Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nạn đói tại Việt Nam năm 1944-1945. Trong ảnh là cảnh trẻ em chết đói ở Hải Hậu (Nam Định ngày nay).
- Nguyên nhân trực tiếp là những hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương. Các cường quốc đang chiếm đóng Việt Nam như Pháp, Nhật Bản
vì mục đích phục vụ chiến tranh đã lạm dụng và khai thác quá sức vào
nông nghiệp vốn đã lạc hậu, đói kém gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh
hoạt kinh tế
của người Việt. Trong khi Nhật thu gom gạo để chở về nước thì Pháp dự
trữ lương thực phòng khi quân Đồng minh chưa tới, phải đánh Nhật hoặc
dùng cho cuộc tái xâm lược Việt Nam.[1] Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói.
- Nguyên nhân gián tiếp là những biện pháp quân sự hóa kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu chiến tranh của chế độ thực dân Pháp tại Việt Nam, do tại nước Pháp khi đó đang có chiến tranh và cũng đang bị xâm chiếm. Sau đó Nhật Bản dùng vũ lực loại bỏ Pháp
chiếm đóng Việt Nam rồi thực hiện các biện pháp khác khốc liệt hơn nhằm
mục đích khai thác phục vụ chiến tranh (bắt nông dân nhổ lúa trồng đay, buộc người dân bán lúa gạo với giá rẻ mạt để chuyển về Nhật).[cần dẫn nguồn]
- Nguyên nhân tự nhiên, thời tiết là yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất lương thực tại miền Bắc. Thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh gây mất mùa tại miền Bắc. Bệnh dịch tả lây lan nhanh và rộng khắp trong mùa lũ cũng góp phần làm tăng thêm nạn đói.
- Nhật cấm vận chuyển lúa từ miền Nam ra Bắc, cũng cấm luôn việc mở
kho gạo cứu đói. Đồng Minh phá hủy các trục đường sắt từ Huế trở ra,
phong tỏa đường biển khiến hàng hóa không lưu thông được.[1]
Chính sách của Pháp
Sau vụ
khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
1930, Pháp quay lại với chính sách
bảo hộ mậu dịch
và độc quyền khai thác Đông Dương theo đường lối thực dân. Toàn thể dân
Đông Dương phải ra sức nâng cao giá trị kinh tế của khu vực, nhưng chỉ
có người Pháp, một thiểu số rất ít người Việt và người Hoa gần gũi với
Pháp hay một số dân chúng thành thị được hưởng lợi. Hậu quả là trước
Đại chiến thế giới lần thứ hai, Việt Nam vẫn chỉ là một xứ lạc hậu và nghèo đói so với nhiều quốc gia
châu Á
khác. Hệ thống thuế nửa thực dân nửa phong kiến khiến cho các hộ nông
dân phải bán gần hết lương thực có được để nộp thuế khiến đa số nông dân
không còn lương thực dự trữ.
Khi Đại chiến thế giới bùng nổ, Pháp bị yếu thế. Tại Đông Á,
Đế quốc Nhật Bản bắt đầu bành trướng và nhìn vào Đông Dương như đầu cầu tiến qua Nam Á và khống chế Trung Quốc. Giữa năm
1940, Pháp bị
Đức
chiếm và Nhật Bản gây áp lực với Pháp để tiến vào Đông Dương. Việt Nam
bị cuốn vào nền kinh tế thời chiến, với việc Pháp và Nhật tranh giành
quyền kiểm soát kinh tế. Người ta nói đến lý do là Nhật Bản bắt dân Việt
Nam trồng đay thay trồng lúa gạo để phục vụ chiến tranh, nhưng thực ra
Pháp đã tiến hành việc ấy từ trước, cụ thể là thu hẹp diện tích canh tác
các hoa màu phụ như
ngô,
khoai,
sắn, để trồng
bông,
đay,
gai
hay cây kỹ nghệ. Sản lượng lúa gạo và hoa màu quy ra thóc tại miền Bắc
giảm xuống rất mạnh do diện tích canh tác bị thu hẹp. Theo thống kê, năm
1940, diện tích trồng đay là 5.000
ha nhưng đến năm 1944 đã tăng lên 45.000 ha.
[1]
Theo ông Hoàng Trọng Miên, trong sách Đệ Nhất Phu Nhân Tập I viết:
Giữa thời kỳ ấy, để phòng ngừa dân miền Bắc nổi dậy,
Pháp tung đám tay sai đi khắp nơi vơ vét hết thóc gạo tải về tập trung ở
các kho dự trữ riêng, lấy cớ là để tiếp tế cho quân đội Nhật. Hết ép
buộc mua rẻ của dân quê, Pháp lại vãi tiền ra mua thóc, ngô (bắp) bằng
một giá cao để thu cho kỳ sạch ngũ cốc hiếm hoi của miền Bắc. Gạo Nam Kỳ
thì không được đưa ra, lấy cớ là phi cơ Đồng Minh ngày đêm không ngừng
bắn phá tàu bè, ghe thuyền, còn đường xe lửa xuyên Đông Dương thì Pháp
dành cho Nhật chuyên chở quân sự. Lúa thừa ở miền Nam chất chứa đầy kho,
Pháp đem đốt thay than củi ở các nhà máy điện.
Dân quê ở Bắc
khởi sự chết đói từ cuối năm 1944. Mùa lúa tháng Mười lại thất bát.
Người có tiền ở thôn quê cũng đành nhịn ăn, vì thóc gạo đã bị lấy sạch.
Tại thành phố, mỗi khẩu phần người Việt đều phải ăn gạo “bông” (phiếu
mua gạo) ở trong tay chính quyền Pháp phân phát.[2]
Theo sách Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4:
Bọn Pháp
Decoux – Morlant, từ mùa gặt cuối năm 1943 đến hai mùa gặt năm 1944,
cũng trưng thâu gạo bỏ vào các kho quân đội Pháp để phòng hờ một cuộc đổ
bộ Đồng Minh vào Đông Dương.[3]
Tác động của Hoa Kỳ
Trong
Chiến tranh thế giới thứ hai Việt Nam bị Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng nên bị quân
Đồng Minh - chủ yếu là Hoa Kỳ - thường xuyên oanh tạc các tuyến đường vận tải để tấn công
quân Nhật Bản. Kết quả là hệ thống giao thông ở
Đông Dương bị hư hại nặng. Tính vào thời điểm năm 1945 thì đường sắt Xuyên Đông Dương không còn sử dụng được nữa và
đường thiên lý Bắc Nam cũng bị phá hoại. Đường biển thì quân Đồng minh đã gài
thủy lôi ở cửa biển
Hải Phòng khiến hải cảng chính ở
Bắc Kỳ cũng không thông thương được.
Chính sách thu gom gạo của Nhật Bản
Trong
thế chiến thứ 2, lãnh thổ Việt Nam nằm dưới sự chiếm đóng của quân đội
Nhật. Gạo và cao su được quân Nhật thu gom, chở về nước hoặc cung cấp
cho quân Nhật đóng ở tiền đồn vùng biển phía Nam. Theo tài liệu của
chính quyền Pháp ở Đông Dương thì về gạo đã xuất ra nước ngoài, năm
1941: 700.000 tấn, năm 1942: 1.050.000 tấn, năm 1943: 950.000 tấn, năm
1944: 900.000 tấn; về cao su và các khoản thương vụ khác trong mấy năm
đầu thập niên 1940 đã xuất số lượng tính ra bằng vàng tổng giá trị là
32.620 kg (tính tròn), tương đương số tiền lúc đó là 22 tỷ Franc
[4].
Năm 1944, Việt Nam bị mất mùa nhưng Pháp và triều đình nhà Nguyễn
vẫn phải cung cấp cho Nhật hơn 900.000 tấn gạo để đáp ứng cho nhu cầu
chiến tranh, làm nguyên liệu để người Pháp nấu rượu, dùng đốt lò thay
cho than đá. Nhật cấm vận chuyển lúa từ miền Nam ra, vơ vét thóc ở miền
Bắc khiến giá thóc, gạo tăng vọt. Năm 1943, một tạ gạo giá chính thức là
31
đồng bạc Đông Dương,
giá chợ đen là 57 đồng; năm 1944 tăng lên 40 đồng, giá chợ đen là 350
đồng, nhưng đến đầu năm 1945 thì giá chính thức vọt lên 53 đồng còn giá
chợ đen từ 700-800 đồng.
[1]
Nạn nhân nạn đói năm 1945
Vì chiến cuộc lượng gạo chở bằng thuyền từ trong Nam ra Bắc bắt đầu giảm từ 126.670
tấn (
1942) xuống còn 29.700 tấn (
1943), và đến năm
1944 chỉ còn 6.830 tấn.
[5] Tàu bè chở gạo ra bắc chỉ ra được đến Đà Nẵng. Khi không quân Đồng minh mở rộng tầm oanh kích thì tàu chở gạo phải cập bến ở
Quy Nhơn rồi cuối cùng chỉ ra được đến
Nha Trang. Năm 1945
Chính phủ Trần Trọng Kim phải huy động những phương tiện thô sơ chuyển vận
gạo từ Nam ra Bắc bằng xe bò hay thuyền nhỏ. Cùng lúc đó thì lượng gạo tồn kho ở
Sài Gòn lên cao vì không
xuất cảng sang Nhật được khiến chủ kho phải bán rẻ dưới giá mua. Hơn 55.000 tấn gạo phải bán tháo cho các xưởng nấu
rượu vì nguy cơ gạo ứ đọng sẽ mốc trong khi nạn đói hoành hành ở ngoài Bắc.
[6]
Đối với Pháp và Nhật Bản thì cả hai đều chú tâm vào những mục tiêu khác cho nhu cầu chiến tranh của họ. Chính
Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux từ trước năm 1945 đã ra lệnh trưng thu thóc gạo để chở sang Nhật theo thỏa thuận với
Đế quốc Nhật Bản. Giá gạo thị trường lúc bấy giờ là 200
đồng bạc Đông Dương một
tấn nhưng nông dân chỉ được trả 25 đồng.
[7]
Bản thân lực lượng quân quản Nhật cũng thi hành chính sách "Nhổ lúa
trồng đay", do cây đay là nguyên liệu quan trọng cho sản xuất quân
trang, quân phục.
[cần dẫn nguồn]
Tình hình càng khó khăn thêm khi Nhật đảo chính Pháp vào tháng 3
năm 1945 nên bộ máy chính quyền của Pháp nhanh chóng tan rã. Việc tiếp
vận và phân phối sau đó càng bị tê liệt. Nạn thiếu ăn biến thành nạn
đói, đã manh nha từ đầu năm 1944 nay càng thêm trầm trọng.
Đế quốc Việt Nam do
Trần Trọng Kim
làm thủ tướng ra chấp chính từ tháng 4 năm 1945 đã cố gắng huy động
việc cứu đói cho dân ngoài Bắc nhưng những yếu tố chính trị, phương tiện
và nhân sự phần nhiều vẫn nằm trong tay người Nhật nên Đế quốc Việt Nam
không làm thuyên giảm được hậu quả ghê gớm của nạn đói.
Đa phần các kho thóc có khả năng cứu đói trực tiếp tại miền Bắc
khi đó đều nằm trong tay quân đội Nhật. Người Nhật vì mục đích chiến
tranh đã thờ ơ trước sự chết đói hàng loạt của dân bản địa. Các kho
lương thực được tăng cường bảo vệ, hoạt động trưng thu và vận chuyển
lương thực được bảo vệ tối đa. Các kho thóc trở thành tâm điểm nơi người
đói kéo về nhưng không được cứu đói đã nằm chết la liệt quanh đó.
Về việc cứu đói, đến tận tháng 6, chính phủ Trần Trọng Kim vẫn
không làm được điều mình hứa hẹn. Báo Ngày Nay xuất bản tháng 6/1945
nhận xét về sự bất lực hoàn toàn của chính phủ này, viết
[8]:
- “Chúng tôi nhận thấy ai ai cũng thất vọng và chán nản, vì sau
hai tháng hô hào và tốn bao giấy mực, dân đói miền Bắc cũng chưa thấy
một bao gạo nào ở Nam đưa ra. Lời tuyên bố của thủ tướng còn vang vọng
bên tai ta: “Cần nhất là phải tiếp tế cho dân đói miền Bắc” mà tới nay
việc làm vẫn chưa đi theo lời nói; tuy rằng gạo miền Nam vẫn chất đầy
trong các kho, các nhà máy, tuy rằng giấy bạc vẫn nằm từng xấp dày trong
các két sắt của nhà tư sản Việt Nam, tuy rằng nội các vẫn có một bộ
tiếp tế và một bộ tài chính"
Về vấn đề này, nhà sử học
Trần Văn Giàu chỉ ra nguyên nhân của sự bất lực này là do tính chất
bù nhìn của chính phủ Trần Trọng Kim:
Lẽ dĩ nhiên, nguyên nhân trận chết đói năm 1945 chủ
yếu không phải là do chính phủ Trần Trọng Kim mà là do chế độ thực dân,
là chính sách tàn bạo của Pháp – Nhật. Sự bất lực của chính phủ Trần
Trọng Kim phần lớn là do tính chất bù nhìn của nó. Nó không thể bớt chỗ
nào thừa cho chỗ không có. Nó không thể chống nạn đầu cơ ở miền Bắc lúc
ấy vẫn còn gạo trong các kho của quân phiệt Nhật. Nhật tích trữ lương
thực để nuôi quân. Từ 9-3 đến giữa tháng 6, việc thu thóc tạ vẫn được
thi hành trong lúc hàng chục vạn đồng bào ta chết rũ dọc đường xó chợ.
Chính phủ Trần Trọng Kim đâu dám đụng đến việc thu thóc tạ, càng không
dám đụng đến kho thóc. Chính phủ đã cam đoan với Nhật là tiếp tế cho
Nhật bằng hay hơn Pháp, để xứng đáng với cái độc lập mà Nhật ban cho!
Cả chính phủ Trần Trọng Kim và Nhật đều bắt buộc mọi sự vận chuyển
thóc gạo từ Nam ra Bắc đều phải qua “Ủy ban thóc gạo” ở Sài Gòn mà ủy
ban này do công ty Nhật nắm. Khi tải ra đến Bắc thì phải gom gạo cho
công ty thóc gạo Bắc kỳ 75% số lượng, công ty này lo bảo đảm trước hết
lương thực cho quân Nhật, còn lại mới bán cho dân
Không những vậy, Đạo dụ của chính phủ Trần Trọng Kim ngày 13/6/1945
còn quy định: ai phạm việc phá hoại cầu cống, đường sá, cướp phá hoặc
làm hư hại kho ngũ cốc, đồ ăn, gạo, đều bị kết án
tử hình.
Đạo dụ cũng cấm chỉ mọi cuộc tụ tập trên 10 người. Vì đạo dụ này, nhân
dân không dám tập hợp nhau kéo đi phá kho thóc để chia cho người đói,
hàng chục vạn người đã chết đói ngay bên ngoài cửa những kho thóc còn
đầy ắp
[8]
Thiên tai
Ngoài
bối cảnh chiến tranh, chính trị và kinh tế, tình hình thời tiết ngoài
Bắc cũng đã góp phần trong những động lực tạo ra nạn đói. Mùa màng miền
Bắc bị
hạn hán và
côn trùng
phá hoại, khiến sản lượng vụ đông-xuân từ năm 1944 giảm sụt khoảng 20%
so với thu hoạch năm trước. Sau đó là lũ lụt xảy ra làm hư hại vụ mùa
nên nạn đói bắt đầu lan dần. Mùa đông năm 1944-45 khắc nghiệt thay cũng
lại là một mùa đông giá rét khiến các hoa màu phụ cũng mất, tạo ra những
yếu tố tai ác chồng chất giữa bối cảnh chiến tranh thế giới. Tháng
9/1944, lụt vỡ đê La Giang (Hà Tĩnh), đê sông Cả (Nghệ An) cùng tình
trạng mất mùa ở các tỉnh Bắc Bộ cuối năm 1944 làm cho nạn đói diễn ra
trầm trọng hơn. Theo những người dân trải qua nạn đói ở Tây Lương (
Tiền Hải, Thái Bình) thì vụ mùa năm 1944, lúa trên các cánh đồng rộng hàng trăm mẫu đều bị rầy phá hoại.
[1]
Hệ lụy
Xương sọ người chết đói 1945 được xếp lại trong hầm tại nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội.
Không có số liệu chính xác về số người đã chết đói trong
nạn đói
này, một số nguồn khác nhau ước tính là từ khoảng 400.000 đến 2 triệu
người đã bị chết đói tại miền bắc Việt Nam. Tháng 5 năm 1945, bảy tháng
sau khi trận đói bùng nổ tại miền bắc, toà khâm sai của triều đình Huế
tại
Hà Nội
ra lệnh cho các tỉnh miền Bắc phúc trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo
cáo số người chết vì đói tổng cộng là hơn 380.000, chết vì bệnh – không
rõ nguyên nhân – là hơn 20.000, tổng cộng 400.000 cho riêng 20 tỉnh ở
miền bắc. Tháng 10 năm 1945, theo báo cáo của một quan chức quân sự của
Pháp tại Đông Dương khi đó là tướng Mordant thì khoảng nửa triệu người
chết. Toàn quyền Pháp
Jean Decoux thì viết trong hồi ký của ông về thời kỳ cầm quyền tại Đông Dương
"À la barre de l’Indochine"
– là có 1 triệu người miền Bắc chết đói. Năm 1959, Chính phủ Nhật Bản
đã đàm phán với chính quyền Ngô Đình Diệm về việc bồi thường chiến
tranh, phía Nhật cho rằng có khoảng 300.000 nạn nhân chết đói, trong khi
chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra con số 1.000.000 người. Mức bồi thường
cuối cùng được thống nhất là 14 tỉ 40 triệu yen (khoảng 39 triệu đôla
Mỹ) vào năm 1960, chia ra thì mỗi mạng người Việt chết đói chỉ bằng một
nhúm tiền lẻ
[9]
Về sau, qua khảo sát hộ khẩu các tỉnh miền bắc, các nhà sử học
Việt Nam ước đoán là từ 1 đến 2 triệu người đã chết đói. Con số 2 triệu
người chết cũng là điều
Hồ Chí Minh có nhắc đến trong bài
Tuyên ngôn Độc lập ngày
2 tháng 9 năm 1945.
Nhiều làng xã chết 50-80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết
không còn ai. Làng Sơn Thọ, xã Thụy Anh (Thái Thụy, Thái Bình) có hơn
1.000 người thì chết đói mất 956 người. Thôn Thạch Lỗi (nay là thôn
Quang Minh), xã Thạch Lỗi, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc (nay thuộc
thành phố Hà Nội) gần như cả thôn đều chết đói (trừ trẻ em). Chỉ trong 5
tháng, số người chết đói toàn tỉnh lên đến 280.000 người, chiếm 25% dân
số Thái Bình khi đó. Lịch sử đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Sơn
Bình cũ ghi rõ:
"Trong nạn đói năm 1945, khoảng 8 vạn người (gần 10%
dân số trong tỉnh) chết đói, nhiều nơi xóm làng xơ xác tiêu điều, nhất
là ở những nơi nghề thủ công bị đình đốn. Làng La Cả (huyện Hoài Đức) số
người chết đói hơn 2.000/4.800 dân, có 147 gia đình chết không còn một
ai. Làng La Khê (xã Yên Nghĩa, Hoài Đức) có 2.100 người thì 1.200 người
chết đói, bằng 57% số dân". Trong cuốn "Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử" của GS Văn Tạo thống kê:
-
- "Riêng tỉnh Thái Bình, nơi nạn đói diễn ra trầm trọng
nhất, đã được Ban lịch sử tỉnh điều tra, con số tương đối sát thực tế
là cả tỉnh chết đói mất 280.000 người. Chỉ tính số người chết đói ở Thái
Bình cùng với Nam Định hơn 210.000 người, Ninh Bình 38.000, Hà Nam chết
50.000 thì số người chết đói đã lên đến hơn 580.000. Như vậy, con số 2
triệu người Việt Nam chết đói trong 32 tỉnh cũ tính từ Quảng Trị trở ra
và hai thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng là gần với sự thực".[10]
Không chỉ làm số lượng lớn người chết đói, nạn đói còn khiến hàng
trăm ngàn người phải rời bỏ quê hương, ly tán khắp nơi, nhiều người
không còn quay về quê quán. Nhiều gia đình, dòng họ bị tan vỡ sau nạn
đói này, không thể tìm lại được người thân thích. Tác phẩm
Vợ nhặt của nhà văn
Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945 đã mô tả rõ nét tình cảnh này.
Sau ngày
Quốc khánh 2 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên sáu vấn đề cấp bách nhất mà Chính phủ cần giải quyết ngay và vấn đề số 1 là cứu đói: "
Nhân dân ta đang đói... Những người thoát chết đói, nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm cách nào để có thể cho họ sống...".
Nạn đói xảy ra có khá nhiều người bỏ quê hương ra đi, khi chết
đói trở thành những xác vô danh. Do điều kiện chôn cất xác người đói sơ
sài vội vàng thiếu quy hoạch và đánh dấu nên đến nay tại miền Bắc một số
nơi khi khởi công các công trình vô ý khai quật những ngôi mộ tập thể
được cho là mộ của những người chết đói năm 1945.
Những người chép sử khi viết về
thời thịnh trị họ chỉ nói mấy câu ngắn ngủi thôi "Thuở đó cửa không cần
then, cổng không cần khóa", thế là đủ. Vậy cái hiện tượng nuôi lợn hai
chuồng trồng rau hai luống, sẵn sàng mang cái độc hại cho đồng bào của
mình, cho người tiêu dùng của mình, nó trở thành phổ biến, điều đó cực
kỳ nguy hại. Ba mươi năm trước chúng tôi cùng các bạn đồng nghiệp Nhật
Bản nghiên cứu về nạn đói năm 1945, kết luận cuối cùng là: Một nạn đói
rất khủng khiếp. Nhưng chính các bạn Nhật Bản nói rằng, đây là một nạn
đói lớn như thế mà không thể xảy ra những hiện tượng mà những nơi khác
có: Người ta không ăn thịt lẫn nhau, người nghèo không tranh đoạt lẫn
nhau. Mà rất nhiều giá trị đạo lý truyền thống của dân tộc được phát
huy: Tình làng nghĩa xóm, dòng họ xã hội cưu mang nhau. Rõ ràng chúng ta
phải thấy cái suy thoái đạo đức là nguy hiểm như thế nào, kinh tế có
thể vực dậy được, đôi khi chỉ nửa nhiệm kỳ, nhưng suy thoái đạo đức thì
không dễ để vực dậy. Tôi rất mong chúng ta quan tâm hơn đến lĩnh vực này
để phát triển được bền vững hơn.
Dân đói phá kho thóc của người Nhật Bản năm 1945.
Thời gian này ảnh hưởng của Việt Minh còn yếu, lòng dân chưa hoàn
toàn hướng về, nên dù muốn tích trữ lương thực cũng không thể thực hiện
việc trưng thu lương thực trên diện rộng (chỉ trưng thu được trong vùng
Việt Minh kiểm soát nên có ảnh hưởng không lớn đến nạn đói). Điều cần
thiết nhất của Việt Minh lúc này là sự ủng hộ của người dân. Do bị Pháp
và Nhật truy lùng, cũng không có nguồn lực tài chính nên Việt Minh không
thể tạo lập được kho lương thực nào có quy mô lớn đủ để cải thiện tình
hình của nạn đói.
Việt Minh cùng với dân chúng chống đối việc trưng mua lúa gạo, cùng dân đánh phá các kho lúa của Nhật
[11].
Trong nguy cơ đói cận kề cái chết, người dân không còn e sợ sự đàn áp
của chính quyền nên hưởng ứng rất đông đảo. Chính tinh thần yêu nước
chống thực dân đế quốc (chủ yếu) và hoạt động cứu đói của Việt Minh đã
chiếm được cảm tình của một bộ phận nhân dân vùng Việt Minh (thứ yếu),
đã dẫn đến sự kiện
Cách mạng tháng Tám diễn ra thuận lợi.
Để cứu đói, nhiều tổ chức chính trị đương thời đã huy động lực
lượng chặn bắt những chuyến xe hay những chuyến ghe chở gạo được Nhật
vận chuyển từ miền Nam ra Bắc, đem tiếp tế cho dân, đồng thời để có
nguồn dự trữ trường kỳ.
[12]
Sau ngày 2 - 9 - 1945, họ đã tịch thu toàn bộ tiền bạc của giới thân
Pháp - Nhật trên toàn quốc (số tiền của Pháp khi ấy ta thu được
1.200.000 euro và của Nhật là 7.941.000 yên)
[13] đồng thời phát động tăng gia sản xuất, tiết kiệm lương thực để cứu trợ cho người đói.
Xem thêm
Tham khảo
- ^ a ă â b c d 70 năm nạn đói lịch sử năm Ất Dậu: Hơn 2 triệu người chết chỉ trong nửa năm, Báo Lao động, 12/01/2015
- ^ Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân - Tập 1 (Los Alamitos, CA: Việt Nam, 1989), tr 79-80.
- ^ Hoàng Co Thụy, Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 (Paris: Nam Á, 2002), tr. 1970.
- ^ Bác sĩ Ngô Văn Quỹ: Đêm dài Nhật – Pháp bắn nhau – Nhà xuất bản Trẻ, 2001
- ^ The Great Vietnamese Famine of 1944-45 Revisited 1944−45年ヴィエトナム大飢饉再訪 | The Asia-Pacific Journal The Asia-Pacific Journal: Japan Focus 14/7/2000
- ^ Dommen, Arthur J. tr 87
- ^ Dương Kiền. Việt Nam thế kỷ 20 biên niên sử. Falls Church, VA: Tiếng Quê Hương, 2005. tr 46
- ^ a ă http://tuanbaovannghetphcm.vn/thuc-chat-chinh-phu-tran-trong-kim-va-long-yeu-nuoc-cua-ong-thu-tuong/
- ^ http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20151227/bao-cuoc-be-dau-bi-tham-chi-co-nguoi-dan-la-khon-kho/1027996.html
- ^ Nạn đói lịch sử năm Ất Dậu - VnExpress Hoàng Phương 12/1/2015 | 10:10 GMT+7
- ^ Phong trào "Phá kho thóc cứu đói" dưới góc nhìn lịch sử, Ngô Quang Chính, Báo Đại Đoàn Kết, 24/08/2011
- ^ David G. Marr. Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền lực]. Berkeley, CA: University of California Press, 1995. Thiếu số trang
- ^ Ngô Thế Vinh dịch và trích dẫn trong bài "Từ Ất Dậu – 1945 sáu mươi năm đi tới cây cầu Cần Thơ – 2005", đăng trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 51, tháng 2 & 3 năm 2000. tr. 173
- Dommen, Arthur J. The Indochinese Experience of the French and the Americans, Nationalism and Communism in Cambodia, Laos and Vietnam. Bloomington, IN: Đại học Indiana Press, 2001. doi:10.1353/jmh.2003.0153
- David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền lực], University of California Press, Berkeley, 1995
- Ngô Thế Vinh dịch và trích dẫn trong bài "Từ At Dậu – 1945 sáu mươi
năm đi tới cây cầu Cần Thơ – 2005", đăng trên tạp chí Hợp Lưu,
California, số 51, tháng 2 & 3 năm 2000
- Phóng sự "Nạn đói năm Ất Dậu" nhiều kỳ trên báo Tuổi trẻ, Kỳ 1: Kỳ 1: Thảm cảnh quê nhà (Quang Thiện, 01/03/2005 04:13 GMT+7); Kỳ 2: Dưới đáy của địa ngục (Quang Thiện, 02/03/2005 06:37 GMT+7); Kỳ 3: Hành trình của những hồn ma (Quang Thiện, 03/03/2005 06:27 GMT+7); Kỳ 4: Chặng cuối của cuộc đọa đày (Quang Thiện, 04/03/2005 06:53 GMT+7); Kỳ 5: S