Ngô Đình Cẩn, ông là ai?
Nguyễn Văn Lục
Tựa đề trên cho bài viết này, tôi lấy cảm hứng từ bài biện hộ ba
tiếng đồng hồ của luật sư Võ Văn Quan đặt ra cho những kẻ đứng trên cả
pháp luật như Nguyễn Khánh với sắc luật 4/64, những quan tòa nhân danh
công lý ngồi xử ông Cẩn, cho các nhân chứng tố cáo ông Cẩn, cho tất cả
những ai thù ghét cũng như quý mến ông Cẩn phải trả lời được câu hỏi:
Ngô Đình Cẩn. Ông là ai?
Ông Ngô Đình Cẩn, 53 tuổi bệnh tiểu đường, ra toà ngày 16 tháng4, 1964.
IIng tuyên bố vô tội. Nguồn: UPI
Theo dõi phiên tòa với lời biện hộ của luật sư Quan cho ông Cẩn,
hầu như có một sự im lặng chạy suốt căn phòng tòa án.
Sự im lặng ấy phải chăng luật sư đã đánh động được một cái gì, cái gì đó của những người có mặt.
Nam Đình có đặt câu hỏi: tôi không biết 9 năm ở Huế ông hét ra lửa như
thế nào, chớ hôm nay ra tòa, tôi ngồi cách bị can 4 thước mà tôi không
nghe thấy gì hết, mặc dầu tôi ở cạnh sông Hương núi Ngự bao nhiêu năm.
(Bài tường thuật của nhà
báo Nam Đình cho tờ báo Thần Chung)
Xin trích lại lời luật sư Võ Văn Quan sau lời bào chữa cho ông Cẩn:
“Dứt lời, tôi ngồi xuống trong im lặng. Nơi cuối phòng xử có tiếng vỗ
tay lẻ loi của một người nào đó.(..) Tôi day lại nhìn ông Cẩn. Ông nói:
cám ơn luật sư thật nhiều”. Anh cựu thủ lãnh luật sư đoàn Phan Kiến
Khương nhìn tôi gật đầu mỉm cười. Phần ông thủ lãnh luật sư đoàn Nguyễn
văn Huyền trầm tĩnh hơn, kéo tay tôi ra nói riêng: “ Ông ủy viên chính
phủ này không phải tay vừa. Anh nên cẩn thận đừng nóng nảy đi quá trớn,
sơ xuất để cho Tòa có cớ làm khó dễ anh. Lúc nào tôi cũng có mặt trong
phòng xử để bênh vực anh.”
(Võ Văn Quan, “Luật sư, Nghề hay Nghiệp? Vài cảm nghĩ và kỷ niệm về một
thời hành nghề. Vụ án Ngô Đình Cẩn”. Hay là “Từ cố vấn chỉ đạo thành tử
tội” Độc quyền của tờ Ngày Nay, 1992)
Ghi chú về Ls Quan:
Luật sư Võ Văn Quan tốt nghiệp luật năm 1954 về luật dân sự tại Sài Gòn,
chuyển hướng sang hành nghề luật hình sự từ 1960. Ông từng là luật sư
của nhiều vụ án liên quan đến chính trị thời đệ nhất và đệ nhị cộng hòa
như vụ các nhân sĩ trong nhóm Caravelle, vụ tướng Dương Ngọc Lắm, vụ
thiếu tướng Lâm văn Phát, bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, vụ đại tá Đàm Quang
Yêu, vụ dân Biểu Trần Ngọc Châu, vụ kỹ sư Trương Như Tảng, v.v..
Tư cách và sự can đảm của Ls Võ văn Quan trong vụ biện hộ cho nhóm
Caravelle, thời đệ nhất cộng hòa, là nguồn cớ cho việc ông được bà Trần
Trung Dung đến mời ông cãi dùm cho ông Cẩn. Có nhiều luật sư có tiếng
tăm, quen thân thiết với gia đình đã từ chối không dám nhận cãi cho ông
Cẩn.
Tại sao có sự im lặng ấy? Đó là cái nghịch cảnh của vụ xử án này. Kẻ
dưới quyền, ra vào luồn cúi chịu ơn mưa móc nay trở thành kẻ ngồi xử án.
Trong buổi trả lời ký giả Hồng Phúc, Ls Võ Văn Quan đã tiết lộ cho
biết,
“sau phiên tòa đầu tiên, ông Cẩn cho biết những kẻ ngồi xử án ông (3 sĩ
quan cấp đại tá, một trung tá), ông Cẩn có nói rõ tên là những kẻ phản
phúc. Đôi khi ông Cẩn nhìn họ với cặp mắt long lanh qua gọng kính của
ông, những kẻ ấy gặp cái nhìn ấy thì bẽn lẽn quay mặt ra chỗ khác.”
(Trong vụ xử ông Ngô Đình Cẩn, theo luật sư Võ Văn Quan khi trả lời
phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc cho Thế giới Ngày Nay, ngày 17-3-2012.
Trích nguyên văn lời luật sư Quan.)
Theo Ls Quan:
“Thành phần xử án ông Ngô Đình Cẩn gồm: Lê Văn Thụ, chánh án. Phụ thẩm:
đại tá Nguyễn Văn Chuân, đại tá Đặng Văn Quang, đại tá Trương Văn
Chương, trung tá Dương Hiếu Nghĩa. Phụ thẩm Nhân dân gồm quý ông|:
Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn Hữu Sửu và Bùi Văn Nhu. Chưởng
lý: Thiếu tá Nguyễn văn Đức. Lục sự Nguyễn văn Tâm. Trong hồ sơ ghi: Án
Tòa Cách Mạng, do sắc luật 4/64, ngày 20-2-1964.”
Thành phần xử án này do chính tay Nguyễn Khánh ký Sắc lệnh số 120-TP cử các tay chân của ông như các các đại tá kể trên.
Cũng theo Ls Võ văn Quan nhận xét về 4 vị sĩ quan trên trong sách của ông:
“Thành tích của ông Đặng Văn Quang thiên hạ biết quá nhiều, xin miễn
nhắc đến. Thành tích của đại tá Nguyễn văn Chuân ra sao, xin quý độc giả
độc xem quyển Việt Nam Nhân Chứng của tướng Trần văn Đôn sẽ thấy không
có gì đáng đề cao. Đại tá Trương Văn Chương về sau dính líu trong một vụ
buôn lậu. Về phần Trung tá Dương Hiếu Nghĩa không đầy một năm sau vụ án
Ngô Đình Cẩn, tôi lại gặp ông một lần nữa trong phòng xử này, nhưng ông
tụt xuống ngồi trên ghế bị cáo vì dính líu trong vụ đảo chánh ngay
13-9-năm -1964, chuyện đời có lắm sự trớ trêu không thể ngờ được như
vậy.”
(Võ Văn Quan, Báo Thế giới ngày nay, số 108, tháng 2-3 93, trang 89)
Phải chăng đây là một ván bài lật ngửa? Kẻ kết ân trở thành bị cáo?
Trong phần phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc với Ls Võ Văn Quan có một câu hỏi khá là quan trọng như sau:
“Theo luật sư, Ông Ngô Đình Cẩn là người có tội hay vô tội?
Ls Võ Văn Quan:
Để trả lời câu hỏi này, tôi chỉ căn cứ trên hồ sơ của bị can Ngô Đình
Cẩn. Nếu căn cứ trên hồ sơ thì không có bất cứ bằng cớ nào cũng không có
bất cứ giấy tờ của ông Cẩn ra lệnh cho các công an trong vụ tống tiền
và thủ tiêu các nạn nhân gián điệp miền Trung. Tôi đã xin hỏi Ủy Viên
chính phủ: “Trong hồ sơ có công văn nào giao quyền cho ông Cẩn chỉ huy
bộ máy tư pháp, có một chỉ thị do bị can ký tên ra lệnh cho các công an
viên đó hay không?” Tuyệt nhiên không có. Không có văn thư, không có
bằng cớ đích xác đó, ủy viên chính phủ đành phải đưa ra nhân chứng để
buộc tội ông Cẩn cho được. Nhưng nếu không được xác nhận bằng văn thư cụ
thể khách quan, có gì bảo đảm rằng các nhân chứng vô tư, không bị chi
phối vì tư lợi, không bị mua chuộc hay hăm dọa. Những người được gọi là
nhân chứng này thực sự họ là ai? Mấy nhân chứng này là những người lật
lọng tráo trở, quý tòa không thể nào tin vào lời nói của họ được!
Luật sư Võ Văn Quan đã trích dẫn một nguyên tắc pháp luật trong luật Hình sự được quy định rõ ràng như sau:
“Một điều luật trong Bộ Hình Sự quy định rằng Tòa phải – và chỉ – căn cứ
vào hồ sơ mà thôi để phán xử, thậm chí những điều gì vị thẩm phán tự
mình biết được, nhưng không có ghi nhận trong hồ sơ, thẩm phán ấy cũng
không được quyền căn cứ sự hiểu biết riêng tư đó mà xử tội. Điều luật ấy
rất công minh: những hiểu biết riêng tư không có ghi lại trong hồ sơ,
không được Công Tố Viện và bên biện hộ nghiên cứu và tranh luận để nhận
định xác tín, tức nhiên không thể dùng làm căn bản cho việc xét xử
được.””
(Võ Văn Quan, ibid., Ngày Nay, số 107, tháng 1-93).
Và sau đây là lời nói chót của ông Cẩn:
“Ông diềm nhiên, chậm rãi nói rằng mình vô tội, không có quyền hành,
không có ra lịnh cho các công an viên làm sự phi pháp. Ông không van xin
cầu khẩn gì hết. Ông biết cái luật chơi tàn nhẫn của chính trị và ông
có vẻ điềm tĩnh chấp nhận, mặc dầu đối tượng cuộc chơi chính là sanh
mạng của mình.”
(Võ Văn Quan,Ngày Nay, số 110. Tháng 5-93)
Về phía ông Ngô Đình Cẩn, sau khi bị tuyên án tử hình, ông Cẩn không nhận tội và một mực kêu mình vô tội.
Luật sư Võ Văn Quan và ông Ngô Đình Cẩn trong khám Chí Hoà (1964). Nguồn: Petrotimes.
Nhưng Ls Võ Văn Quan cũng thừa biết ràng không thể nào có bản án tha
bổng. Phiên xử tại Sài Gòn từ ông Ngô Đình Cẩn, bà Trần Trung Dung, Ls
biện hộ thì đều tin chắc rằng: Bản án tử hình đã được định trước rồi.
Tất cả chỉ là màn trình diễn như một vở kịch lớp lang có thứ tự đầu
đuôi.
Người ta tự hỏi Công lý nằm ở chỗ nào trong Tòa án? Nằm ở phía trên ba
tòa quan lớn với Lê Văn Thụ, Chánh thẩm. Lê Văn Đức, Công Tố Viên? Hay
là nằm ở đằng sau cánh cửa tòa án với những nguời mà bà Trần Trung Dung
sau này ở bên Mỹ có dịp kể lại từng chi tiết rõ ràng cho Ls Quan về
những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đoạn gian manh đằng sau vụ
án? Và quan trọng hơn cả là việc trao đổi trên xác chết Ngô Đình Cẩn của
Nguyễn Khánh muốn lấy lòng nhóm Phật giáo Trí Quang? Khánh xoay đổi sự
liên kết của ông cho phe phái nào hứa hẹn xét ra có lợi cho ông, ông sẽ
ngả về phía ấy.
Luật sư Võ văn Quan thừa hiểu dụng tâm của Nguyễn Khánh:
“Để mua chuộc cảm tình của giới Phật giáo. Chánh quyền tuyên bố sẽ đem
Ngô Đình Cẩn ra xét xử ngay. Đúng. Ông Cẩn phải bị đưa ra xét xử để trả
lời về những tội trạng của ông. Nhưng đột ngột đưa ông ra xét xử, với
mục đích mua chuộc sự ủng hộ của giới Phật Giáo, mua thời gian cho chánh
quyền- Đó không phải là hành xử công lý, nhưng là “ thủ đoạn chính trị
lợi dụng công lý.”
(Ls Võ Văn Quan, Báo Ngày Nay, số 107, tháng 1-93)
Nguyễn Khánh đã chuẩn bị một hành lang pháp lý với sắc luật số 4/64 ngày
28.2.1964 để có thể đưa những người như Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn,
Đặng Sỹ ra tòa và họ sẽ không tránh khởi bản án tử hình. Khánh đã đưa
đại tá Nguyễn Văn Mầu, Giám đốc Nha Quân Pháp, lên làm Bộ Trưởng tư pháp
để đưa ra luật 4/64.
Hiện nay tôi cũng không ai biết danh tánh nhóm luật sư nào đã soạn thảo
bộ luật 4/64. Và dù nay có biết, họ cũng cố tình dấu nhẹm không để lộ
danh tánh. Rồi ai là người ký bộ luật này để đem ra thi hành?
Quốc Trưởng Dương Văn Minh hay Thủ tướng Nguyễn Khánh? Nhưng Nguyễn
Khánh đã khẳng định đổ hết tội lên đầu Dương văn Minh: cái chết của anh
em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Cẩn là do sự trả thù cá nhân của Dương
Văn Minh.
Nguyên tắc của Bộ luật này là không tôn trọng nguyên tắc bất hồi tố của
hình luật. Vì thế, tòa án có thể xử những tội ác gây ra trong thời gian
từ 26-10-1955 đến 1-10-1963.
Điều 5, cấm tòa án cách mạng không được quyền giảm khinh, cũng như không
được phạt án treo. Điều 16, cấm các bị cáo không được kháng cáo.
Đây là những điều luật giết người vô cùng dã man. Ngậm ngùi thay cho đất
nước vào hồi mạt vận nên gặp phải những kẻ gian sảo vô tài lại bất
lương, chối tội.
Đối với luật sư biện hộ thì văn hoa hơn, ông cho rằng khi “chính trị đi
vào cửa trước thì pháp luật phải luồn ra cửa sau”. Ông cũng không quên
viện dẫn trường hợp cách mạng Pháp như lời nói cuối cùng trước khi tòa
định án như sau:
“Trong cuộc cách mạng năm 1789 của Pháp, Quốc Hội gọi là Convention
Nationale, bầu trong thời kỳ La Terreur (Khủng bố) gồm đa số là những
người do tên độc tài khát máu Ropespierre dùng áp lực đưa vào.
Ropespierre đã tuyên bố là phải có án tử hình. Trong phiên tòa đặc biệt
đó, Nhiều người của Convention Nationale đã cật vấn hằn học, mạt sát
thậm tệ vua Louis XVI, cho thấy trước rằng họ sẽ bỏ phiếu tuyên án tử
hình.
Khi đứng lên biện hộ cho Louis XVI, luật sư De Sège đã can trường nói thẳng với họ:
“Je viens ici chercher des Juges, mais je ne trouve que des Bourreaux.”
(Tôi đến đây tìm những vị thẩm phán quan, nhưng tôi chỉ gặp những tên đao phủ thủ.)”
(Ls Võ Văn Quan, số 119, tháng 5-93)
Dẫn chứng này của luật sư Võ Văn Quan có khác chi chỉ thẳng vào các sĩ
quan đang ngồi xử án trên kia, họ không phải quan tòa mà chỉ là những
tên đao phủ thủ không hơn không kém!
Lời kết án nặng nề như thế vậy mà các vị phán quan ngồi xử án ngồi im lặng không một ai lên tiếng phản đối.
Hay ngược lại, phải chăng nó nằm ở phía bị cáo ở vành móng ngựa? Ngô
Đình Cẩn là ai? Nếu không có luật 4/64 thì cái đầu của Ngô Đình Cẩn vẫn
còn dính trên cổ? Ông Cẩn khong chết vì tội đã làm mà chết vì khung pháp
lý bất nhân như lưỡi hái tử thần phập xuống.
Vì thế, cho đến khi tôi cầm bút viết bài này, câu trả lời Ông Cẩn là ai?
không phải là dễ cho bất cứ ai. Nhiều uẩn khúc vẫn còn đó.
Tướng Khánh phủ nhận mọi cáo buộc ông
Trong suốt thời kỳ Đệ Nhị Cộng Hòa, hầu như không một ai đã có dụng tâm
muốn dở lại hồ sơ vụ án tử hình Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đặng
Sỹ. Mọi người muốn quên chăng? Cùng lắm người ta nhắc nhiều đến cái chết
của anh em ông Diệm-Nhu với hằng trăm tài liệu phần lớn của người ngoại
quốc viết.
Trường hợp ông Cẩn là bị bỏ quên hoàn toàn.
Chê có thể không đáng chê mà khen thì không tiện vì ông chỉ là một người
ít học quê mùa, việc chính yếu của ông là thay anh em phụng dưỡng mẹ
già. Thói thường người mình thường coi thường kẻ ít học. Dĩ chí đến anh
em trong nhà cũng có thể có tâm trạng coi khinh “Cậu Cẩn”. Cộng thêm
chức cố vấn chỉ đạo miền Trung mà chắc chắn không có văn thư chính thức
nào của tổng thống phủ. Theo Trung tá Nguyễn Văn Minh do nhu cầu kết hợp
các tổ chức đoàn thể miền Trung đã đưa đến quyết định thiết lập một văn
phòng chỉ đạo do ông Ngô Đình Cẩn cầm đầu. Nó không có ngân sách, không
thuộc hệ thống hành chánh chính phủ. Trong đó văn phòng cố vấn chỉ đạo
chỉ có tính cách nội bộ, địa phương, không dính dáng đến chính quyền,
được thành lập từ cuối năm 1957.
Sau này ra Hải ngoại tôi thấy đã bắt đầu xuất hiện nhiều hồ sơ lẻ tẻ
liên quan xa gần đến nội vụ như: Bạch truyện tự ghi của Trí Quang, Thôn
nữ Tự Truyện, của bà Ngọc An, vợ của Trung Tá Trần văn Thưởng, giám đốc
Nha công an Trung Phần. Hồ sơ Thống Nhất Phật Giáo của Đỗ Trung Hiếu.
Nhất là cuốn: Tổng kết nội vụ Phật giáo và |Đại Học (ghi Tối mật, dạng
photoco y có dấu triện trên từng trang một) của Lê Dư, trưởng ty Cảnh
sát Quốc Gia Thừa Thiên kính gửi Trung tướng chủ tịch Ủy Ban điều hành
Trung nguyên Trung Phần. Rồi Bạch Thư của TT Thích Tâm Châu. Có những
tài liệu đáng nghi ngại in photocopy, không đề tên tác giả như: Giấc Mơ
lãnh tụ, ám chỉ hoạt động của Trí Quang và Phật giáo miền Trung.
Càng đọc càng thấy nhiều uẩn khúc, nhiều điều cần được suy nghĩ và nói ra.
Tôi cũng biết chắc, 10 người hết cả mười không mấy ai có cơ hội đọc Cuốn
Hồ sơ Nhân Quyền: Phúc trình của phái đoàn điều tra Phật giáo. Bản báo
cáo đầy đủ của Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc phỏng vấn các nhân
chứng nạn nhân, 1963. Và khi về họ đã đi đến kết luận: Không có đàn áp
tôn giáo ở Việt Nam.
Và nếu ai cũng có cơ hội đọc được cuốn này thì hiểu rõ thực chất vụ tranh đấu Phật giáo, tránh được biết bao tranh cãi vô ích?
Về sách Mỹ liên quan đến Phật giáo, tôi rất trân trọng với cuốn: Lotus
Unleashed, The Buddihst Peace movement in South Vietnam 1964-1966 của
Robert J. Topmiller. 2002.
Đọc cuốn này để hiểu Trí Quang là ai? Và Phật giáo trong giai đoạn
1964-1965 thực chất là một lực lượng chính trị đi song song với MTGPMN.
Tuy nhiên, cá nhân tôi bắt đầu lưu ý tới ông Ngô Đình Cẩn khi được Trung
tá Nguyễn Văn Minh, Văn phòng ông Cẩn trong 9 năm viết hai cuốn sách:
Dòng họ Ngô Đình, giấc mơ chưa đạt và cuốn thứ hai gần đây: Dòng họ Ngô
Đinh, Giấc mơ bị phản bội. Tôi có cơ hội hiểu biết thêm về ông và những
nguồn dư luận bên ngoài.
Tuy nhiên, tôi chỉ thực sự chú trọng tới hồ sơ Ngô Đình Cẩn khi được đọc
các tài liệu phía bên kia: Cuốn Bội Phản hay Chân Chính của Dư Văn Chất
cũng như bài “Nhà văn bất đắc dĩ” của Dư Văn Chất. (Tài liệu này được
Dư Văn Chất trao cho Nguyễn Văn Trung khi ra hải ngoại).
Tài liệu tiếp theo là của Mười Hương trong cuốn: Tình Báo Chiến Lược. Và
cuốn mới đây nhất cũng chỉ nhắc lại những ý kiến trước đây: cuốn Trần
Quốc Huong, người chỉ huy tình báo, do Nguyễn Thị Ngọc hải chấp bút,
2015.
Nhưng tôi phải thú thực cuốn sách có khả năng lôi cuốn và thuyết phục
tôi một cách mãnh liệt và dứt khoát là cuốn sách của luật sư Võ Văn
Quan, lúc còn in trên báo Ngày Nay, năm 1992 trở đi: Luật sư Nghề hay
Nghiệp. Nay luật sư cũng đã không còn nữa.
Tôi viết bài này phần lớn dựa trên tài liệu của tác giả, người đã hết
lòng biện hộ cho Ngô Đình Cẩn. Và nay cúi mình trước vong linh cả hai
người: kẻ bị cáo và kẻ biện hộ.
Tiếp theo là các bài phỏng vấn giá trị của Ls Lâm Lễ Trinh với những
nhân vật như tướng Nguyễn Khánh (Bài phỏng vấn Nguyễn Khánh nay không
còn truy cập được nữa) Tôn Thất Đính, đại tá Nguyễn Văn Y, Tướng Huỳnh
Văn Cao, v.v..
Cũng không thể nào không nhắc đến các bài phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc
phỏng vấn Trung tá Trần Văn Thưởng, trung tá Nguyễn Văn Minh.
Sau đó đến bài viết của tác giả Tú Gàn lên án kết tội tướng Khánh. Cũng
như ông Bùi Duy Liêm, đài truyền hình Hoa Thạnh Đốn, phỏng vấn tướng
Nguyễn Khánh và trong bài phỏng vấn này đã tránh né một cách vụng về
những luận điểm của Tú Gàn.
Trong phần này, chúng tôi ghi lại những gì tướng Khanh nói để trả lời
những lời kết án ông trong âm mưu giết Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và
Đặng Sỹ.
Tướng Khánh trả lời phỏng vấn của đài truyên hình Hoa Thịnh Đốn.
Trong dịp trả lời phỏng vấn của đài Truyền hình Việt Nam tại Hoa Thạnh
Đốn THVN-HTĐ ở vùng thủ đô Washington do ông Bùi Dương Liêm phụ trách.
Người phỏng vấn đã đề cập đến việc ai ra lệnh giết ông Ngô Đình Cẩn để
hỏi tướng Khánh.
Tướng Khánh cho biết: ông rất quý mến ông Ngô Đình Cẩn, vì ông Cẩn là người hy sinh để ở nhà lo cho mẹ, thay cho các anh.
Nhưng ông đã trả lời vụng về là ông không còn nhớ ông hay ông Dương Văn Minh đã ký các sắc luật ấy.
Ông đã tìm hết cách cứu mạng ông Ngô Đình Cẩn. Ông nhìn nhận là chính
ông ký sắc lệnh bổ nhiệm các sĩ quan trong bồi thẩm đoàn trong đó có
Đặng Văn Quang là người công giáo, rất thân cận với ông Cẩn cũng như hai
sĩ quan công giáo khác và hai sĩ quan Phật giáo.(Thật ra chỉ có 4 bồi
thẩm đoàn, không phải năm). Và ông hy vọng ba sĩ quan công giáo sẽ bỏ
phiếu không kết án tử hình ông Cẩn.
Nhưng theo ông Khánh, cuối cùng thì Ông đại tá Quang đã không làm gì cả.
Mặt khác thì Đỗ Mậu mỗi ngày cũng đến hầu tòa và dọa mấy ông ngồi trên
đó.
Khi hay tin ông Cẩn bị giết, cũng theo lời tướng Khánh nói, ông đau đớn
lắm. Ông nói ông có liên hệ gia đình với ông Ngô Đình Diệm gần lắm,
người ngoài không biết. Ông cũng từng nói với ông Dương Văn Minh, lúc đó
làm Quốc Trưởng, quyền tha hay giết ông Cẩn là quyền của tướng Dương
Văn Minh. Quốc Trưởng có thể đổi án tử hình thành tù chung thân, tại sao
không làm như thế.
Ông Khánh còn cho rằng các tài liệu liên quan đến vụ án Ngô Đình Cẩn nay không còn nữa, ai tố cáo ông, xin nêu ra bằng cớ đi.
Ông Bùi Dương Liêm có đặt ra câu hỏi: “Luật tòa án Măt trận không được
kháng án. Ai đặt ra luật đó?” Ông Khánh nói “Tôi không biết. Nhưng cứ
cho tôi coi tài liệu!”
Trong đó, ông đặc biệt nhắc đến trường họp nhà báo Tú Gàn, tức Lữ Giang
trong một bài báo viết tại California. Sau đó Tú Gàn có bài viết trả lời
ngày 12.4.2009.
Tôi nghĩ rằng, Dương văn Minh được ông Khánh dựng lên, rồi bỏ đi như một
thứ vật làm vì. Quyền hành tuyệt đối nằm trong tay một mình Nguyễn
Khánh.
Tướng Nguyễn Khánh cũng như các tướng lãnh khác, cho đến khi chết, không một ai dám nói sự thật.
Đấy là sự thật trên cả sự thật. Họ tất cả đều hèn nhát.
Ghi lại quang cảnh ngày ông Ngô Đình Cẩn ra pháp trường do các nhà báo ghi lại tại chỗ.
Sau đây, chúng tôi xin trích nguyên văn quang cảnh pháp trường trong vụ
xử ông Cẩn. Có lẽ chính trong cái bầu khí đượm chết chóc và thê lương ấy
cho thấy cái không khí ấy rùng rợn như thế nào. Và chính cái chết ấy có
thể để lại cho mỗi người chúng ta một bài học!!
Nhà báo Lý Quý Chung.
Một nhà báo trẻ tuổi Lý Quý Chung lúc bấy giờ, hẳn là không có mối hận
oán gì với chế độ Đệ Nhất cộng hòa đã ghi lại tóm tắt như sau.
“Tôi vẫn nhớ thái độ ông Cẩn trước tòa án rất ngạo mạn, ông chẳng quan
tâm gì đến diễn tiến phiên tòa. Chẳng chú ý tới các lời buộc tội ông.
Ông mặc bộ đồ bà ba lụa mầu trắng, mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các
phiên xử. Nhiều lúc còn có cử chỉ tỏ vẻ khinh miệt khi các tướng tá đang
ngồi xử mình.”
Và lúc bị đưa ra hành quyết, Lý Quý Chung viết:
“Ông bị trói chặt vào cột hành quyết và lúc sắp sửa bị bịt mắt, muốn
được nhìn tận mắt cuộc hành quyết mình. Nhưng người thi hành án giải
thich với ông rằng luật lệ không được phép cho họ làm khác. Người ta vẫn
bịt mắt ông và một loạt súng kết liễu mạng sống của người thứ ba và là
em út trong dòng họ Ngô từ sau cuộc đảo chính 1-11-1963.
Bài tường thuật của tôi nhấn mạnh hai điểm: Ông Cẩn không sợ cái chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử ông ta tại tòa.”
(Nguyễn Văn Lục, Đọc Nhật ký của im lặng của Lý Quý Chung)
Theo tôi, bài báo tuy tóm tắt. Nhưng ý nghĩa phiên tòa xử cũng như ý
nghĩa cái chết đã nói lên đủ về con người ông Cẩn. Dư luận có thể coi
thường ông, coi ông là lãnh chúa độc ác, là hung thần! Nhưng trước lúc
đối diện với cái chết can đảm của ông buộc mọi người phải nghĩ lại về
ông.
Tin và bình luận trên báo Chính Luận ngày 12-5-1964, “Báo chí Thủ đô và hai vụ hành quyết Cẩn, Đông”
“Khoảng 18 giờ 27 phút, im lặng đến tức tưởi, đòi hỏi sự phựt đứt ngay trong khoảng 1,2 tích tắc.
10 Quân Cảnh ( QC) ngắm vào cái đích là tử tội. 10 QC đều biến thành 10
cái tượng, không nhúc nhích. Lần đầu tiên trong đời, tôi nghe được sự im
lặng lạ lùng ma quái. Sân banh sắp chuyển theo một cái chớp mắt của
thời gian để chính thức biến thành một Pháp trường. Vẻ nhợt nhạt của
kiếp sống lởn vởn trong không khí. Khẩu lệnh “bắn” được phát ra, những
tiếng nổ giòn mang ý nghĩa của những tiếng giải thoát che lấp một phần
nào sự trống phẳng.
Tử tội ngoẹo đầu sang phía tay mặt, gục xuống, bàn tay trái có máu, cả
thân hình sụm đổ, nhưng bị giữ lại nửa vời thân trên tách khỏi cái cột
nhô về trước. Máu túa ra nhiễu ở ống quần chân mặt, đỏ tươi. Hai chân tử
tội gập khúc nơi đầu gối, xoạng ra, cong vòng.
Sự im lặng biến thành ghê rợn, nghe rõ tiếng quần áo của tử tội phất
theo gió thổi. Người chỉ huy 10 quân cảnh, chạy tới bên tử tội – bây giờ
là một tử thi – dùng súng ngắn bắn phát thi ân vào đầu. Bác sĩ khám
nghiệm và xác nhận một cái chết, chiếc cáng trắng mới rồi đưa tử tội từ
khung cửa sổ có song sắt lại được mang ra.
Người ta tháo dây trói cho tử tội, thật lúng túng, sau nhờ bàn tay
chuyên môn của ông Phối mới xong. Thây tử tội được đặt trên cáng, đưa
trở vào khung cửa sổ có song sắt, đóng lại.”
Và ông (Chu Tử) kết:
“Người đã chết, không còn là “người” nữa nên hết là kẻ thù của chúng ta.
Chúng ta, đều muốn gạt họ qua một bên, gửi vào quên lãng, nhưng cần
phải có một thời gian và một thực tế đẹp đẽ để niềm vui xóa nhòa những
nghẹn ngào bi thảm hôm qua.”
Một vài nhận xét của báo Chính Luận ngày 12-4-64.
Không hiểu nhà văn Chu Tử có vạch đầu gối ra để nói chuyện hay không.
Chỉ biết ông công nhận cho Cẩn một điểm là Cẩn đã biết chết tương đối
đàng hoàng. Ông cho rằng
“trong lúc sắp bắn Cẩn giữ sự im lặng hoàn toàn đến nỗi các ký giả ngồi
cách xa hơn 10 thước còn nghe thấy hơi thở, mồ hôi của Cẩn và tiếng gió
thổi phành phạch vào ống quần trắng của Cẩn.”
Cảm tưởng chung của ông là:
“Cẩn chết là đáng vô cùng, nhưng án tử hình là một án không nên tồn tại
trên thế gian. Trên thế gian này, không ai nên nhân danh công lý hoặc
nhân danh cách mạng, hoặc nhân danh nền văn minh nhân loại để tỗ chức
“lễ” bắn một người khác dù là một kẻ trọng tội chồng chất trăm nghìn tội
ác trên đầu như Cẩn.”
Tôi không thấy cần thiết phải có thêm ý kiến gì nữa, vì tờ Chính Luận khi đăng lại bài viết của Chu Tử, họ đã có ý kiến rồi.
Bài viết của Ký giả Nam Đình, báo Thần Chung
Sau đây là bài viết của ký giả kỳ cựu Nam Đình, báo Thần Chung. Một tờ
báo bị ông Diệm đóng cửa ngay giai doạn 1954, vì nghi ngờ là tờ báo
thiên Cộng. Ông viết:
“Tưởng chừng mình đau khổ vì tinh thần hơn ai hết, khi phải chịu đựng 9
năm trời: từ 1954, Diệm hạ lệnh đóng cửa Thần Chung. Tội gì?”
Ông đã tham dự các phiên tòa xử 42 trí thức bị mật vụ tra tấn và khảo
của, ngày 23-6-64. Vụ 13 nhân viên cao cấp trong ngành Cảnh sát Quốc
gia, Chúa nhật 18, thứ hai 19-7-65.
Và dĩ nhiên, trong đó có vụ xử Ngô Đình Cẩn mà nhà báo Nam Đình đã đặt
ra với rất nhiều tiêu đề như: Cả ba anh em Diệm Cẩm, Nhu chết hụt nhiều
lần. Diệm thoát chết hồi 1945. Ai cho Cẩn hay giờ hành quyết. 12 giờ
trưa mà Cẩn không đói. Khi hay tin không được ân xá. 10 phút riêng với
cha Thí. Tên Thánh của Cẩn. Tại sao bịt mắt tôi. Những chi tiết. Ngô
Đình Cẩn trối trước giờ chết.
Với một giọng văn có sự miệt thị và hận oán không cần thiết đối với một
tử tội. Tôi không phục tư cách hành nghề của ký giả Nam Đình. Ông thiếu
hẳn một tấm lòng cũng như thiếu hẳn tư cách của một ký giả chuyên nghiệp
trước một tử tội. Tôi xin trích dẫn:
“Trong vụ xử bắn Ngô Đình Cẩn, ngoài những người có trách nhiệm như ông
Chưởng lý Nguyễn Văn Đức, Thừa phát lại Lâm Văn Sáu, bác sĩ Phúc, đại tá
Bùi, Quân vụ Thị trấn ngoài ra còn có ông Lục Sự, Cha Thí (Linh mục của
Trung tâm cải huấn Chí Hòa) Và ông Trung tá Quản đốc Trung tâm cải huấn
và hai hiến binh. Tất cả đám người này đã lên lầu ba, nơi Cẩn bị giam
giữ. Ông Cẩn đã nằm nghe ông Lục sự đọc bản án tử hình, có lẽ đến hơn 10
phút. Sau bản án tử hình, tới sắc luật Quốc Trưởng bác đơn ân xá.
Khi nghe ông Lục sự đọc tới đây, Ông Cẩn đưa tay lên kệ, lấy xâu chuỗi mà người Thiên Chúa giáo thường có.
Ông Cẩn đọc kinh lần chuỗi
Ông Lục sự hỏi:
Ông có tuyên bố gì không?
Cẩn nói:
Tôi cầu nguyện cho Quốc Gia Việt Nam… Tôi sẵn sàng chết.”
“Súng nổ đúng 6 giờ 20 phút. Chùa Bửu Liên? Sự ngẫu nhiên là Hòa thượng
đọc kinh lúc Ba Cụt Lê Quang Vinh lên gươm máy Cần Thơ, lại là Hòa
thượng ở chùa Bửu Liên. Một sự tình cờ khác là Ngô Đình Cẩn day mặt về
hướng chùa Bửu Liên lúc thọ hình. Cũng như Diệm Nhu được đưa xác vào nhà
thương St Paul gần chùa Xá Lợi!”
(Trích Ký giả Nam Đinh, Báo Thần Chung, 9-5-64)
Linh mục Thí làm lễ rửa tội cho Ngô Đình Cẩn trước giờ ra pháp trường. Nguồn: http://kienthuc.net.vn
Gớm thay tâm địa con người và nghề làm chính trị thật nhiều nỗi oan khiên!
Ngoài ra còn có khoảng có 200 người đến tham dự như gia đình bị can, đại
diện báo chí, đại diện cho đủ mọi thành phần xã hội, cho cả người xấu
lẫn kẻ tốt, đại diện cho công lý của giới quan tòa, thẩm phán, luật sư.
Đại diện cho dư luận báo chí cũng có. Như Chu Tử ở trên, như Nam Đình,
như Lý Quý Chung. Đại diện cho giới Phật tử cũng có, giới tu sĩ công
giáo cũng không thiếu.
200 người này có thể còn đại diện cho những người không có mặt, đang
ngồi ở nhà theo dõi trên báo chí truyền thanh như trường họp Nguyễn
Khánh, Dương Văn Minh và cả Trí Quang.
Ai là người cảm thấy mình vô tội? Chu Tử ở trên cũng nhận xét là Ngô
Đình Cẩn chết đàng hoàng? Thế nào là chết đàng hoàng? Sống không đàng
hòang mà chết lại đàng hoàng? Rồi một lần nữa vừa kết án, vừa quân tử
tàu khuyên: “không ai nên nhân danh công lý hay cách mạng … để rồi tổ
chức “lễ” bắn một người khác như Ngô Đình Cẩn.”
Đọc bài tường thuật trực tiếp trên báo chí thời 1964, tôi liên tưởng đến
câu chuyện Chém treo ngành của nhà văn Nguyễn Tuân, ghi lại khung cảnh
xử chém những người tử tù của chính quyền thực đân Pháp.
Mặc dầu sự liên tưởng này không nhất thiết có cùng một nội dung và hoàn
cảnh. Nhưng bầu khí tử thần lảng vảng đâu đó thì ở đâu cũng vậy, thời
nào cũng thế.
Chết trở thành một thông điệp của người chết để lại cho người còn sống.
Nhưng nó đều giống nhau ở cái không khí lành lạnh, mùi tử khí luẩn quẩn đâu đây với sự thê lương và im lặng ma quái.
Và trong cái giờ phút ấy, những kẻ gây ra “tội ác” ấy nghĩ gì? Ai là
người đưa Ngô Đình Cẩn đến chỗ chết? Câu hỏi ấy chỉ quan trọng đối với
người còn sống, nhưng lại trở thành vô nghĩa đối với người chết.
Tôi là người còn sống nên tôi có dịp dở lại đọc tờ báo Lập Trường, cơ
quan tranh đấu của Hội Đồng Nhân dân cứu quốc ngoài Huế có bài viết sặc
mùi sắt máu: Đồng bào Huế và Trung Việt nghĩ sao? Đặng Sỹ ra tòa tại Sài
gòn? Theo bài báo: Lúc xử ông Ngô Đình Cẩn, tất cả các báo Sài Gòn đều
viết rằng nhân dân đã xử ông Cẩn trước khi tòa án xử. Đối với Đặng Sĩ
cũng vậy, nhân dân đã xử rồi chứ đâu có tòa án cách mạng? (Báo Lập
Trường, tháng 6, 1964)
Như vậy cái chết của Ngô Đình Cẩn là do Nhân dân xử mà những vị như ông
Thẩm Phán Lê Văn Thụ chỉ là người thừa hành ý của nhân đân? Rồi luật sư
biện hộ như Võ Văn Quan hẳn là biết rõ công việc mình làm và đã làm một
cách hết mình, cô đơn trong những ngày xử án?
Chính cái Hội Đồng ấy gián tiếp giết Phan Quang Đông, rồi Ngô Đình Cẩn. .
Sức mạnh của Hội đồng ấy sau trở thành như một chính phủ “ma”. Chính Hội
đồng ấy phủ nhận chính phủ Tam đầu chế (ông Minh- ông Khánh-ông Khiêm).
Và rồi ông Minh và ông Oánh phải lục tục kéo nhau ra Huế để thỉnh ý Hội
Đồng. Hội Đồng với quyền lực thương thuyết tay đôi với chính phủ. Tại
nhiều tỉnh miền Trung, nhiều Hội Đồng đã được thiết lập và người ta đã
chứng kiến cái tấn bi hài kịch của những người dư đảng Cần lao ra trình
diện ông Tỉnh trưởng. Ông Tỉnh trưởng lại chuyển qua Hội Đồng xét xử.
Cho nên, cái chết của Ngô Đình Cẩn chung cuộc là để thỏa mãn lòng hận
thù được ngụy trang đưới cái được gọi là Nhân Dân? Nhưng Nhân dân là ai
mới được?
Trong lời khởi đầu bài biện hộ, luật sư Quan đã nói:
“Tôi khởi đầu với một giọng trầm trầm: “ Bên ngoài là cả một biển hận
thù. Hận thù đối với chế độ đã bị lật đổ, hận thù đối với bị can Ngô
Đình Cẩn, đã thành là biểu tượng của Ngô triều. Tòa chưa xử, nhưng đã có
nhiều người nhứt quyết đòi cho được một bản án tử hình, đòi mạng phải
đền mạng, nợ máu phải trả bàng máu.”
(Võ Văn Quan, Ngay Nay, số 108, tháng 2-3-93)
Theo tôi, giết ông Ngô Đình Cẩn là một cái chêt vô ích cho mọi phía. Cùng lắm chỉ thỏa mãn lòng hận thù của một thiểu số người
Tuy nhiên, theo tôi giữa cái chết của anh em ông Ngô Đình Diệm-Ngô Đình
Nhu và cái chết của ông Ngô Đình Cẩn có những sự khác biệt nên nói ra.
Trong vụ thảm sát anh em ông Diệm-ông Nhu. Cho đến giờ này, mọi người
trong cuộc đều không nhìn nhận là kẻ trực tiếp ra lệnh giết ông Diệm. Để
tránh né, hay chạy tội, không một tướng lãnh nào đã nhận giết ông Diệm,
ngay cả cái người được coi là chủ mưu với nhiều bằng cớ như Dương Văn
Minh. Dương Văn Minh đã tìm cách đổ lên đầu Nguyễn Văn Thiệu! Nguyễn Văn
Thiệu đã phản ừng một cách quyết liệt và chê trách Dương Văn Minh hèn.
Phần đông, cách hay nhất là cứ đổ thừa cho ông Cabot Lodge hay người Mỹ
đã chủ mưu giết anh em ông Ngô Đình Diệm.
Dương Văn Minh là một Pilate của thời đại, rửa tay để như thể không dính vào máu cho đến lúc ông chết.
Theo tôi, ông Diệm và ông Nhu bị giết chết không phải vì căm thù mà vì
cái tai họa phát xuất từ chính họ, bởi vì họ còn quá mạnh. Tướng lãnh
quá sợ hãi hai người họ, nhất là ông Nhu. Vì thế cách tốt nhất là trừ
hậu họa để tránh một sự lật ngược thế cờ như hồi 1960 thì số phận họ sẽ
ra sao?
Cái chết của hai anh em ông Diệm là để trừ hậu họa mà người Mỹ có thể bất lực không can thiệp được hoặc gián tiếp chấp nhận!
Mới đây, nhà báo kỳ cựu Nguyễn Ngọc Linh vừa mới qua đời, tờ Người Việt
đã cho phát lại 6 buổi phỏng vấn ông Nguyễn Ngọc Linh. Trong đó ông
Nguyễn Ngọc Linh cũng nhìn nhận tướng tá VNCH chẳng ra cái gì cả, vừa
không có uy, vừa không có kiến thức nên bắt buộc vì sợ anh em ông Diệm
mà họ phải trừ khử. Và sau đó, họ kéo VNCH xuống hố.
Ông cũng thẳng thắn nhìn nhận, cá nhân ông thương ông Diệm lắm. Ông Diệm
nói tiếng Anh lưu loát, nhưng khi phải tiếp xúc với giới chức Mỹ cao
cấp, bao giờ ông Diệm cũng sai ông Võ Văn Hải kêu ông Nguyễn Ngọc Linh
vào làm thông dịch viên.
Cái chết của ông Ngô Đình Cẩn khác hẳn. Nó là một vụ án chính trị, có
khuôn khổ nằm trong luật 4-64, ký ngày 18 tháng 2, năm 1964 dưới thời
Nguyễn Khánh, cho thiết lập tòa án Cách mạng. Luật này có hiệu lực hồi
tố. Số phận của ông Cẩn nằm trong tay Nguyễn Khánh và cái được gọi là
Nhân dân. Mà nhân đân ở đây cụ thể là Hội Đồng Nhân dân cách mạng ngoài
Huế và một số tỉnh miền Trung như Nha Trang, Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng
Ngãi. rồi cái Hội Đồng ấy đổi ra cứu quốc do Trí Quang và một số giáo sư
đại học Huế chủ trì.
Sở dĩ, tôi có thể nói như thế, vì sau này, trong vụ Biến Động miền
Trung, TT Trí Quang đích thân đị gặp Ls Vũ Văn Quan để nhờ ông biện hộ
cho gà nhà như trường họp bác sĩ Mẫn, Thị trưởng Đà Nẵng.
Cái chết của hai anh em ông Diệm-Nhu, thú thực tôi không học được nhiều
điều và nó cũng chẳng ám ảnh tôi bao nhiêu. Cùng lắm là sự coi thường về
sự bất tài của một số tướng lãnh vì họ làm đảo chánh xong mà không biết
họ phải làm gì, ngoài chuyện ngoan ngoãn vâng lời người Mỹ.
Cái chết của ông Ngô Đình Cẩn trái lại dạy cho tôi nhiều điều về chính
trị đảo điên, về tình đời, về thái độ ứng xử trong hoàn cảnh cay nghiệt.
Và điều quan trọng hơn cả, nếu ông không chịu án tử hình thì thái độ
của tôi đối với ông không mấy tốt đẹp cũng như thiếu sự trân trọng.
Chính cái chết ấy làm cho ông trở thành cao cả và cho thấy cái nhỏ nhen
và tầm thường của nhiều người.
Thái độ của ông cũng như phong cách của ông trước tòa án cúng như khi
đối diện với cái chết làm cho ông lớn lên và cho những kẻ thù ông ngồi
đó nhỏ đi, ti tiện hơn.
Luật sư Quan viết lại trong lần gặp gỡ cuối cùng trước khi ông Cẩn bị
hành quyết ở sân phía sau khám Chí Hòa. Ông Cẩn và luật sư đã nói chuyện
với nhau trong ba tiếng đồng hồ và ông Cẫn đã tâm sự rất nhiều. Và lần
đầu tiên, ông tiết lộ bí mật ông giữ kín từ trước. Ông cho biết rằng bà
Trần Trung Dung có thuật lại với ông là trước khi ông bị đem ra xét xử,
“người ta” (ông vẫn còn dấu không tiết lộ đích danh) hứa nếu ông bằng
lòng chuyển cho “người ta” số tiền mấy triệu đô la trong trương mục của
ông ta tại Thụy Sĩ, ông sẽ được phi cơ lén đưa qua Singapore sống tự do.
Nhưng ông ta biết người đó là kẻ lật lọng, nếu ông lầm tin chuyển tiền
cho họ thì sẽ bị cảnh “tiền mất tật còn” nên ông cương quyết từ chối. Về
sau, nhân dịp một linh mục tới khám Chí Hòa cùng với ông làm lễ, ông ký
giấy ủy quyền cho dòng tu của linh mục ấy lãnh số tiền kể trên, tờ ủy
quyền được giấu trong một quyển kinh sách của vị linh mục. Ông tâm sự:
“Tôi thà dâng cho Chúa chứ không chịu làm giầu thêm cho họ!”
Sau đó, luật sư kết luận:
“Ra về, tôi không khỏi thầm phục con người can trường, biết cái chết thê
thảm đang kề trong gang tấc mà vẫn giữ được phong thái thản nhiên, ung
dung suốt mấy tiếng đồng hồ ngồi trò chuyện với tôi.”
(Võ Văn Quan, Báo Ngày Nay, số 110, tháng 5-93)
Thật vậy, trong những phiên tòa biện hộ. Ls Quan tiết lộ là ông Cẩn chỉ
nhờ ông có một điều- một điều mà ông Quan không muốn nói. Đó là:
“Những nhân chứng này là những người tráo trở, lật lọng, quý tòa không
thể tin vào lời nói của họ được. Họ đã từng khúm núm xưng con với những
người của chế độ cũ. Họ đã từng nịnh bợ đủ cách để xin xỏ ân huệ. Ngày
xưa, họ lòn cúi bao nhiêu thì sau cuộc đảo chánh, họ càng a dua, mạt
sát, chà đạp những người cũ để khỏa lấp quá khứ gian nịnh và lập công
với chế độ mới.”
(Võ Văn Quan, Báo Ngày Nay, số 110, tháng 5-93)
Luật sư Võ Văn Quan cũng liên hệ trường hợp của ông Ngô Đình Cẩn về
những kẻ lật lọng giúp liên tưởng đến trường hợp César thời cổ La Mã.
Brutus vốn là một tướng thân cận của César được coi như một đứa con nuôi
và được César nâng đỡ hết mình. Nhưng đến ngày phe nghịch làm phảm mưu
sát và đâm túi bụi César, ông chống đỡ mãnh liệt. Nhưng khi nhìn thấy
Brutus cũng có mật trong đám sát nhân. César than: Cho đến con mà cũng
phản cha nữa sao? Ròi láy vạt áo bào che mặt, mặc cho những tên sát nhân
chém giết!
Trong số những tướng lãnh của nền Đệ Nhất cộng Hòa, đã có bao nhiêu Brutus?
Nhưng mặt khác, có một nhận xét không thể thiếu được là chính thái độ
đối diện với cái chết bên bờ tử sinh là một thái độ của Ngô Đình Cẩn mà
ít ai sánh bằng theo như lời kể lại của luật sư Vũ Văn Quan!
Và luật sư Võ Văn Quan, người nhận công việc bẽ bàng là biện hộ cho bị
can đã viết trong vụ Đặng Sĩ như sau về việc TT Trí Quang không ra làm
chứng trước tòa:
“Trong thơ, TT tuyên bố sẵn sàng ra tòa khai rõ về những việc đã xảy ra
tại miền Trung, vì chính ông lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy. Dĩ nhiên, tòa
không mời TT Trí Quang ra tòa làm nhân chứng để ông không dùng phiên tòa
làm dĩễn đàn chính trị. Còn truy tố ông, “ họ” dám thì đã làm từ lâu.
Chưa kể đằng sau tòa án, còn có” những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những
thủ đoạn lừa lọc gian manh.”
(Võ Văn Quan, Luật sư Nghề hay Nghiệp, số 100, tháng 5-92)
Đây là tâm sự trao đổi giữa ông Ngô Đình Cẩn và luật sự Quan sau khi Tòa tuyên án tử hình:
“Trước khi vô phòng để nghị án, Tòa cho ông Cẩn nói lời chót. Ông điềm
nhiên chậm rãi nói rằng mình vô tội, không có quyền hành, không ra lệnh
cho các công an viên làm sự phi pháp. Ông không van xin cầu khẩn gì hết.
Ông biết cái luật chơi tàn nhẫn của chính trị và ông có vẻ điềm tĩnh
chấp nhận, mặc dầu đối tượng cuộc chơi là chính sinh mạng của mình.
Sau khi nghị án tới khya. (Tôi đoán rằng họ kéo dài thời gian để nghỉ ngơi, ăn uống) Tòa trở ra tuyên xử tử hình.
Ông Cẩn lặng thinh.
Tôi vịn vai ông an ủi.
Hai quân cảnh bước tới kéo ông đi, khi đến gần tới cửa, bất thần ông
ngoái lại nhìn tôi, đôi mắt bỗng nhiên bi thiết sau cặp kính trắng. Lần
đầu tiên cũng là lần duy nhứt, tôi bắt gặp cái nhìn chới với, bi thiết
như vậy nơi ông Cẩn.
Cho tới bây giờ cái nhìn đó vẫn còn ám ảnh tôi mỗi khi nhớ lại vụ án.”
(Võ Văn Quan, Luật sư Nghề hay Nghiệp, số 110, tháng 5, 1992)
Kết luận
Ông Ngô Đình Cẩn (1964). Nguồn: OntheNet
Nếu cần thiết phải nói thêm điều gì về cái án tử hình của ông Ngô Đình
Cẩn thi tôi chỉ có vài dòng: đây là cái chết của một con dê thế thần.
Ông chết cho gia đinh ông. Cho sự đạo đức thánh thiện dễ tin người của
anh ông Ngô Đình Diệm. Cho sự lú lẫn không phân biệt đạo với đời của một
Ngô Đình Thục, của thói lăng loàn của bà Ngô Đình Nhu.
Và hẳn là ông cũng chết cho nhưng kẻ ám hại ông như Dương Văn Minh- Trần
Thiện Khiêm- Đỗ Mậu- Nguyễn Khánh- Tôn Thất Đính vốn chỉ là bọn tướng
thiếu đức, thiếu tài.
Tôi mượn lời Chúa như một lối giãi bày biểu tuọng trong ngày chịu nạn thay cho ông Diệm và chế độ của ông:
“Pópulé méus, quid fécit tibi? Aut in quo contristávit te? Respónde mihi.”
(Dân ta hỡi, Ta đã làm gì cho ngươi điều gi? Hãy trả lời cho Ta hay.)
“Quia edúxi te de térra Aegýpti: Parasti Crúcem Salvatsritúo.”
(Phải chăng vì ta đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập. Nên vì thế Thập ác ngươi đã dành cho Đấng cứu ngươi).
Tôi rung động khi viết những dòng này.
Và chúng ta đừng quên, ngay một kẻ đã làm theo lệnh của bọn tướng lãnh
trên, số phận anh ta cũng không hơn gi: Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung được
coi là người đã ra tay trực tiếp giết hai hai anh em tt. Diệm.
Cuối cùng ông cũng bị chết thảm – thêm một con dê thế thần- ngay khi
Nguyễn Khánh làm chỉnh lý. Đây là cảnh giết người để bịt miệng!!!
Xin mượn lời sách Thánh như sau:
Hôm nay trong nhà thờ đạo công giáo của tuần thánh, người ta nghe tiếng thày sáu đọc sách Thánh như sau:
“Khi ấy Chúa bảo hai ông MaiSen và Aaron ở Ai Cập rằng, tháng này là
tháng thứ nhất trong năm, tháng thứ nhất trong mọi tháng. Hãy bảo cho
toàn dân biết rằng: Ngày thứ 10 trong tháng này, mỗi họ và mỗi nhà phải
chọn một con chiên. Nếu trong nhà không có đủ người để ăn, thì hãy mời
thêm những người lân cận nhất, đủ để ăn. Phảỉ chọn con chiên đực, trong
sạch được một năm. Các người cũng có thể thay thế bằng một con dê đủ
điều kiện như thế. Hãy giữ nó cho đến ngày 14 tháng này và tất cả dân
chúng Israel sẽ hiến dâng nó vào buổi chiều. Hãy lấy máu nó bôi lên hai
cánh cửa và xà ngang của nhà có người ăn. Trong đêm ấy, hãy ăn thịt
nướng với bánh không men và rau rừng. Đừng ăn sống hoặc luộc, nhưng
nướng. Hãy ăn tất cả đầu, chân và bộ lòng. Không được để thừa đến sáng
mai. Nếu còn thừa thì hãy đốt đi. Đây là cách thức phải giữ trong khi
ăn: Hãy thắt lưng, chân xỏ giầy, và tay cầm gậy. Hãy ăn vội vã vì là
ngày vượt qua, ngày Chúa vượt qua.”
(Theo Cựu ước, lễ ăn thịt chiên là để kỷ niệm ngày giải phóng dân tộc
Israel ra khỏi ách nô lệ Ai cập. Đằng khác, việc hiến dâng còn mang ý
nghĩa như một sự cứu chuộc.: Mọi tội ác của người ta sẽ đổ lên đầu con
chiên đực trong sạch kia và khi con vật được thiêu hủy đi, nó mang theo
luôn tất cả những vết tích nhơ bẩn đó)