xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nga sô và Trung Cộng nên ông cho phát triễn Xa Lộ Liên Bang Hoa Kỳ.
Ngoài ra còn có việc sau khi Stalin mất vào năm 1953 TT Eisenhower có cơ hội thảo luận với lãnh tụ Sô Viết Nikita Khrushched về việc chấm dứt thi đua vũ khí nguyên tử, giảm bớt vũ khí nguyên tử.
Năm 1954 TT Eisenhower viện trợ Quốc Gia Việt Nam nhưng không muốn gửi quân đội Hoa Kỳ sang Việt Nam (trang 45). Ngày 29-4-1954 trong một buổi họp Hội Đồng An NInh Quốc Gia Hoa Kỳ, TT Eisenhower qui định là sẽ không can thiệp vào Việt Nam. Trong khi đó Bộ Trưởng ngoại giao Hoa Kỳ ông ông John Foster Dulles đang có mặt tại Geneve đã điện đàm với TT Eisenhower hầu cứu vãn Đông Nam Á thoat khỏi ách Cộng sản nhưng TT Eisenhower vẫn không can thiệp
Trong phần HỘI NGHỊ GENEVE Soạn giả đề cập đến việc TT Eisenhoawer không can thiệp vào chiến tranh VN  vì sự ảnh hưởng của chiến tranh Cao Ly nên Hoa Kỳ chỉ muốn yễm trợ cho Pháp nhằm chiến thắng Việt Minh tại Đông Dương
Điện Biên Phủ thất thủ. Pháp đầu hàng 8-5-1954, Việt Minh và Pháp bắt đầu Hội Nghị Geneve, Kết quả chấm dứt cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh. Chia VN ra làm hai từ vĩ tuyến 17. Miền Bắc thuộc Cộng Sản Cai Trị và miền Nam thuộc Chính Quyền Quốc Gia
Trong Phần THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM, soạn giả cho rằng vào giữa Hè 1954, thi hành hiệp định Geneve Quốc trưởng bảo Đại đã chỉ định ông Ngô Đình Diệm giữ chức vụ Thủ Tướng miền Nam Việt Nam để thành lập chính phủ Dân sự trong một hoàn cách hết sức khó khăn và phức tạp (trang (53)
Sau phần Thủ Tướng Ngô Đình Diệm soạn giả nói đến vấn đề Di cư và Định Cư cùng những khó khăn như Bình Xuyên và Hoà Hảo( trang 57) và TRƯNG CẦU DÂN Ý  1955
Khoảng một tuần sau ngày 26-10-1955 Phái Bộ Cố Vấn Hoa Kỳ tại Việt Nam được thành lập với danh xưng Military Assistance Advisory,Group, Vietnam (MAAG, Vietnam)
CHƯƠNG 4: TỔNG THỐNG JOHN F. KENNEDY 1961-1963
Trong phần này soạn giả cho rằng TT Kenedy vì không muốn mất Việt Nam nên đã thoả thuận với Liên sô trung lập Lào.. Trong khi giữa thập niên 1950 TT Eisenhower cho rằng Lào là mục tiêu tối quan trọng , nếu để mất Lào thì khó bình định Việt Nam được
Năm 1962 TT Kennedy để Thuỷ Quân Lục Chiến đổ bộ vào Thái lan để giúp Thái Lan ngăn chận Cộng quân từ phương đông tràn sang
Vào thời điễm này Việt Nam chưa được vững vàng và kế hoạch ngăn chận Cộng sản tại Đông Nam Á cũng chưa được xác định. Chính vì lẽ đó mà người ta cho rằng : Đây là khởi điễm sự thất bại của Hoa Kỳ trong kế hoạch ngăn chận Cộng sản tại Việt Nam trong ba thập niên sau thế chiến (trang 69)
Trong phần LẬP TRƯỜNG CUẢ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM  Soạn giả cho biết ngày 9-5-1961 khi phó TT Mỹ Lyndon Johnson đến VN thăm TT Ngô Đình Diệm ông đề nghị với TT Diệm là Hoa Kỳ sẽ gởi quân tác chiến Hoa Kỳ qua VN thì đã bị TT Diệm từ chối
Tháng 11-1961 Đại sứ Federick Nolting được lệnh Toà Bach Ốc gặp TT Diệm lần thứ hai để bàn về việc đưa quân tác chiến Mỹ qua VN nhưng cũng bị TT Diệm từ chối. TT Diệm đã trả lời rằng: Nếu qúi vị đem quân tác chiến vào VN, tôi phải giãi thích thế nào với đồng bào tôi một khi mà hình ảnh hãi hùng của Quân Đội Viễn Chinh Pháp còn ghi sâu trong tâm trí họ. Sự hiện diện của Quân Đội Mỹ sẽ làm dân chúng tin vào những lời tuyên truyền  của Cộng sản nên sự can thiệp của bất cứ Quân Đội ngoại quốc nào ở Việt Nam cũng sẽ làm bất lợi cho cuộc chiến đấu của chúng tôi vì mất "chính nghĩa" (trang 70)
Một điễm đáng chú ý là sáng mồng một Têt năm Qúi Mão (1963)  các Đại sứ của của thành viên Ngoại giao đoàn tại Sai gòn đến Dinh TT VNCH chúc Tết Tổng Thống, có thấy một cành đào thật lớn có đính danh thiếp ghi hàng chữ : Chủ Tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Hồ Chí Minh tặng Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô Đình Diệm"..  Cành đào này đã được gởi qua trung gian Uỷ Hội Quốc Tế Kiễm Soát Đình Chiến do Đại uý Lê Châu Lộc tuỳ viên quân sự của TT Ngô Đình Diệm nhận đem về.
Mùa Hè năm 1963 , ông Nhu liên lạc với Hà nội qua trung gian Maneli , đại diện Ba Lan , đảng viên Cộng sản trong Uỷ Hội Quốc Tế Kiễm Soát Đình chiến Maneli xác nhận là đã hai lần họp với ông Nhu: lần đầu là ngày 25-8-1963 và lần thứ nhì gặp bí mật tại Dinh Gia Long vào ngày 2-9-1963 nhưng tất cả hai lần theo Maneli kết luận rằng : cả hai miền muốn đạt thoả thuận riêng của họ có nghĩa là không muốn Moscou, Washington và Bắc Kinh
Trong một buổi họp với 15 Tướng lãnh ông Nhu cho rằng: Ông đang thương thuyết với Hà nội và ông không sợ Mỹ cắt viện trợ. Còn ông TT Kennedy cho rằng việc ông Nhu tìm cách hiệp ước với Hà nội là phản bội Hoa Kỳ
Ngày 25-8-1963 Tướng Nguyễn Khách đã mách lại với một viên chức rằng ông Ngô Đình Nhu đang tìm cách liên lạc với Hà nội với lời quan ngại là các tướng sẽ chống lại giãi pháp này với Richardson (trưởng phòng CIA tại Sai gòn)
Richardson lập tức báo cáo về Washington.. Tổng Thống Kennedy và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ việc ông Nhu tìm cách hiệp ước với Hà Nội có nghĩa là ông Diệm đã phản bội Hoa Kỳ ( Trang 72)
TT Kennedy cho rằng việc vì tính cách hiệp ước với Hà Nội là phản bội với Hoa Kỳ nên TT Kennedy đã quyết định "Ông Diệm phải ra đi". Chính vì sự ngờ vực về đường lối lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, nhóm CIA tại Sai Gòn đã yễm trợ cho một nhóm tướng lãnh bất đồng ý kiến với TT Diệm đứng lên đảo chánh nên đã đi đến vụ hạ sát TT Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu vào buổi sáng ngày 2-11-1963
Một chi tiết khac là trong khi thãm cách đang diễn ra , nhóm Đảo Chánh đang tụ tập tại văn phòng của Đại tướng Lê Văn Tỵ với sự có mặt của của cựu trung tá Lucien Conein,. Nhóm đảo chánh hớn hở về những dự tính sẽ được thực hiện thì điện báo cho biết TT Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã tự tử chết . Riêng ông Lucien Conein khi nghe tin thì mặt mày tái nhợt, đứng dậy chửi mắng thậm tệ vì ông ta không tin là TT Diệm là người Công giáo gốc thuận thành lại có thể tự sát được. Trước khi bỏ đi Lucien tuyên bố : các người phải chịu trach nhiệm và lãnh mọi hậu quả về cái chết của ông Diệm (trang 92)
Khi thi hài của TT Diệm và ông Nhu chở vào toà chánh của Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Xuân chạy vội lên thang lầu, hối hả bước vào văn phòng Tướng Minh báo cáo : Mission accompli nghĩa là nhiệm vụ đã hoàn tất. Trong khi đó thiếu tá Nghĩa từ trên thiết vận xa M-113 nhảy xuống đất , tay cầm khẩu Thompson giơ cao lên trời có buộc một băng vải trắng , có thể đã biểu hiệu cho một công trạng. Qua ngày hôm sau Nghĩa hối hận đã cạo đầu như một nhà tu . Còn đại uý Nhung tay cầm con dao đang đẫm máu , hớn hở vung lên trời như đã tạo một chiến công hiễn hách.
Cũng trong phần nay soạn giả nói đến NHỮNG THÀNH QUẢ CUẢ CHÍNH PHỦ NGÔ ĐÌNH DIỆM
1. Đã định cư được 1 triệu đồng bào di cư từ Bắc vào Nam
2. Chỉ mới 6 năm lập quốc mà VNCH đã bang giao với trên 83 quốc gia trong thế giới tự do.
3. Tổng thồng rất quan tâm đến chương trình Cải cách Điền Địa cũng như vấn đề Giáo dục và y tế, thiết lập Khu Trù Mật trong sách lược quân sư hầu cô lập Việt Cộng và an dân theo đường lối nhân vị ( trang 73)

CHƯƠNG V: TỔNG THỐNG LYDON B. JOHNSON 1963-1969
Trong phần Hoa Kỳ Tham Chiến
Trong chương này soạn giả cũng cho biết sau 9 năm cầm quyền của TT Diệm, Trung Tướng Dương Văn Minh tự Big Minh cầm đầu nhóm tướng tá đảo chánh với sự tán thành của ông Cabot Lodge, tân đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam
Vào buổi sáng 2-11-1963 Dương Văn Minh ra lệnh cho "đại uý cận vệ" hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu. Sau đó đúng 3 tuần sau TT Kennedy cũng bị ám sát tại Thành phố Dallas Texas vào ngày 22-11-1963
Phó TT Lyndon B. Johnson thay thế TT Kennedy. TT Johnson không muốn để mất Nam Việt Nam. Theo TT Johnson  mục đích của Hoa Kỳ tại nam VN là giúp cho dân và chính quyền quốc gia này chống lại " Nước ngoài điều hướng và Cộng sản âm mưu hổ trợ" nên tạm ngưng việc rút Cố vấn quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam về nước.
TIẾP ĐẾN BIẾN CỐ VỊNH BẮC VIỆT  1964
Vào ngày đầu tháng 8, TT Johnson công bố cho dân chúng Hoa Kỳ biết rằng. Ngày 2-8-1964 trong nhiệm vụ trinh sát tại hải phận quốc tế vịnh Bắc Việt khu trục hạm Maddox đã bị 3 phóng ngư lôi Bắc Việt  tấn kích. Hai hôm sau ngày 4-8-1964 quân Bắc Việt lại tấn công chiến hạm Turner Joy và Maddox. TT Johnson xin Quốc Hội cho phép phản ứng nhằm bảo vệ Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam. Kết quả Nghị Quyết Bắc Việt ra đời vào ngày 7 tháng 8 năm 1964. Nghị quyết cho phép TT Johnson toàn quyền đối phó với mọi khủng hoảng xảy ra trong chiến tranh Việt Nam mà không cần tham khảo ý kiến của Quốc Hội
Từ đó chiến tranh leo thang. TT Johnson vẫn tiếp tục gởi quân sang Nam Việt Nam cho đền HỘI NGHỊ HONOLULU 1966. QUA CHIẾN SỰ khe Sanh 1967
Năm 1968 BIẾN CỐ TẾT MẬU THÂN 1968
Khi Clark Clifford trở thành tân Tổng Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ , đầu tiên ông nghiên cứu về tình hình Nam Việt Nam và sau đó ông kết luận rằng:" tại Hoa Thịnh Đốn tôi không hề thấy một khái niệm nào hay một kế hoạch tổng quát nào có thể đạt được chiến thắng tại Việt Nam" và từ năm 1968 phong trào phản chiến chống chiến tranh VN lên cao độ
vào ngày 31 tháng 3 năm 1968 ông Johnson tuyên bố:" không ra tranh cử để giữ thêm một nhiệm kỳ nữa"
CHƯƠNG VI: TỔNG THỐNG RICHARD M. NIXON 1969-1973 : VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH
Khi TT Johnson tuyên bố không tranh cử thêm một nhiệm kỳ nữa tức là đã có vấn đề ? Sau khi TT Nixon lên ngôi ông cho rút quân từng đợt ra khỏi Việt Nam. Theo sách lược chiến tranh hoá VN của TT Nixon có nghĩa là sẽ giúp cho VN đầy đủ quân khí quân cụ cũng như trang bị vũ khí hiện đại để VNCH có khả năng tự vệ sau khi Mỹ rút lui đi tới con đường hoà đàm Paris
Sau khi Hoà Đàm Paris kết thúc ngày 23-tháng 1năm 1973 TT Nixon tuyên bố là đêm nay Henry Kissinger và Lê Đức Thọ trưởng phái đoàn đàm phán Bắc Việt ký khán bản thoả thuận ở Paris để chấm dứt chiến tranh và đem lại Hoà Bình trong danh dự tại Việt Nam và Đông Nam Á
Ngày 9-8-1973 sau vụ water Gate TT Nixon phải từ nhiệm. Mười một ngày sau đó 20-8-1973 Hoa Kỳ cúp viện trợ VNCH.
Sau khi Hoà đàm Paris ký kết, CS Bắc Việt vẫn đem quân vào đánh phá Nam VN trong lúc Mỹ đã phủi tay trong danh dự.
CHƯƠNG VII:: TỔNG THỐNG GERALD R. FORD 1974-1975
CHẤM DỨT CHIẾN TRANH VÀ DI TẢN
Có thể nói nhiệm kỳ của Tổng Thống này là những ngày tháng phủi tay của một đại cường quốc đối với một nhược tiểu như đất nước VN. Nhưng trong phần tổng quát soạn giả đã cho thấy là sau khi bị Mỹ phủi tay qua danh hiệu CHIẾN TRANH HOÁ VIỆT NAM thì trên nguyên tắc VNCH được tái trang bị theo bảng cấp số mới cho phù hợp với tình hình khi bị địch gây áp lực chứ không thể ngồi đó mà chờ "khẩu lệnh" của ông Thiệu để "phối trí hay tử thủ". Vì thế trong quân ngũ phê phán Tướng Thiệu là làm đến TT mà không biết hay có biết mà không làm. Do đó, ông Thiệu đã không dùng đến BỘ THAM MƯU QUÂN LỰC. Đây là một tổ chức đầu não có thẫm quyền với đầy đủ thẫm quyền với chuyên viên và phương tiện của các Quân Binh Chủng Hải, Lục, Không quân để theo dõi và yễm trợ các cuộc hành quân trên khắp 4 vùng chiến thuật. Có phải ông Thiệu thường dựa vào “Tướng Số để giữ vững niếm tin của mình" hay một câu hỏi khác là có phải ông Thiệu đã có kinh nghiệm phản loàn nên sợ rằng một ngày nào đó mình cũng sẽ bị nhóm tướng tá Tổng Tham Mưu đảo chánh và giết mình chết như đã giết TT Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu .. Vì sợ hãi như thế nên ông Thiệu cương quyết nắm giữ ngai vàng của mình mà KHÔNG ĐỂ CHO TỔNG THAM MƯU ĐIỀU KHIỂN TRỌNG TRÁCH VÀ NẮM THỰC QUYỀN?
Cũng trong chương này, SỰ TAN RÃ CUẢ VÙNG HAI CHIẾN THUẬT, MẶT TRÂN BAN MÊ THUỘT, CHIÊN DỊCH TÂY NGUYÊN CUẢ CỘNG SẢN BẮC VIỆT, TRIỆT THOÁI TRÊN LIÊN TỈNH LỘ 7B, VÙNG I CHIẾN THUẬT BIẾN LOẠN, THIẾT GIAP BINH VÙNG 3 CHIẾN THUẬT VÀ
TRANG SỬ CUỐI CÙNG CUẢ VIỆT NAM CỘNG HOÀ
Soạn già viết: Cuối tháng 4 ngày 25-4-1975 , tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tự ý từ nhiệm. chẳng cần xuất hiện trước Quốc Hội và cũng chẳng cần nhận lỗi với ai, chỉ hứa cuội là sẽ trở lại Quân Đội để chiến đấu. Sau đó ông cùng Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đào thoát khỏi Sài Gòn bằng phương tiện của Hoa Kỳ khiến các Tướng Tá ở lại càng thêm tuyệt vọng. Nhất là sau khi họ nhận được tin Đại Tướng Cao Văn Viên đã bay sang Thái Lan vào buổi trưa ngày 28-4-1975. Từ Tổng Thống đến Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng mạnh ai nấy chạy. Họ không cần áp dụng luật pháp nữa . Ông Thiệu bỏ chạy thì bàn giao cho ông Trần văn Hương , thật là giản dị như vậy
Sách có rất nhiều chi tiết , dữ liệu ly kỳ nhưng trong giới hạn của trang giấy mà tôi biết chắc chắn đã quá dài với kiến thức hạn hẹp tôi chỉ viết ra những gì mà tôi thấy là quan trọng trong khi tâm huyết và sự sưu khảo của soạn giả và công lao như biển trời. Qúi vị nên đọc để tìm hiểu hơn.
Còn riêng tôi qua cuốn sách VIỆT NAM VÀ HOA KỲ TRONG CHIẾN TRANH LẠNH CUẢ SOẠN GIẢ QUÂN ĐỘI ĐẠI TÁ HÀ MAI VIỆT là một cuốn sách đã được sưu khảo trên 100 cuốn sử liệu có giá trị từ từng giai doạn của từng nhiệm kỳ của các TT Hoa Kỳ.
Từ 1945-1955: Pháp trở lại Việt Nam và thất trận Điện Biên Phủ
Từ 1955 đến 1965; Hoa Kỳ Cố Vấn và Yễm trợ VNCH chống Cộng
từ 1965 đến 1969: Hoa Kỳ tham chiến ngăn chận Cộng Quân Cộng Sản bắc Việt lan tràn
Từ 1969 đến 1973: Bắc kỳ hoà đàm CS Bắc Việt và lui binh
Từ 1973-đến 1975 VIệt Nam Cộng Hoà bị bức tử
Thời gian từ 1969-1973 trên thực tế Hoa Kỳ đã dành thắng lợi trên kỹ thuật Hoả Tiễn và đầu đạn nguyên tử giữa năm 1968 sau khi Cộng Quân Bắc Việt thất bại thê thảm trong cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu thân 1968. Từ đó Cuộc Chiến tranh như kết thúc. Mục đích của Hoa Kỳ hoàn tất không cần trực diện trên các chiến trường Việt Nam nên điều đình với Bắc Việt một cuộc hoà đàm . Trong thời gian đó CS Bắc Việt có lợi điễm nên Mỹ đã "đầu hàng " VC trên tất cả điều kiện ngay cả vấn đề đạo đức để bức tử một đất nước vửa mới hồi sinh
Về phần chúng ta đã gặp phải một số Tương Tá vô liêm sĩ khi nhận tiền của Mỹ từ vẽ khinh bỉ của Trung Tá Lucien Coein và cho hay là " các người phải chiu trách nhiệm và lãnh hậu quả về  cái chết của ông Diệm và ông Nhu"
Sau khi nhận tiền bên hai xác lạnh của những người yêu nước thương dân. Sau khi nhóm Tướng phản loàn đã nhận tiền  tra cong khi giết TT Diệm và ông Nhu thì ông Dương văn Minh đã lấy ra 8 triệu ngày 3-11-1963 và ra lệnh cho Công Binh đến sửa nhà, sửa cửa làm cống xây dàn hoa Lan.
Dân tộc VN bất hạnh ở chỗ không có người tài đức làm lãnh tụ. Nếu có thì cũng vì sự ham muốn danh lợi từ những kẽ ao ước đời sống vương giả trong khi nửa cuộc đời đang làm lính vệ binh tôi đòi của bon Pháp đô hộ.
Một câu hỏi được đặt ra là: Chúng ta trách ai khi Mỹ đã đi vào con đường Việt Nam Hoá Chiến tranh VN.? Nếu chúng ta có một nhóm lãnh tụ tài, đức cộng với sự tinh nhuệ chiến đấu của quân nhân Quân Lực VNCH thì chắc gì chúng ta đã thua.
Không tại ai mà chỉ tại mình khi Mỹ đã cố tình vứt bỏ thì tại sao các tướng Thiệu lại không cùng Bộ Tổng Tham Mưu cùng các tướng lãnh liều chết tử thành?
Lại nữa dân tộc Việt sinh ra trên một mãnh đất mở đầu cửa ngõ tham vọng của các cường Quốc trên thế giới. Một dân tộc từ khi mới được hồi sinh như một đứa trẻ chịu bao nhiêu đắng cay của cuộc đời đến khi chập chững lên 9 đã bị giết hại vì tinh thần quốc gia không muốn làm nô lệ cho ngoại bang
Bất hạnh thay nhung kẽ sát nhân đó cũng là con dân Việt nhưng lại thuộc gìong máu thích làm nô lệ cho ngoại bang để được hưởng bát vàng trong khi cả một dân tộc phải chết dần chết mòn trên những tham vọng của các đại cường quốc
Bọn Việt Gian thời nào cũng có. Bọn bán nước cầu vinh thời nào cũng có như hiện tại cái dân tộc bất hạnh đó đang trên con đường đi vào khiếp nô lệ triền miên.
Nói cho cùng, con dân Việt Nam đang lưu lạc trên thế giới`đều nghe tiếng nói chì thầm của tâm thức. Đã hằng triệu triệu tiếng nói vọng lên vỗ về, an ủi trên trạm nghĩ của dương gian. Những âm thanh ấy  sẽ làm thêm dấu ấn thương đau lịch sử của dân tộc Việt Nam
Chỉ khi chơi vơi trong cuộc sống con người mới thương tiếc niềm nương tựa. Và chính trong ý thức đoạn tuyệt những biến cố xảy ra trong dĩ vãng người dân VN mới bắt trở lại được mạch sống đã rồi của một tương giao nghiệt ngã không thể cắt lìa trong sử sách
Cuốn sưu khảo về nỗi đau thương của dân tộc Việt Nam từ 1945-1975 còn có rất nhiều dữ kiện buồn, chán, hận, thương đau và bi thống
Qúi vị nào muốn có sách VIỆT NAM VÀ HOA KỲ TRONG CHIẾN TRANH LẠNH  xin liên lạc với tác giả  HÀ MAI VIỆT tại số
phone 281-242-7954

Đọc và viết
Tôn Nữ  Hoàng Hoa
15-9-2018

3 tháng 9, 2018

Thảm họa suýt đoạt mạng John McCain trên tàu sân bay Mỹ năm 1967

Thượng nghị sĩ John McCain từng suýt thiệt mạng trong vụ cháy tàu sân bay USS Forrestal, một trong những sự cố nghiêm trọng nhất lịch sử hải quân Mỹ.

Ngày 29/7/1967, một sự cố cháy nổ lớn xảy ra trên tàu sân bay USS Forrestal của hải quân Mỹ khiến 134 người chết và 161 thủy thủ bị thương. Trong số những người suýt thiệt mạng trong thảm họa này có thiếu tá hải quân John McCain, người sau này trở thành thượng nghị sĩ, ứng viên tổng thống của Mỹ, theo Popular Mechanics.
Trước khi sự cố xảy ra, tổng cộng có 27 máy bay các loại được nạp đầy nhiên liệu và vũ khí được triển khai trên boong tàu sân bay Forrestal. 12 cường kích A-4E Skyhawk, 7 tiêm kích F-4B Phantom II và hai máy bay ném bom RA-5C Vigilante đậu kín phần đuôi tàu vào thời điểm đó.
Chiếc F-4B số hiệu 153061 của thiếu tá James E. Bangert đậu ở mạn phải đuôi tàu, được trang bị nhiều ống phóng LAU-10, mỗi ống chứa 4 quả rocket Mk-32 "Zuni" cỡ 127 mm. Các rocket được lắp chốt an toàn để tránh sự cố phóng ngoài ý muốn, những chốt này chỉ được tháo trước khi máy bay cất cánh.
Lúc 10h51, hiện tượng quá áp xuất hiện trên chiếc F-4B Phantom này khi phi công chuyển từ nguồn điện ngoài sang máy phát trong máy bay, khiến một quả Zuni trên cánh trái bị khai hỏa. Cuộc điều tra sau sự cố kết luận quả đạn này không có chốt an toàn, nhưng không xác định được nguyên nhân. Quả rocket Zuni bay 30 m qua sàn đáp, làm gãy tay một thủy thủ và bắn vỡ thùng dầu phụ 1.500 lít trên chiếc A-4E chuẩn bị cất cánh.
Ngọn lửa nuốt chửng chiếc A-4E sau khi trúng rocket Zuni. Ảnh: US Navy.
Ngọn lửa nuốt chửng chiếc A-4E sau khi trúng rocket Zuni. Ảnh: US Navy.
Báo cáo chính thức của hải quân Mỹ nhận định chiếc Skyhawk trúng đạn là máy bay số hiệu 405 của thiếu tá hải quân Fred D. White. Tuy nhiên, thượng nghị sĩ John McCain sau này khẳng định quả Zuni đã bắn trúng chiếc A-4E của ông, khi đó đang đậu cạnh máy bay của White.
Cơ cấu bảo hiểm trong ngòi nổ của rocket Zuni ngăn nó phát nổ. Quả đạn vỡ vụn sau khi bắn trúng thùng dầu phụ của cường kích A-4E, khiến nhiên liệu JP-5 dễ cháy từ thùng dầu phụ tràn khắp sàn đáp bên dưới máy bay của White và McCain. Nó nhanh chóng bị bắt lửa từ các mảnh vụn cháy dở của rocket, tạo ra đám cháy lớn ở đuôi tàu Forrestal. Một mảnh kim loại cũng văng trúng thùng dầu dưới bụng cường kích A-4 số hiệu 310 đậu gần đó.
Ngọn lửa càng bùng lên nghiêm trọng hơn bởi gió lớn trên biển, cũng như luồng khí xả từ ít nhất ba phi cơ đậu phía trước. Lệnh báo động toàn tàu được phát ra lúc 10h53.
"Phần đuôi tàu biến thành hỏa ngục trong chớp mắt, khi từng thùng dầu phụ phát nổ trong đám cháy khủng khiếp. Nhiều phi công tìm cách nhảy khỏi máy bay và ngã xuống biển lửa. Thủy thủ lao tới giúp họ cũng bị ngọn lửa nuốt chửng và biến mất. Những người kẹt giữa đám cháy và viền boong tàu đều phải nhảy xuống biển. Nhiều mảnh thi thể cháy xém cũng văng khắp nơi", McCain viết trong cuốn sách phát hành năm 1999.
Tuy nhiên, điều tồi tệ nhất vẫn chưa xảy ra. Nằm trên boong tàu và bị làn khói mù mịt che khuất là hai quả bom bị tuột khỏi cánh một chiếc Skyhawk, mỗi quả chứa hơn 200 kg thuốc nổ mạnh.
Hai nhóm cứu hỏa chủ lực, dày dạn kinh nghiệm nhất trên tàu được triển khai để dập lửa. "Tôi theo dõi họ từ trên tháp chỉ huy, họ đều gặp vấn đề với thiết bị chữa cháy. Ngọn lửa đã cắt đứt nguồn nước phía đuôi tàu, trong khi các máy bơm ở giữa tàu lại trục trặc. Nhóm cứu hỏa phải kéo vòi từ các trụ nước ở phía đầu tàu", một sĩ quan trên tàu Forrestal nhớ lại.
Nhiều giây trôi qua mà ngọn lửa không được khống chế, khiến hai quả bom ngày càng nóng. Khi lính cứu hỏa kéo được vòi phun tới vị trí đám cháy, mọi thứ đã trở nên quá muộn. Hai tiếng nổ lớn vang lên cùng với quầng lửa khổng lồ, khiến con tàu có lượng giãn nước 78.000 tấn rung lắc dữ dội.
Khoảnh khắc một quả bom phát nổ trong đám cháy tàu Forrestal. Ảnh: US Navy.
Khoảnh khắc một quả bom phát nổ trong đám cháy tàu Forrestal. Ảnh: US Navy.
Lúc đám cháy bùng lên, McCain đang ở trên buồng lái chiếc cường kích A-4E đậu ngay cạnh đó. Ông may mắn kịp thời thoát khỏi buồng lái và chạy đến chỗ an toàn trước khi thảm họa tồi tệ nhất xảy ra.
"Trong lúc trèo ra máy bay và chạy khỏi đám cháy, tôi nhìn thấy nhiều thủy thủ mang vòi cứu hỏa và bình xịt tới dập lửa. Vài tích tắc sau, quả bom đầu tiên phát nổ và những người lính đó đều tử nạn", McCain nhớ lại khoảnh khắc mình suýt mất mạng trong vụ nổ.
Toàn bộ lực lượng cứu hỏa chuyên nghiệp của tàu USS Forrestal thiệt mạng ngay sau tiếng nổ đầu tiên, nơi họ đứng trước đó chỉ còn là một hố lớn trên boong tàu. Hai quả bom bị kích nổ bởi nhiệt lượng quá lớn, xé rách sàn đáp bằng thép dày hơn 5 cm và tạo lỗ thủng thẳng xuống khoang tàu. Lượng lớn nhiên liệu JP-5 đang cháy đã chảy theo đường này vào sâu trong thân, khiến nhiều người bị mắc kẹt và thiệt mạng. Trong tàu có nhiều lối thoát hiểm, nhưng các thủy thủ đều không biết đến chúng hoặc quên hoàn toàn trong cơn hoảng loạn.
Phải tới 10h59, 8 phút sau khi quả rocket Zuni vô tình khai hỏa, mệnh lệnh ZEBRA huy động toàn bộ thủy thủ đoàn làm nhiệm vụ cứu tàu mới được ban bố. Các cửa ngăn bằng thép trong khoang tàu khi đó mới bắt đầu đóng lại, trong khi đây đáng lẽ là hành động phải được áp dụng ngay từ đầu.
Cuộc chiến với ngọn lửa vẫn tiếp diễn trên khu vực sàn đáp. Việc lực lượng cứu hỏa chuyên nghiệp bị xóa sổ khiến các thủy thủ thiếu kinh nghiệm phải tham gia dập đám cháy. Họ mắc phải hàng loạt sai lầm khiến sự cố ngày càng nghiêm trọng.
Trong vòng nhiều phút, các nỗ lực cứu hỏa diễn ra mà không có sự điều phối, khiến ngọn lửa tiếp tục lan ra những quả bom và tên lửa đang nằm la liệt trên boong tàu. Tổng cộng 9 vụ nổ lớn đã xảy ra, tạo ra hàng loạt lỗ lớn và cho phép nhiên liệu JP-5 tiếp tục tràn xuống bên dưới.
Hai nhóm thủy thủ chữa cháy được thành lập vội vàng và làm việc song song, nhưng lại vô tình vô hiệu hóa công việc của đội còn lại. Nhóm đầu tiên phun bọt protein, loại hóa chất chuyên dùng để dập đám cháy xăng dầu, trong khi đội thứ hai lại phun nước và rửa trôi toàn bộ số bọt này. Ngọn lửa tiếp tục hoành hành dữ dội, gây nguy cơ cháy lan tới khoang chứa đạn dược và kích nổ toàn bộ USS Forrestal.
Tuy nhiên, kho đạn được bơm đầy nước kịp thời, ngăn khả năng này xảy ra. Các tàu khác trong nhóm tác chiến cũng nhanh chóng tới hỗ trợ Forrestal, nhưng không thể làm gì ngoài việc tìm kiếm người sống sót trên biển. Chỉ có một số thủy thủ được vớt lên, trong khi phần lớn đều mất tích và không bao giờ được tìm thấy.
Cột khói của đám cháy USS Forrestal nhìn từ tàu sân bay USS Oriskany. Ảnh: US Navy.
Cột khói của đám cháy USS Forrestal nhìn từ tàu sân bay USS Oriskany. Ảnh: US Navy.
Các vấn đề trong công tác cứu hỏa được phát hiện và khắc phục ngay sau đó. Tàu di chuyển ngược gió để ngọn lửa không lan ra phía trước, tốc độ được giảm từ 50 xuống còn 27 km/h để tránh làm đám cháy bùng phát mạnh hơn. Sau 10 tiếng, các thủy thủ bắt đầu kiểm soát được ngọn lửa lớn nhất, nhưng nhiều đám cháy nhỏ vẫn xuất hiện trong thân tàu suốt nhiều ngày.
"Tôi mất hết khái niệm về thời gian, nhưng tôi biết rằng mình vẫn đang dập lửa khi tàu cập cảng Subic ở Philippines", thượng sĩ Gerard G. Johnson, cựu thủy thủ trên tàu Forrestal, cho biết.
Sự cố ngày 29/7/1967 gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng với hải quân Mỹ, với 134 sĩ quan, thủy thủ thiệt mạng, 161 người bị thương, 63 trong tổng số 81 máy bay trên tàu bị phá hủy hoặc hư hại nặng chỉ trong vài phút. Tàu Forrestal cũng hỏng nặng với ước tính thiệt hại khoảng 72 triệu USD, tương đương 543 triệu USD ngày nay và phải nằm cảng sửa chữa trong 8 tháng.
Bản thân thiếu tá McCain cũng bị thương vì trúng mảnh văng vào chân và ngực. Sau sự cố, ông tình nguyện sang phục vụ trên tàu sân bay USS Oriskany cho tới khi bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội ngày 26/10/1967.
Vũ Anh