From: LeChanNhan <nhuanxle@gmail.com>
Sent: Monday, October 29, 2018, 5:38:06 PM EDT
Subject: Năm 1960 đối với Đệ Nhất VNCH
NĂM
1960
ĐỐI
VỚI ĐỆ-NHẤT CỘNG-HOÀ
Nhìn lại chế-độ
Đệ-Nhất Cộng-Hoà cuả cố Tổng-Thống
Ngô Đình Diệm, ta thấy
có sự khác-biệt rõ-ràng giữa hai thời-kỳ, trước và sau năm
1960.
Đúng ra thì có
thể có sự thay-đổi mặt này mặt nọ trước năm
ấy hoặc sau năm ấy, nhưng nói chung thì năm 1960
là năm đánh dấu rõ nét nhất sự thoái-trào, xuống dốc quá mức cuả chế-độ
Diệm.
Sau đây là một vài (trong nhiều) dấu chỉ
liên-quan.
*
KẾ HOẠCH 5 NĂM
Chính-phủ Liên-Bang
Hoa-Kỳ
giao cho Bang
Michigan
đảm-trách hầu hết mọi việc
trong mối hợp-tác
Mỹ-Việt
(chính-trị, quân-sự, kinh-tế, văn-hoá,
xã-hội...), thể-hiện qua các lãnh-vực của ngành ngoại-viện
(tổ-chức, huấn-luyện,
xây-dựng, tái-thiết, trang-bị, tài-trợ...), cụ-thể là để thành-lập
một bộ máy
hành-chánh lành-mạnh và hữu-hiệu
và một
quân-lực
thống-nhất và hùng-mạnh, mục-đích là nhằm ngăn-chận đà tiến
của cộng-sản từ phương Bắc cũng như thành-lập và phát-triển
một nước Cộng-Hoà gương-mẫu tại Miền Nam Việt-Nam.
Cơ-quan đại-diện cuả
Bang Michigan mang tên là Phái-Bộ
MSU
(Michigan State University).
MSU
yểm-trợ cho “Kế-Hoạch 5 Năm” đầu tiên cuả chính-phủ
Ngô Đình Diệm.
Năm
1960 là năm đúc-kết kết-quả 5 năm đầu tiên, để rút-tỉa
ưu-khuyết-điểm dọn đường cho “Kế-Hoạch 5 Năm” tiếp
theo.
Chính-sách cuả chính-phủ
Hoa-Kỳ
đối với chính-phủ
Ngô Đình
Diệm tốt xấu thế nào phần lớn là tuỳ vào kết-quả cuả
“Kế-Hoạch 5 Năm” đầu tiên, tức là vào năm
1960.
TÌNH-TÌNH VIỆT-NAM
*Gần
đến thời-điểm 1960:
=Về phía cộng-sản:
Ban Chấp-Hành Trung-Ương Đảng
Lao-Động Việt-Nam
(Cộng-Sản) mở đại-hội
lần thứ 15, họp
từ tháng 1, đến ngày 13/5/1959
thì ra Nghị-Quyết
số 15 thống-nhất
đất nước (xâm-lăng Miền Nam) bằng vũ-lực.
Tức
là từ 1954 đến nay cộng-sản chưa thật-sự
“đánh” Miền
Nam, nên Miền Nam mới có được một thời-kỳ tạm yên. Tổng-Thống
Diệm đã biết rõ điều đó nên mới ban-hành
Luật
10/59, chứ nếu không thì tại sao chống Cộng mà không ban-hành luật
ấy từ khi mới lên cầm quyền (từ 1954-55) mà phải đợi cho đến năm
1959?
Báo
“Nhân Dân” của CSBV tố-cáo Diệm giết hơn 1,000
“đồng-bào
yêu nước” ở trại giam Phú Lợi (Bình Dương).
Võ
Nguyên Giáp yêu-cầu
Uỷ-Hội Quốc-Tế điều-tra vụ này. “Mặt Trận Tổ Quốc”
phát-động phong-trào đấu-tranh, và Hà Nội tổ-chức biểu-tình,
phản-đối vụ
tàn-sát ở Phú Lợi.
Quốc-Hội Bắc Việt thông qua Hiến Pháp mới.
Bắc
Việt phản-đối với Ủy-Hội Quốc-Tế về cuộc bầu-cử Quốc-Hội
của VNCH vào ngày 30/8/1959.
Phạm
Văn Đồng vận-động
Anh và Liên Xô yêu-cầu
Mỹ chấm dứt can-thiệp vào
Việt Nam.
Hoa-Cộng
gay-gắt đả-kích chủ-nghĩa đế-quốc xâm-lược
(Hoa Kỳ).
CSVN
gây được sự chú ý của thế-giới qua các đề-tài
“nóng bỏng”
kể trên.
Hồ
Chí Minh qua Mạc
Tư Khoa dự Đại
Hội thứ 21 của Đảng Cộng-Sản Liên-Xô
rồi về
Hà Nội
họp
Đảng
học-tập về Đại Hội ấy; lại qua Bắc Kinh
“làm việc”
với cộng-sản Trung Hoa.
Cộng-Sản
quốc-tế bắt đầu phối-hợp chặt-chẽ hơn trong mưu-đồ thôn
tính Miền Nam.
=Về phía Hoa-Kỳ:
Bộ Ngoại-Giao Mỹ xác-nhận là cộng-sản bắt
đầu sử-dụng
bạo-lực, ám-sát công-chức, tấn-công đồn-điền, đánh phá chương-trình
cải-cách điền-địa hay tài-trợ nông-dân....
Phó Phụ-Tá
Graham
Parsons, đặc-trách Viễn Đông của Ngoại-Trưởng
Mỹ, qua gặp Phó Tổng-Thống
Nguyễn Ngọc Thơ,
Bộ-Trưởng Nguyễn
Đình Thuần và
Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm.
Đại-Sứ Mỹ Elbridge
Durbrow
yêu-cầu Parsons
mang theo một cây
gậy khi vào gặp Diệm.
Chính-phủ
Mỹ không chịu gia-tăng quân-viện vì Diệm
không chịu cải-thiện bang-giao với
Cao Miên.
Nhà báo
Albert Colgrove viết một loạt bài về Việt
Nam, nhất là về Đảng
Cần Lao, khiến
Thượng-Nghị-Viện chất-vấn Bộ Ngoại-Giao, Đại-Sứ Durbrow
phải bàn thảo với Cố-Vấn Ngô
Đình Nhu, và tướng
Creighton Williams,
Tư-Lệnh MAAG, phải về điều-trần trước Quốc-Hội.
Lãnh-Sự Mỹ
Theodore
Heavner tại
Huế (Miền Trung) điều-tra các hoạt-động kinh tài của Đảng
Cần Lao tại Huế,
Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Ngãi; phản ảnh những lời giải-thích
của ông Nhu,
tiếp-xúc với ông Cẩn.
Đại-Sứ
Durbrow
nghiên-cứu vai trò của quân-đội
Việt-Nam, tìm một khuôn mặt quân-sự
có thể thay Diệm; tạm-thời ủng-hộ Nguyễn
Ngọc Thơ.
Bang-giao
Mỹ-Việt căng thẳng hơn.
=Về phía Việt-Nam
Cộng-Hoà:
Tướng Dương Văn
Đức từ-chức để
chống lại kế-hoạch của Cố-Vấn Nhu
đưa chính-trị
vào quân-đội;
các tướng chắc không hài lòng với việc Diệm
thăng thưởng mà chỉ tuỳ theo
sở-thích cá-nhân
và dựa vào
lòng
trung-thành riêng với mình
(Đức
tuyên-bố “thà làm bồi bàn ở
Paris hơn là làm tướng cho
Diệm”).
Ông Nhu
lên tiếng phê-bình
các tướng. Tướng Williams
(dù là thân
Diệm) cực-lực bài-bác lời phê-bình của Nhu;
Williams
xác-nhận khả-năng của các
tướng (Việt-Nam
Cộng-Hoà) xuất-sắc
hơn các tướng ở Đông Nam Á hay Nam Mỹ.
Phó
Tổng-Thống Nguyễn
Ngọc Thơ không đồng
ý với chủ-trương thuần dùng vũ-khí quân-sự để chống Việt-Cộng
mà Diệm áp-dụng theo lời cố-vấn của
Nhu; Thơ muốn đáp-ứng đòi-hỏi
của nông-dân và lôi-kéo họ về với chính-phủ bằng cách thuyết-phục.
Lê
Văn Đồng, Bộ-Trưởng
Canh Nông, một cán-bộ Cần Lao cao-cấp, đồng ý với Thơ.
Hai
nhân-vật đối-lập Phan
Quang Đán và Hoàng
Cơ Thụy bị gạch
tên trong danh-sách ứng-cử-viên Quốc-Hội. Do áp-lực
của Đại-Sứ Durbrow, Tổng-Thống Diệm
cho phép họ tranh-cử nhưng báo trước là nếu đắc-cử kết-quả
kiểm-phiếu có thể bị huỷ bỏ. Rốt cuộc, Đán
và Nguyễn Trân
(cũng là đối-lập) đắc-cử nhưng bị loại bỏ.
Bắt đầu từ đầu năm 1959,
trong lúc Cộng-Sản gia-tăng hoạt-động
khắp nơi, nhứt là đồng-bằng sông Cửu
Long, Cà Mau và vùng biên
giới Cam Bốt, thì
Ngô Đình Nhu
giảm-thiểu số đồn bót, bỏ ngỏ một
phần lớn xã thôn cho Cộng sản. Dân-Vệ
phải nạp vũ-khí tốt để nhận vũ-khí
thô-sơ và dao găm, không đủ
khả-năng tự-vệ cho chính họ, nói chi bảo-vệ
dân-chúng.
Hai
đại-đội của Sư-Đoàn 23 bị Tiểu-Đoàn 2 Giải-Phóng phục-kích
thiệt-hại nặng ở Đồng
Tháp Mười.
Một tiểu-đoàn của VC đánh chiếm Đầm Dơi ở Cà
Mau.
Tổng-Thống
Diệm gặp khó-khăn dồn-dập đối với các tướng trong quân-đội
của mình, các thành-viên cao-cấp trong nội-các của mình, các lãnh-tụ
đối-lập trong dân-chúng, đồng-minh Hoa Kỳ, kẻ thù cộng-sản,
lẫn dân-chúng Việt-Nam.
*Trong
năm 1960:
=Về phía cộng-sản:
Hồ Chí Minh
ký Sắc Lệnh số 1/SL ban-hành Hiến Pháp mới.
Ngày
17/2/60, Ban Bí-Thư Đảng Lao-Động Việt-Nam ra chỉ-thị đẩy mạnh công-tác
chống bọn “phản cách-mạng” (gồm
có “Mỹ+Ngụy” Miền Nam).
Ngày
5/4/60, Quốc-Hội
Bắc Việt thông-qua luật nghĩa-vụ quân-sự (tăng-cường
quân-số để đưa vào Nam).
Ngày
8/5/60, CS Bắc Việt
bầu-cử Quốc-Hội Khoá II (quyết-định
mới, cho tình-hình mới).
Tháng
8/60, Tổng Bí-Thư
Liên-Xô
Khruschev
tiếp-kiến Hồ
Chí Minh tại
Yalta.
Ngày
9/5/60, Thủ-Tướng
Hoa-Cộng
Chu Ân Lai
qua thăm
Bắc Việt (thắt
chặt thêm tình hữu-nghị, nhất là viện-trợ cho VNDCCH).
Ngày
5/9/60, Đảng Lao Động Việt Nam họp Đại Hội lần thứ
III, mệnh-danh là Đại Hội Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa và Đấu
Tranh Thực Hiện Thống Nhất Nước Nhà (giải-phóng
Miền Nam bằng vũ-lực).
Ngày
20/12/60, cộng-sản cho ra đời “Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam”.
=Về phía Hoa-Kỳ:
Hội-Đồng Phối-Hợp Hành-Động của Mỹ soạn-thảo kế-hoạch
mới, về Việt-Nam.
Kế-hoạch này nhằm dung-hoà dị-biệt giữa các Bộ trong liên-hệ
với Việt-Nam.
(Kế-hoạch
mới, tức là có những đổi mới. Xem phần cụ-thể dưới đây).
=Về phía Việt-Nam
Cộng-Hoà:
Tổng-Thống Ngô Đình
Diệm tiếp tân
đầu năm, tỏ vẻ thân-thiết đặc-biệt với Đại-Sứ Pháp Roger
Lalouette. Ngày
9/1/60, Diệm
gặp riêng Lalouette,
câu chuyện kéo dài 2 giờ (Pháp
muốn phá Mỹ, trung-gian hoà-giải giữa Ngô và Hồ).
Ngày
26/1/60, VC
đột-kích Bộ Chỉ-Huy Trung-Đoàn 32 của Sư-Đoàn 21, ở Tây
Ninh, gây cho 23 quân-nhân tử-thương và cướp đi
hằng ngàn vũ-khí. Tư-Lệnh Sư-Đoàn là Trung-Tá Trần
Thanh Chiêu và
Trung Đoàn Trưởng liên-hệ bị cách chức và giáng cấp, thêm đình
thăng thưởng trong 5 năm.
Đầu
năm Canh Tý, nhật-báo
Tự Do (mặc
dù ấn-hành nhờ tiền Mật-Vụ của Nhu), số Xuân, đăng lên bìa
trước một bức hoạ của hoạ-sĩ Phạm Tăng, vẽ 6 con chuột đang
gậm nhấm trái dưa hấu Việt-Nam (ám chỉ gia-đình
họ Ngô: Diệm,
Thục,
Nhu,
bà Nhu,
Cẩn,
Luyện)..
Ngày
29/1/60, VC xâm-chiếm
Đồng Xoài, ở Bình
Long, và cướp của của một chủ đồn-điền
Pháp.
Tháng
2/60, Ngô Đình Nhu
ra lệnh Cảnh-Sát, Hiến-Binh và An-Ninh Quân-Đội trừng-trị những
người chủ-trương nhật-báo Tự
Do; toà soạn bị đập phá, nhân-viên bị lùng bắt.
Ngày
8/2/60, Lalouette
báo-cáo về Pháp
nội-tình Miền Nam Việt-Nam.
Ngày
24/2/60, Wolf
Ladejinsky, Cố-Vấn
cho Diệm về Cải-Cách Điền-Địa, thảo-luận
với Nguyễn
Ngọc Thơ, Lê
Văn Đồng
và Võ Văn Hải
(Bí-Thư riêng của TT Diệm),
bày tỏ quan tâm về sự suy-thoái an-ninh, hoạt-động
ám-muội của Đảng
Cần Lao, nạn
tham-nhũng trong giới lãnh-đạo cao-cấp của
đảng này (thí-dụ vụ Trần
Quốc Bửu với
công-ty Sterling
Oil), lòng bất-mãn
của nông-dân, những thất-bại mới đây của
quân-đội, tình-trạng bất-mãn trong hàng-ngũ sĩ-quan, và
ý muốn loại bỏ Nhu.
Ngày
24/2/60, Lalouette
báo-cáo về tình-hình Miền Nam.
Ngày
5/4/60, Khmer
chiếm hai đảo phía bắc quần-đảo
Les Pirates
ở Cà
Mau.
Ngày
6/4/60, Đại-Sứ
Mỹ Durbrow
trực-tiếp than phiền với TT
Diệm, vào ngày 6/4, về sự lộng-hành
của Đảng Cần-Lao.
Ngày
8/4/60, Lalouette
báo-cáo về Đảng
Cần Lao.
Ngày
9/4/60, Cố-Vấn Parsons
nêu lên với Bộ-Trưởng Thuần
các vấn-đề tham nhũng và liên-hệ giữa chính-phủ Diệm
với dân-chúng.
Ngày
13/4/60, Đại-Sứ
Durbrow gặp
Trần Trung Dung,
Phụ-Tá Quốc-Phòng, thắc-mắc về lời phát-biểu của Chánh Văn
Phòng của Dung.
Theo Dung,
kẻ kia là đảng-viên Cần
Lao, tay chân của
Cẩn,
có thể được gài vào Bộ Quốc-Phòng để phá Nhu
và Thuần.
Ngày
19/4/60, Tổng-Thống
Diệm
xin Mỹ cho tướng Edward
Lansdale, nguyên là
"cột trụ chống đỡ" của mình từ những ngày đầu, trở
lại Việt-Nam giúp mình, nhưng bị Durbrow
phản-đối; hiềm-khích cá-nhân giữa hai người này gia-tăng.
Ngày
21/4/60, Thuần
xin gặp Durbrow
về vụ hãng đường
Hiệp Hoà.
Ngày
Lễ Hai Bà Trưng
(mồng 6 tháng 2 âm-lịch=
3/3/60),
Lê Xuân Nhuận,
người vốn tích-cực ủng-hộ Ngô
Đình Diệm
(một
mình chống lại tập-đoàn Nguyễn
Văn Hinh & Trương
Văn Xương của
Quân-Đội Quốc-Gia tại Đệ Nhị Quân Khu) từ những ngày đầu Diệm
gặp khó-khăn lúc mới về nước, đã đứng lên trong lớp học-tập
“chính-trị và công-dân giáo-dục” tại
cơ-quan Cảnh-Sát Huế,
tố-cáo các
sai-trái của chế-độ
Diệm (xem
thêm) Biến-cố
này xảy ra trước cả chuỗi những biến-cố khác.
Ngày
26/4/60,
18 nhân-vật tên
tuổi họp báo
ở khách-sạn Caravelle,
Saigon, ra kháng-thư
phản-đối chế-độ độc-tài của Diệm.
Đó là các ông: Phan
Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Trần Văn Đỗ, Trần Văn
Văn, Trần Văn Lý, Lê Quang Luật, Nguyễn Lưu Viên, Trần Văn Tuyên,
Huỳnh Kim Hữu, Nguyễn Tiến Hỉ, Lê Ngọc Chấn, Lương Trọng
Tường, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng,
Trần Lê Chất, Hồ Văn Vui
(trong đó
có đến 11 Tổng-Trưởng, Bộ-Trưởng
cuả chính Đệ-Nhất Cộng-Hoà).
Ngày
30/4/1960,
Phan Khắc Sửu
và Trần Văn
Văn họp báo,
phân-phối bản kháng-thư
ký ngày 26/4/60.
Ngày
30/4/60, Trưởng
Phái-Bộ MSU, Wesley
Fishel, viết thư
cho Diệm, cho biết là Trần
Văn Chương
(Đại-Sứ
VNCH tại Mỹ) chống-đối Diệm,
và Nguyễn Phú Đức
(Đệ-Nhất Thư-Ký của Toà Đại-Sứ ấy) đã khiến cho Diệm
mất dần những người bạn
Mỹ. Dư-luận ở Mỹ chú ý kháng-thư
của Nhóm
Caravelle.
Ngày
3/5/60, Durbrow
thấy đã đến lúc “thêm răng cho lời thuyết-phục” - nói
thẳng với Diệm,
về các vấn-đề: nạn tham-nhũng, sự lộng-hành của Đảng
Cần-Lao, chuyện
không tận-dụng tài-lực trong công-cuộc chống Cộng, việc nên ngưng
khiêu-khích và thù-hận với Miên. Nếu
Diệm không thay-đổi,
sẽ tạm ngưng gia-tăng viện-trợ.
Ngày
9/5/60,
Ladejinsky báo-cáo
với Durbrow:
Diệm
không coi trọng tuyên-cáo của nhóm
Caravelle, không
chịu hoà-hoãn với Miên.
Nguyễn
Ngọc Thơ và Lê
Văn Đồng lo ngại
Diệm mất dần lòng dân.
Ngày
9/5/60, Bộ
Ngoại-Giao Hoa-Kỳ đồng-ý cho Đại-Sứ Durbrow
cảnh-cáo Diệm
về các tệ-nạn.
Ngày
9/5/60,
Phan Quang Đán
và các chính-hữu gửi Thư
Ngỏ cho Ngô
Đình Diệm.
Ngày
13/5/60, Durbrow
gặp Diệm,
nói về Cần Lao
và liên-hệ với
Miên. Diệm
bảo Cần
Lao chỉ chống
tham-nhũng, chứ không tham-nhũng.
Ngày
28/5/60, VC
tấn-công quận-lỵ
Đức Hoà ở Gia-Định.
Ngày
22/6/60, VC
chạm súng với Biệt-Động-Quân tại
Đức Huệ
ở Long
An.
Ngày
6/7/60, VC
xúi dân nổi dậy tại quận
Mõ Cày
ở Kiến
Hoà..
Ngày
11/7/60, Ladejinsky
nói chuyện về Diệm
với các Trưởng
Sở Việt-Miên-Lào
của Nha Hợp-Tác Quốc-Tế: Diệm
quá tự-kiệu tự-đại, ngày
một xa rời đám đông, công-khai che-chở Cần-Lao
và các thân-thuộc. Người thay-thế Diệm
có thể là Thơ.
Mỹ cần
cứng-rắn với Diệm.
Diệm
chẳng còn nơi nương-tựa.
Ngày
1/8/60, Phan
Khắc Sửu (Mặt
Trận Quốc-Gia Đoàn-Kết) và một số nhân-sĩ yêu-cầu Diệm
chấm dứt quốc-sách Khu
Trù Mật.
Ngày
20/8/60, VC
tràn ngập quận-lỵ Hiệp
Đức, rồi phục-kích đả-viện,
ở
Quảng-Nam.
Ngày
22/8/60, Đại-Sứ
Lalouette
báo-cáo tình-hình chính-trị Miền Nam ngày càng suy-thoái.
Ngày
23/8/60, theo bản
Ước-Lượng Tình-Báo của Mỹ tại Washington
DC thì sự chống-Diệm
ngày càng gia-tăng, hoạt-động
cộng-sản cũng
ngày càng tăng.
Ngày
5/9/60, Durbrow
báo-cáo tình-hình an-ninh ngày càng suy-thoái: bất-mãn
trong mọi giới, đặc-biệt trong
quân-đội và trong
cộng-đồng giáo-dân Ky-Tô-Giáo di-cư.
Giáo-dân dự-định biểu-tình vào ngày 19/8 (nhưng bị ngăn chận).
(Dương Văn Minh
tuyên-bố: giết được 1 tên VC thì chúng tăng-cường 10 tên).
Ngày
16/9/60, Durbrow
sợ rằng đảo-chính sẽ xảy ra: bất-mãn trong mọi tầng-lớp dân-chúng;
người dân tin vào dư-luận về vợ
chồng Nhu;
nên gửi Nhu làm
đại-sứ đâu đó, cũng như Trần
Kim Tuyến.
Ngày
21/9/60, Hội-Đồng
An-Ninh Quốc-Gia Hoa-Kỳ
họp phiên thứ 460, quyết-định
Diệm phải mở
rộng chính-phủ.
Ngày
23/9/60, Loyd
Musolf, Trưởng Đoàn
Chuyên-Viên MSU,
báo-cáo: tình-hình Việt-Nam ngày càng tồi-tệ. Mỗi
tháng có khoảng
5,000 tù-nhân chính-trị
bị bắt.
Ngày
6/10/60, Phan
Quang Đán lại
gửi thư ngỏ
cho Diệm.
Ngày
7/10/60, XLTV Ngoại-Trưởng
Mỹ, Clarence
Dillon, chỉ-thị
Durbrow
khéo-léo khuyên Diệm
đưa Nhu
đi làm đại-sứ.
Ngày
14/10/60, Durbrow
trao Diệm
văn-thư yêu-cầu thi-hành một chính-sách cởi-mở hơn, và tuyên-bố
đổi mới trong bài diễn-văn nhân Ngày Quốc-Khánh 26/10 sắp tới.
Ngày
21/10/60, VC
tấn-công hàng loạt tiền-đồn
VNCH tại Dakpek, Daksut, và Dakse ở Kontum.
Quận-lỵ Toumorong bị CSBV chiếm giữ nhiều ngày.
Ngày
24/10/60, Lalouette
lại báo-cáo tình-hình Miền Nam tồi-tệ.
Ngày
28/10/60, VC lại
tấn-công vào công-trường xây đường Kontum‒Quảng-Ngãi.
Ngày
11/11/60, Đại-Tá
Nguyễn Chánh
Thi, Chỉ-Huy-Trưởng
Nhảy Dù,
làm đảo-chính:
Tham-dự có các Trung-Tá Nguyễn
Triệu Hồng
và Vương Văn
Đông, các
Thiếu-Tá Phan
Trọng Chinh và
Phạm Văn Liễu.
03g30
Lực-lượng nòng-cốt gồm 4 tiểu-đoàn Dù
và Liên-Đoàn Biệt-Động-Quân
của Thiếu-Tá Lữ
Đình Sơn, dưới
quyền Thiếu-Tá Chinh đóng tại vườn Tao Đàn. Đại-Uý Phan
Lạc Tuyên, một
nhà thơ, cùng tham-dự. Ngoài ra, còn có một tiểu-đoàn Thuỷ-Quân
Lục-Chiến do Đại-Uý
Nguyễn Kiên Hùng
chỉ-huy. Lúc 12g, phe đảo-chính chiếm Đài Phát-Thanh Quốc-Gia,
công-bố danh-sách Uỷ-Ban Cách-Mạng, có các tướng Phạm
Xuân Chiểu và
Lê Văn Kim.
Hoàng Cơ Thuỵ
(luật-sư) và Phan
Quang Đán (lãnh-tụ
Tự Do Dân Chủ) lên đài phát-thanh, ra thời-hạn cho Diệm
phải đầu hàng trước 14g. Thương-thuyết tiếp-tục. Durbrow
góp ý là hai bên
nên hoà-giải,
nhấn mạnh là tránh
nội-chiến, và
cho biết không
thể đưa Thủy-Quân Lục-Chiến Mỹ vào như Diệm yêu-cầu.
Nhu
muốn Durbrow
can-thiệp để phe cách-mạng đồng-ý giữ Diệm
làm Tổng-Thống. Durbrow
nói rằng Mỹ
muốn phe Cách-Mạng
vẫn giữ Diệm làm
Tổng-Thống, và duy-trì đoàn-kết để chống Cộng, nhưng không
muốn can-thiệp vào nội-tình Việt-Nam,
để hai phe tự dàn-xếp với nhau. 20g30
Đài Saigon phát-thanh mỗi 15 phút; một thông-báo của
Tướng Lê
Văn Tỵ, Tổng
Tham-Mưu-Trưởng, cho biết Diệm
đã ký giấy-tờ chuyển-giao chính-quyền cho Tỵ
và 18 người khác. Ba nhân-vật quan-trọng của chế-độ đều
vắng mặt: Tướng Nguyễn
Văn Là, Tổng-Giám-Đốc
Cảnh-Sát Công-An (đi trốn), Trần
Kim Tuyến, Giám-Đốc
Sở Nghiên-Cứu Chính-Trị (đến trưa ngày 12 mới ra mặt), các
Trung-Tá Lê Quang
Tung, Tư-Lệnh Lực-Lượng
Đặc-Biệt, và Nguyễn
Văn Châu, Giám-Đốc
Nha Chiến-Tranh Tâm-Lý (trốn vào nhà thờ cho đến chiều ngày
11). Phe thân Diệm:
Nguyễn
Đình Thuần, Bộ-Trưởng
Phủ Tổng-Thống kiêm Quốc-Phòng, liên-lạc với Đại-Sứ Durbrow.
Tướng Raymond Nguyễn
Khánh leo qua cổng
hậu vào Dinh Độc-Lập. Võ
Văn Hải, Chánh
Văn-Phòng của Diệm,
ra ngoài vòng thành trực-tiếp thương-thuyết
với nhóm Vương
Quang Đông.
Ngày
12/11/60, 06g20
Đài phát-thanh Saigon phát hiệu-triệu
của Diệm
gửi đồng-bào, tuyên-bố giải-tán
chính-phủ, kêu
gọi các tướng chỉ-huy quân-đội thành-lập
một chính-phủ lâm-thời.
Trong khi chờ-đợi, Diệm sẽ hợp-tác với Uỷ-Ban Cách-Mạng để
thành-lập một
chính-phủ liên-hiệp.
Diệm
cũng cho lệnh ngưng bắn để tránh đổ máu. Thuần
báo cho tướng Lionel
McGarr, Tư-Lệnh MAAG,
là một chính-phủ
quân-nhân, với
Diệm làm Tổng-Thống,
đã được thành-lập. 07g00
Đại-Sứ Durbrow
báo tin hai phe đã đạt thoả-ước:
1/ Diệm
làm Tổng-Thống (không có thực-quyền). 2/ Tướng Lê
Văn Tỵ làm Thủ-Tướng
một chính-phủ
quân-sự. Đông
nói là các tướng Mai
Hũu Xuân, Phạm
Xuân Chiểu (Tham-Mưu-Trưởng
Liên-Quan), Dương
Văn Minh, Trần
Văn Đôn, Lê
Văn Kim, đã được
chọn vào chính-phủ. 3/ Hội-Đồng
Cách-Mạng sẽ được
duy-trì, gồm có: Nguyễn
Chánh Thi, Vương
Quang Đông, Nguyễn
Huy Lợi, và Hoàng
Cơ Thụy (Ki-Tô-Giáo).
Đông
yêu-cầu chính-phủ
Mỹ ra tuyên-cáo yểm-trợ tân-chính-phủ;
Durbrow
xin Bộ Ngoại-Giao duyệt-xét bản thông-cáo. Bộ
Ngoại-Giao Mỹ đồng ý,
chỉ sửa vài chữ và chờ Durbrow
xác-nhận lại trước
khi phổ-biến cho báo-chí Mỹ, thì tình-hình thay đổi.
08g30
Nguyễn Khánh
từ Dinh Độc-Lập thuyết-phục các tướng đứng ngoài hãy nhập
cuộc để ổn-định tình-thế, ra lệnh cho lực-lượng Dù của Nguyễn
Chánh Thi di-chuyển
về Bộ Tổng Tham-Mưu, và ngưng bắn; nhưng các đơn-vị của Sư-Đoàn
5 của Trần Thiện
Khiêm từ Mỹ
Tho thì tăng-cường cho lực-lượng trung-thành với Diệm
tại
Saigon, đánh lại phe đảo-chính.
18g
Diệm
đọc diễn-văn trên Đài Saigon, tuyên-bố
là đã ra lệnh Quân-Đội Cộng-Hoà thanh-toán lực-lượng phản-loạn,
hứa sẽ tiếp-tục
phục-vụ đất nước và dân-tộc theo đường lối Cộng-Hoà và
Nhân-Vị.
Trong
ngày, các cơ-quan an-ninh của Dỉệm
âm-thầm bắt giữ các chính-khách đối-lập, như Trần
Văn Hương, v.v...
Ngày
13/11/60 Đại-Uý
Phan Phụng Tiên,
Trưởng Phi-Đoàn 1 Vận-Tải, lái C-47 bay qua Nam Vang (Cao
Miên) chở theo
15 nhân-vật cầm đầu cuộc đảo-chính (trong đó có Đại-Tá Nguyễn
Chánh Thi, Trung-Tá
Vương Quang Đông,
Thiếu-Tá Phạm
Văn Liễu, v.v...).
Phan Lạc Tuyên
thì dùng xe Jeep vượt biên qua theo.
Tóm
lại, Tổng-Thống Diệm
đã nhượng-bộ, đồng ý giải-tán chính-phủ để thành-lập một
chính-phủ liên-hiệp với các tướng, nhưng chỉ trì-hoãn để chờ
phản-công lại phe đảo-chính.
Đó là kinh-nghiệm cho phe
Cách-Mạng
1/11/1963 sau này.
Ngày
25/11/60, Lalouette
báo-cáo, đại-ý từ ngày cầm quyền, Diệm
đáng lẽ phải tạo nên màng lưới liên-hệ ngoại-giao; cuộc đảo-chính này
gây sự mất mặt cho
Diệm
ở trên phương-vị quốc-trưởng.
Trong hai ngày 11 và 12 báo-chí quốc-tế hầu như đồng-thanh đã nói
nhiều về sự yếu-kém
và sai-lầm của chế-độ Diệm.
Nhật-Bản
ngần-ngại trong việc bồi-thường chiến-tranh, kế-hoạch xây đập
thuỷ-điện
Đa Nhim. Các quốc-gia viện-trợ cho Diệm,
đặc-biệt là Đức,
tự đặt vấn-đề. Bộ
Ngoại-Giao Mỹ
chúc mừng
Diệm
thoát cơ nguy nhưng đã nhắc Diệm
phải đặt quyền-lực trên những
căn-bản rộng-rãi hơn,
thực-hiện những
cải-cách cấp-tiến,
hành-động nghiêm-khắc đối với tệ-nạn
tham-nhũng.
Bắc Việt tưởng bở,
nhưng phe đảo-chính
có lập-trường chống Cộng,
nên giữ im-lặng.
Ngày
4/12/60 Đại-Sứ
Durbrow
nhận-định là dân-chúng ngày càng bất-bình Diệm
vì thiếu khả-năng
chống Cộng và
dùng chính-sách bàn
tay sắt với các nhóm đối-lập.
Nếu Diệm
không thay đổi, có lẽ phải nghiên-cứu việc thay-đổi
lãnh-đạo trong
một tương-lai không xa.
Ngày
9/12/60 Cơ-quan CIA
báo-cáo về những nhân-vật có thể thay
Diệm.
Ngày
14/12/60 Durbrow
thuyết-phục Diệm
cởi mở hơn nhưng Diệm
vẫn bào-chữa cho chế-độ và vợ+chồng Nhu.
Ngày
16/12/60 Bộ Ngoại-Giao
Mỹ
chỉ-thị Durbrow
gặp Diệm,
hỏi về những đề-nghị cải-cách đã trao cho Diệm từ ngày
14/10/60 (trao thêm quyền cho Quốc-Hội
và nới lỏng kiểm-duyệt
báo-chí).
Ngày
20/12/60
cộng-sản công-khai ra mặt:
Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam chính-thức ra mắt
(thành-lập từ ngày 12/12) tại chiến-khu
Dương Minh Châu
ở Tây
Ninh.
Nguồn:
Nhiều
đoạn trên đây được trích từ tác-phẩm
“Việt-Nam
Niên-Biểu - Tập
I-C: 1955-1963” của
Tiến-Sĩ Vũ Ngự
Chiêu tức Chính
Đạo do Văn
Hoá ở Texas xuất-bản
năm 2000.
*
Công
Đồng Vatican II
Ngày
05/6/1960, Giáo
Hoàng John XXIII thiết lập Văn
Phòng Xúc Tiến Thống Nhất Thiên Chúa Giáo, và giao cho Văn
Phòng này nhiệm vụ hoà hợp
với các tôn giáo khác, bắt đầu với
Hồi Giáo.
Đồng
thời với Hồi Giáo, các tôn-giáo phi-Thiên-Chúa cũng
được Vatican tìm cách gây
thiện-cảm, trong đó có Phật-Giáo.
Biến-cố
này đưa đến Công Đồng
Vatican II (sẽ chính-thức khai-diễn vào năm 1962
trở đi) mà trong Tuyên Ngôn Về Mối Tương
Quan Giữa Giáo-Hội Ky-Tô-Giáo La-Mã Với Các Tôn-Giáo Không
Thờ Chúa, gọi là Nostra Aetate,
kết-quả của Công Đồng Vatican II, có đề-cập
đến Phật Giáo như
sau:
“2.
....
Religions, however, that are bound up with an
advanced culture have struggled to answer the same questions by means of more
refined concepts and a more developed language...
..
Buddhism,
in its various forms, realizes the radical insufficiency of this changeable
world; it teaches a way by which men, in a devout and confident spirit, may be
able either to acquire the state of perfect liberation, or attain, by their own
efforts or through higher help, supreme illumination....
The
Church, therefore, exhorts her sons,
that through dialogue and collaboration with the
followers of other religions, carried out with prudence and love and in
witness to the Christian faith and life, they recognize,
preserve and promote the good things, spiritual and moral, as well as the
socio-cultural values found among these men....
5.
.... No foundation therefore remains for any theory or practice that leads to discrimination
between man and man or people and people, so far as their
human dignity and the rights flowing from it are concerned.
The
Church reproves, as foreign to the
mind of Christ, any discrimination against men or
harassment of them because of their race, color, condition of life, or religion...
..”
Tức
là Toà Thánh Vatican không chấp-nhận việc
kỳ-thị, huống gì đàn-áp, Phật Giáo tại
Việt Nam. Trong biến-cố Phật-Giáo 1963,
Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, Tổng-Giám-Mục
Ngô
Đình Thục, và cả chế-độ Đệ-Nhất
Cộng-Hoà, trông đợi mà không được sự
hậu-thuẫn của Vatican.
*
....
“Ngay
từ đầu thập niên 1960,
GH Gioan XXIII đã
móc nối với Hồ Chí Minh
để thiết lập chính phủ trung lập
tại
VN đã đưa đến cuộc lật đổ chính
phủ Ngô Đình Diệm
năm 1963 và rút
phép thông công TGM Ngô Đình Thục...
..”
2009/2/22
NHAN PHAM <nhan48@yahoo.
com>
CÔNG GIÁO VÀ THÁNH TỬ ĐẠO
Friday, 23. January 2009, 07:39:09 ”
*
Quốc
Sách “Ấp Chiến Lược”
mà một số người hiện nay vẫn cứ cho là hàng rào
chống Cộng hữu-hiệu nhất của Đệ-Nhất
Cộng-Hòa và chê trách các Tướng cầm đầu
biến-cố 1-11-1963 đã phá bỏ quốc-sách ấy,
thì chính cố Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm (và cả cố Cố-Vấn Ngô
Đình Nhu) không hề nghĩ
đến; mãi đến ngày 3-2-1962,
sau ngót 8 năm
cầm nắm chính-quyền, lúc chế-độ
chỉ hơn một năm
nữa là đã lụi tàn, mới chịu ban-hành.
Nguồn:
Hai Mươi Năm Qua - Việc
từng ngày (1945-1964).
Đoàn Thêm.
Houston,
Texas: Xuân Thu, 1965 (trang 314), Việt
Nam Niên Biểu 1939-1975 - Tập I-C: 1955-1963.
Chính Đạo.
Houston,
Texas: Văn
Hóa, 2000 (trang 241) và
Những
Biến Cố Lớn trong 30 Năm Chiến Tranh tại
Việt Nam 1945-1975.
Nguyễn Đình Tuyến.
Houston,
Texas: Đại
Học Đông Nam, 1995 (trang 63).
(Xem
thêm)
*