ẢI NAM QUAN
TRONG LÒNG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM
Ls. Hoàng Duy HùngLỜI NÓI ÐẦU
..............................
...............
Dựa trên một số diểm khác biệt nhu vậy, nhà sử học Marxist Trần Khuê vào nam 1995 dã viết một bài phê bình gắt gao sử gia Trần Trọng Kim là dã chép sử sai, thay vì phải chép Mặc Ðang Dung cắt dâng cho Nhà Minh 6 dộng thì dã "tự ý bỏ mất di dộng An Luong," và, "(sử gia Trần Trọng Kim dã) bịa thêm cái gọi là ‘Khâm Châu’. Làm sao Mặc Ðang Dung lại có thể cắt dất dâng nộp phần dất không phải là của nuớc mình?" Nhà Marxist Trần Khuê viết bài này bênh vực việc Mạc Ðang Dung cắt dất dâng cho Nhà Minh dể duợc sự bảo vệ sống còn cho cả giòng họ Mạc không dến nỗi phải bị nguyền rủa giống y nhu những gì mà sử sách Việt Nam dã từng làm trong nhiều thế kỷ qua.
Rõ ràng là có dôi sự khác biệt ngay cả sử sách Trung Hoa và sử sách Việt Nam, tuy nhiên, một diều chắc chắn dó là Mặc Ðang Dung dã nhuờng một phần lãnh thổ của Ðại Việt cho Nhà Minh dể dổi lấy sự bảo hộ của họ cho sự sống tồn của giòng họ Mạc, và, dối với dại da số nguời Việt Nam, dây là hành dộng phản quốc dáng bị nguyền rủa qua muôn thế hệ ở mọi thời dại.
Sáu (6) hay nam (5) dộng và hai châu Quy, Thuận mà Mạc Ðang Dung dâng cho nhà Minh dều chỉ là một sự ám chỉ phần dất Cổ Lâu, núi Phân Mao, gần Khâm Châu, tỉnh Quảng Tây mà dối với nguời Việt Nam rất là linh thiêng vì họ tin rằng noi dây có cột dồng dã dựng nên vào nam 43 do lệnh của Mã Viện, và cột dồng này dã chôn sâu trong dống dá nằm ở dâu dó trong vùng này. Lợi dụng co hội nhuợng dất này, Hoàng Ðế Gia Tinh Nhà Minh (cai trị 1522-1566) ra lệnh xây một cái cổng ở ngay Ải tạo một dấu chứng biên giới Hoa-Việt dể từ dó nguời Việt Nam khó lòng mà có thể lấy lại dất tổ của họ ngay tới tận cột dồng dã duợc dựng nên từ nam 43 nhu một hình thức gây nên một tâm lý hội chứng xã hội, một dấu hiệu xấu cho nguời Việt Nam qua nhiều nam tháng. Vì cái Cổng huy hoàng và dồ sộ này, nên tự nhiên nguời ta quên di các tên Ải Pha Luy hay Ải Ba Lụy, và thay vào dó, nguời ta gọi nó những cái tên khác nhu Ðại Nam Quan hoặc Trấn Di Quan. Nhà Minh chính thức gọi nó là Ải Nam Quan. Nguời Pháp, vào thế kỷ thứ 19, dã gọi nó là Cổng Trung Hoa (Porte de Chine). Vào thập niên 1960s, Mao Trạch Ðông dề nghị với Hồ Chí Minh dổi tên nó thành Mục Nam Quan nhu một dấu chứng "dàn anh Trung Hoa" lúc nào cung ngó xuống phía nam dể lo lắng cho "dàn em Việt Nam" ngõ hầu làm cho tình hữu nghị quốc tế vô sản giữa hai quốc gia càng duợc trong sáng hon. Hồ Chí Minh dề nghị lại xin dổi thành Hữu Nghị Quan.
Các hoàng dế Nhà Minh ra một chiếu chỉ rất nghiêm khắc về việc diều hành Cổng này. Về sau, các hoàng dế nhà Thanh cung theo quy chế khắc khe dó. Theo nhu chỉ dụ, Cổng-Thành chỉ duợc mở khi có phái doàn ngoại giao của hai nuớc, và nó chỉ duợc mở khi có lệnh của hoàng dế hay do quyết dịnh "khôn ngoan" của vị Quan Tổng Ðốc Luỡng Quảng trong những truờng hợp thật khẩn cấp. Bằng cách áp dụng nguyên tắc hành chánh khó khan này trong vấn dể mở Cổng Thành, Trung Quốc muốn chắc an Việt Nam sẽ rất khó mà có co hội dùng vu lực tiến chiếm lại những vùng dất mà họ dã mất nhu họ dã từng làm nhiều thế kỷ truớc. Từ ngày Cổng Thành duợc xây vào thế kỷ thứ 16, trên 200 nam, chua có truờng hợp nào Cổng Thành duợc mở ra vì mục dích quân sự. Nhung, vào nam 1788, Trung Quốc hồ hỡi mở Cổng Thành dua các dạo quân vào nam, tổng cộng các duờng tiến quân lên tới hon 200 ngàn, dể tấn chiếm Việt Nam.
Nam 1771, ba anh em họ Nguyễn ở Tây Son miền trung Việt Nam nổi lên chống lại Chúa Nguyễn ở phía nam và sau này chống lại Chúa Trịnh ở phía bắc. Ba anh em này duợc sử sách Việt Nam gọi là Nhà Tây Son. Nam 1777, anh em Tây Son lật dổ chính quyền ở trong nam. Nam 1786, and em Tây Son, duới quyền diều khiển của nguời em trai trẻ nhất là Nguyễn Huệ, tiến thẳng và dóng chiếm Hà Nội. Sau khoảng 250 nam chia cắt, Việt Nam duợc thống nhất. Vua bù nhìn của Việt Nam lúc bấy giờ là Lê Chiêu Thống chạy sang Bắc Kinh vận dộng sự ủng hộ của Ðại Ðế Càn Long (cai trị 1735-1796) giúp ông ta trở về lên ngai vàng. Vua Càn Long nhận ra dây là co hội dể Trung Hoa có thể tái cai trị Việt Nam, vì thế, núp duới danh nghia "ủng hộ con cháu nhà Lê trở lại ngai vàng và trừng trị những bày tôi phản trắc của nhà Lê," Ðại Ðế Càn Long sai tuớng Tôn Si Nghị chỉ huy 200 ngàn quân xâm chiếm Việt Nam. Từ ngày mà Cổng Thành duợc xây cất, dây là lần dầu tiền Ải Nam Quan duợc mở ra cho việc tiến công quân sự, và quá rõ ràng, phần lợi thuộc về phía Trung Hoa. Quân dội của Trung Hoa tiến vào Hà Nội một cách dễ dàng chỉ trong vòng có vài tuần.
Ðứng truớc hiểm họa nguy cập Việt Nam có thể bị Trung Hoa dô hộ lần nữa, vào nam 1788, tại Huế thuộc miền Trung Việt Nam, Nguyễn Huệ dang ngôi Hoàng Ðế, lấy hiệu là Quang Trung (1752-1792). Hoàng Ðế Quang Trung là một nhà thiên tài về quân sự, với những dạo quân khoảng 100 ngàn nguời, ông tiến từ Huế dến Hà Nội chỉ trong vòng có vài tuần, thắng nhiều trận dánh oanh liệt, dánh bại quân dội hon 200 ngàn nguời của tuớng Tôn Si Nghị một cách dễ dàng, duổi họ ra khỏi Hà Nội. Tuớng Tôn Si Nghị phải rút về Trung Hoa và cái Cổng dã duợc dóng lại dể ngan chận sự tiến quân của Ðại Ðế Quang Trung.
Nhận thấy Cái Cổng chính là một cản trở vật dể cho Việt Nam tiến chiếm lại các phần dất của tổ tiên, vào dầu nam 1792, tin rằng các dạo quân của ông dã duợc huấn luyện kỹ luỡng và dủ hùng mạnh dể tiến vào Trung Hoa gây chiến tranh với Nhà Thanh, Ðại Ðế Quang Trung cử ông Võ Van Dung làm Sứ Thần truởng phái doàn dến Bắc Kinh dể dua ra hai diều kiện: 1/ Trung Hoa phải trao trả lại cho Việt Nam những phần dất của tổ tiên bao gồm 2 tỉnh Quảng Ðông và Quảng Tây, hoặc, ít nhất là phải trả lại tới phần dất ngay cây cột dồng dã duợc dựng nên vào nam 43; 2/ Hoàng Ðế Nhà Thanh phải dồng ý gả công chúa cho Vua Quang Trung nhu một sự bày tỏ giao hảo lâu dài giữa hai quý tộc.
Không may, Vua Quang Trung một cách kỳ bí bị tai biến mạch máu não (xua gọi là chứng huyễn vận tức xuất huyết não) rồi qua dời khi mà ông mới duợc 40 tuổi. Nhiều tin dồn cho biết sau khi Ðại Ðế Quang Trung dánh thắng quân dội của Tôn Si Nghị vào nam 1788, Hoàng Ðế Càn Long nhận ra ngay Vua Quang Trung là một thiên tài về quân sự, và, không bao lâu sau, Vua Quang Trung sẽ là mối họa lớn cho Triều Ðình Nhà Thanh. Do dó, Hoàng Ðế Càn Long giả vờ ông ấy rất ái mộ Vua Quang Trung dến dộ ông ấy vào nam sau, nam 1789, chính thức gởi sắc phong công nhận Vua Quang Trung là "An Nam Quốc Vuong." Và, dể dánh dấu biến cố dặc biệt này, Hoàng Ðế Càn Long trao gởi một áo bào lộng lẫy và mắc tiền nhu một "tặng vật" cho Vua Quang Trung. Vua Quang Trung không biết áo bào dã có nhuộm một loại thuốc dộc dặc biệt thấm sâu trong các sợi chỉ của áo bào; vì thế, khi ông mặc vào, kết quả là chất dộc từ từ thấm vào các tế bào của ông, và vài nam sau, chất dộc phản ứng gây nên một tai biến bất ngờ cuớp lấy di mạng sống của ông.
Hung tin cái chết của Vua Quang Trung dến tai Sứ Thần Võ Van Dung ở Bắc Kinh. Ông sứ thần mệt mã và lặng lẽ sửa soạn khan gói trở về quê huong. Ông không dám hé môi nói cho Triều Ðình Nhà Thanh biết hai sự dòi hỏi của Vua Quang Trung. Sau cái chết của Vua Quang Trung, không còn ai có dủ khả nang dể "hủy diệt" cái Cổng bị ám ảnh dó cung nhu theo duổi cao vọng dòi lại dất tổ ở rất xa phía bắc của cái Cổng này.
Cổng thành duợc xây dể dịnh biên giới Hoa-Việt, dẫu vậy, vẫn còn một vài vấn dề chua duợc giải quyết hoàn toàn: Chỗ nào ở Ải Nam Quan là noi dích xác dịnh vị lằn ranh biên giới Trung Hoa và Việt Nam? Có phải là nó nằm ngay bức tuờng thành Ải Nam Quan hay là nó cách xa vài mét khỏi bức tuờng thành?
Tài liệu dầu tiên của Việt Nam nói về dịa diểm dích xác biên giới Hoa-Việt duợc ghi chép vào nam 1785 bởi Sứ Thần Nguyễn Trọng Ðang, truởng phái doàn của Việt Nam dến Trung Hoa vào những nam truớc cung nhu vào nam 1784. Vào mùa xuân nam 1785, sau khi trở về từ Trung Quốc, ông có khắc trên một bia dá duợc dựng tại nhà trọ mang tên là Vọng Ðức Ðài (Ðài huớng về ân dức của vua), sau này gọi là Nguỡng Ðức Ðài. Trên bia dá này, ông ghi lại một số biến cố lịch sử về cái Cổng cung nhu dịa diểm dích xác biên giới Hoa-Việt. Trên tấm bia này, Sứ Thần Nguyễn Trọng Ðang cho biết Cổng Thành duợc xây do nguời Trung Hoa vào thời vua Gia Tinh Nhà Minh, và ông viết rất rõ ràng dịa diểm dích xác biên giới Hoa-Việt chính là ngay Cổng Thành. Cái Cổng thuộc về Trung Hoa, nhung, từ chân tuờng của cái Cổng về phía nam thì thuộc về phần dất của Việt Nam. Ông cung ghi khắc Vọng Ðức Ðài duợc dựng nên do nguời Việt Nam, thoạt dầu, nó chỉ là một can nhà lợp mái tranh, sau dó, duợc cải tiến, và vào mùa hạ nam 1784, dích thân Sứ Thần Nguyễn Trọng Ðang, lúc ấy cung là quan Tổng Ðốc của tỉnh này, dốc công kiến thiết dài này lại với vật dụng xây cất bằng gạch. Nam 1849, Vua Tự Ðức (cai trị 1847-1883) sai Sứ Thần Nguyễn Van Siêu làm truởng phái doàn sang Bắc Kinh. Sứ Thần Nguyễn Van Siêu dọc duợc tấm bia này, ông cảm dộng truớc những lời duợc ghi chép trên tấm bia, vì thế, ông mới ghi chép nó lại và sau này vào nam 1865 ông cho in trong tác phẩm Phuong Ðình Ðịa Du Chí của ông. Tuy nhiên, tấm bia do Sứ Thần Nguyễn Trọng Ðang dựng lên dã bị hủy di, và cho tới ngày hôm nay, không ai biết nó bị hủy hồi nào và bằng cách nào nữa.
Duới triều dại Vua Tự Ðức, một cuốn lịch sử về các dịa danh Việt Nam dã duợc chính thức hoàn thành bởi các sử gia của nhà vua vào nam 1882. Cuốn sử dó duợc gọi là Ðại Nam Thống Nhất Chí. Trong cuốn sử này, các sử gia cho biết Ải Nam Quan cách khoảng chừng 31 cây số về phía bắc của thị xã Lạng Son. Cái cổng có hai phần: Phía bắc của cái cổng duợc xây dựng bởi nguời Trung Hoa, và phía nam của cái cổng duợc xây dựng bởi nguời Việt Nam. Phần xây cất ở phía bắc gồm một cái cổng và một bức tuờng 119 truợng (khoảng 500 mét) xây chấn ngang cái dốc của ngọn núi gồ ghề. Cổng và tuờng thành duợc xây cất bằng gạch. Cổng và tuờng thành duợc xây bởi Nhà Minh vào thế kỷ thứ 16, và nó dã duợc sửa chữa nhiều lần do Nhà Thanh. Cái Cổng chỉ duợc mở ra cho các phái doàn ngoại giao của hai nuớc. Phần xây cất ở phía nam duợc xây dựng bởi Việt Nam, là một nhà trọ mang tên là Nguỡng Ðức Ðài. Nhà trọ khoảng chừng 20 mét cách xa chân tuờng Ải Nam Quan. Nhà trọ duợc dùng dể cho phái doàn Việt Nam dừng chân truớc khi họ di qua Trung Hoa và sau khi họ trở về từ Trung Hoa. Qua sự miêu tả này, rõ ràng biên giới Việt Nam lúc bấy giờ là ở ngay chân tuờng của Ải Nam Quan.
Một tài liệu bán chính thức khác dể góp phần cho kết luận rằng vào thế kỷ thứ 19, biên giới Hoa-Việt ở ngay chân tuờng Ải Nam Quan. Van hào Nguyễn Du (1765-1820), một thi si nổi tiếng của nguời Việt Nam, tác gỉa của tập tho Truyện Kiều mà cả thế giới dều biết dến, vào nam 1809, dã duợc vua Gia Long sai làm Sứ Thần truởng phái doàn sang Trung Quốc. Ông trở về Việt Nam lại vào nam 1814. Trên chuyến di từ Việt Nam dến Trung Hoa và từ Trung Hoa trở về Việt Nam, ông dã di ngang qua Ải Nam Quan. Ông và toàn thể sứ doàn dã trú ngụ tại Nguỡng Ðức Ðài khi di Trung Quốc cung nhu khi từ Trung Quốc trở về lại Việt Nam. Ðây là lần dầu tiên trong dời ông nhìn thấy cái Ải, ông ngạc nhiên truớc cảnh hùng vi và dẹp của nó làm cho ông có cảm hứng viết thành một bài tho với tựa dề là Ải Nam Quan mà ông mô tả nhu sau:
Lý Trần cựu sự yểu nan tầm,
Tam bách niên lai trực dáo câm (kim),
Luỡng Quốc bình phân cô luy diện,
Nhất tâm hùng trấn vạn son tâm.
Sử gia Trần Gia Phụng dịch nghia nhu sau:
Việc cu dời Lý, Trần xa xôi mờ mịt khó tìm,
Suốt từ ba tram nam thẳng tới bây giờ,
Hai nuớc (Việt-Hoa) chia dều từ mặt luy lẻ loi,
Một cửa ải oai hùng trấn dóng giữa lòng muôn núi.
Theo lời mô tả của thi hào Nguyễn Du thì rõ ràng bức tuờng thành của Ải Nam Quan chính là biên giới Hoa-Việt.
Những lời ghi khắc trên bia dá của Sứ Thần Nguyễn Trọng Ðang vào nam 1785, những lời chép lại của các sử gia Triều Nguyễn vào nam 1882, và những lời mô tả của thi si Nguyễn Du vào nam 1809 an khít với những chi tiết trong tấm hình duợc chụp bởi nhiếp ảnh gia Heliog Dujardin vào nam 1903, in trong cuốn sách nhan dề L’Indochine (Ðông Duong), tác giả Louis Salaun, xuất bản bởi nhà in Quốc Gia, Paris. Trong tấm hình này, chúng ta có thể dễ dàng nhìn ra can nhà trọ mang tên là Nguỡng Ðức Ðài ở cách xa bức tuờng thành Ải Nam Quan khoảng chừng 20 mét. (Xin xem hình ở trang 22 phần tiếng Anh)
Trong những thỏa uớc bằng khẩu hiệu của Ủy Ban Hoa-Pháp Cắm Cột Mốc Biên Giới Hoa-Việt Thuộc Chi Nhánh Tỉnh Quảng Tây, duợc viết xuống 5 trang giấy, ký và dóng ấn trên từng trang bởi dại diện của Pháp và của Trung Hoa vào ngày 21/8/1891 nhu một phần bổ túc cho Hiệp Uớc Patenôtre ngày 6/9/1885, có một dọan nhu sau: "De Nam Quan à Binh Nhi, 1 ère borne: sur le chemin de Nam Quan à Dong Dang (à 100m au sud de la porte)," xin tạm dịch, "Từ Nam Quan dến Bình Nhi, cột mốc dầu tiên: Trên duờng từ Nam Quan tới Ðồng Ðang (ngay 100 mét ở phía nam của cái cổng)." Từ noi tài liệu chính thức này, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa dó là cột mốc 0 Km ở Việt Nam dã duợc dựhg lên cách xa bức tuờng thành của Ải Nam Quan 100 mét phía nam trên duờng di về thị trấn Ðồng Ðang.
Những bản dồ duợc ấn hành vào nam 1945 do Viện Ðịa Học Quốc Gia của Pháp cho thấy Nam Quan ở trong Việt Nam hay ở ngay chính biên giới của Việt Nam. Chúng ta không nên cắt nghia Nam Quan ở dây có nghia là cái Cổng mà thôi, mà nên hiểu rằng nó ám chỉ cả một khu vực noi dây. (Xin coi bản dồ trang 23 và 24 ở phần tiếng Anh.)
Những bản dồ khít hợp với những Thỏa Uớc của nguời Pháp và Trung Hoa vào thế kỷ thứ 19, dó là, biên giới Việt Nam ở ngay chính chân tuờng của Ải Nam Quan hoặc không cách xa Ải Nam Quan bao nhiêu cả.
Trong cuộc chiến 20 nam với Việt Nam Cộng Hòa (tức Miền Nam Tự Do, Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam (tức Cộng Sản Bắc Việt), dã nhận một khối luợng giúp dỡ khổng lồ của CHNDTH. Khi ấy, quan hệ giữa hai Ðảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc lên tới cao dộ. Mao Trạch Ðông quá vui vẻ với quan hệ này dến dộ dã dề nghị thay dổi Ải Nam Quan thành Mục Nam Quan. Hồ Chí Minh dề nghị thay dổi lại là Hữu Nghị Quan. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai dảng không duợc bền vững lâu, vì, vào tháng 2 nam 1979, cuộc chiến Hoa-Việt bùng nỗ. Sau khi rút quân vào tháng 3 nam 1979, CHNDTQ vẫn dóng giữ và kiểm soát toàn thể khu vực Ải Nam.
Ông Lê Công Phụng, Thứ Truởng Ngoại Giao của CHXHCNVN, trong bài trả lời phỏng vấn của phóng viên VASC Orient trong chiều ngày 28/1/2002, xác nhận rằng theo Hiệp Uớc Biên Giới Hoa-Việt 1999, lãnh thổ của Trung Quốc ở cột cây số 0 Km, và theo ông, cột mốc này ở "200 mét phía nam của Ải Nam Quan." Nhiều nguời nghi ngờ cột mốc ở Ải Nam Quan dã duợc dời sâu vào lãnh dịa của Việt Nam trong cuộc chiến Hoa-Việt nam 1979. Vì thế, lời xác nhận của ông Lê Công Phụng là cột mốc 0 Km nằm "200 mét ở phía nam Ải Nam Quan" dã cho thấy rõ dó là CHXHCNVN dã nhuờng từ 50 mét cho dến 200 mét phần dất biên giới ở Ải Nam Quan cho CHNDTQ.
Song le, trong quá khứ, CSVN nổi tiếng về việc gian dối của họ. Nhiều nguời nghi ngờ cả vùng Ải Nam Quan dã duợc cắt nhuợng cho CHNDTQ. Họ có những lý do cho sự ngờ vực này. Bác si Trần Ðại Sỹ, trong bài diều trần, dã nói rõ vì ông không duợc công an CSVN cho phép di dến Ải Nam Quan, ông lập tức trở về Sài Gòn, lấy máy bay từ Sài Gòn di thành phố Quảng Châu của tỉnh Quảng Ðông, từ Quảng Châu ông lại lấy máy bay di Nam Ninh, rồi từ Nam Ninh ông thuê xe di tới thị trấn Bằng Tuờng dối diện với ải Nam Quan. Một huớng dẫn viên du lịch nguời Trung Hoa dẫn ông di qua Cửa Ải sâu thêm vào phía nam khoảng 5 cây số, gần thị xã Ðồng Ðang dể xem cảnh biên giới mới, và huớng dẫn viên du lịch này cho bác si Trần Ðại Si biết dây là phần dất mới của Trung Quốc duợc "bọn Nam Man" (ám chỉ Việt Nam) nhuờng cho. Bác si Trần Ðại Si diều trần cho biết Ải Nam Quan trong các sách sử dã bị quân dội của CHNDTQ phá hủy trong Cuộc Chiến Hoa-Việt 1979. Cái mà gọi là "Ải Nam Quan" rất huy hoàng "cách 200 mét khỏi lãnh thổ Việt Nam" chính là cái cổng và tuờng thành mới mà do CHNDTQ xây vào thập niên 1980s. Bác si Trần Ðại Sỹ cung cho biết Suối Phi Khanh nổi danh trong lịch sử và van chuong của Việt Nam bây giờ cung dã nằm trong lãnh thổ của CHNDTQ rồi! Lời diều trần của bác si Trần Ðại Sỹ an hợp với những chi tiết trong các tấm hình duợc chụp cách dây khoảng 100 nam và những tấm hình mới vừa duợc chụp trong những ngày qua. (Xin coi hình trang 27 và 28 trong mục tiếng Anh.)
Hon nữa, lời diều trần của bác si Trần Ðại Sỹ cung an khớp với những chi tiết trên bản dồ mới duợc in ra bởi Viện Ðịa Học Quốc Gia của Pháp vào nam 2002. Bản dồ này cho thấy một sự thay dổi rất rõ nét, biên giới mới không phải là Ải Nam Quan mà là cạnh thị xã Ðồng Ðang, và toàn thể vùng Ải Nam Quan dã nằm trong lãnh thổ của CHNDTQ. (Xin coi hình trang 29 trong mục tiếng Anh.)
Không cần biết sự nhuợng dất cho CHNDTQ là 100 mét hay 5 kilômét ở biên giới Hoa-Việt, nhất là vùng dất linh thiêng Ải Nam, dó là một sự mất mát lớn lao dối với nguời Việt Nam, là một cái tát tai vào sự tự trọng và tự hào của nguời Việt, là một sự mất mát giá trị lịch sự và van chuong mà dối với nguời Việt Nam rất là trân quý vô vàn. Ðau hon nữa, những nguời dân ở vùng này, truớc dây là "nguời Việt" phải dổ máu ra chống quân Trung Hoa bảo vệ giang son, thì tự dung, trong một cái nháy mắt, họ lại phải làm "con dân" của kẻ cựu thù Trung Hoa mà họ không thể làm gì duợc hon!
Lời Kết:
Nam 1867, Nhà Nguyễn không dánh lại nguời Pháp vì nguời Pháp có súng dạn tối tân nên vua Tự Ðức sai hai ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký hiệp uớc với nguời Pháp nhuợng 3 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp. Sau biến cố này, Vua Tự Ðức dã làm một bài tho, vừa trách mình, trách các trọng thần, và cung vừa trách cả toàn dân dã nhu nhuợc dể cho ngoại bang cuớp dất. Bài tho của vua Tự Ðức duợc dang trong Tự Ðức Ngự Chế Thi Tập. Bài tho ấy nhu sau:
Khí dân Triều trữ cữu
Mãi Quốc thế gian bình,
Sử ngã chung thân diếm,
Hà Nhan nhập miếu dình.
Có nguời dịch câu tho ấy nhu sau:
Tội lu bay: bán nuớc,
Tội triều dình: bỏ dân,
Khiến dời ta mang nhục.
Mặt nào gặp tiền nhân?
Vua Tự Ðức vì không dủ vu khí tối tân dánh lại nguời Pháp, dã phải cắt một phần dất của tổ tiên cho nguời Pháp, luong tâm cắn rứt bồi hồi, ông ngày dêm lo âu, tran trở, dấm ngực an nan, tìm cách làm sao phục hồi lại những phần dất dã mất. Tuy ông không làm duợc, nhung, ông cung dã có ý và cố gắng hết mình. Không biết ÐCSVN nay nhuợng những phần dất linh thiêng và chiến luợc ở biên giới Hoa Việt, luong tâm của những nguời CSVN có bị áy náy không, có phải tran trở dấm ngực an nan nhu vua Tự Ðức hay không? Nếu có, hãy trả lại quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam. Nếu ÐCSVN không chịu an nan và trả lại quyền tự quyết cho dân tộc, thì, cung giống nhu thời nhà Nguyễn, các cụ nhà ta dã dứng lên làm cách mạng dấu tranh giành Ðộc Lập cho nuớc nhà, thế hệ Việt Nam ngày nay cung sẽ làm giống y nhu vậy.
Còn nguời dân và si phu Việt Nam thì sao, dứng truớc sự ngoan cố và dàn áp của ÐCSVN, không lẽ chúng ta không còn hào khí anh dung dể tràn xuống duờng dòi lại dất tổ tiên, nhất là vùng Ải Nam linh thiêng trong hàng bao nghìn nam lịch sử? Hãy nhìn dân Kyrgystan (diện tích 198,500 km2) theo bản tin của Ðài Á Châu Tự Do (Radio Free Asia = RFA) loan tải vào ngày 18/5/2002, khi nghe tin nhà cầm quyền của họ cắt nhuợng cho Trung Cộng khoảng 120 ngàn hectares núi dồi hoang vắng không nguời ở ngay biên giới, lập tức, dám dông hon vạn nguời xuống duờng ở thủ dô Biskek dòi Tổng Thống Askar Akayev phải trả lời cho họ một cách minh bạch về chuyện này, kẻo không, chế dộ của Tổng Thống Askar Akayev phải ra di dể cho những nguời xứng dáng hon lên cầm quyền bảo vệ giang son của tổ tiên, dầu giang son dó bây giờ là "noi khỉ ho cò gáy" hoang vu không làm gì duợc. Tổng Thống Askar Akayev cho công an trấn áp dân chúng một cách dã man, nhung càng trấn áp, dân chúng càng hang hái hon, càng quyết tâm hon. Một vùng dất hoang vu không nguời ở mà nguời dân Kyrgystan, với dân số có 5 triệu, mà còn anh dung tranh dấu, huống chi chúng ta, một vùng dất linh thiêng cả bao ngàn nam máu xuong dã dổ ra, 85 triệu dân trong nuớc và 3 triệu dân ở hải ngoại mà lại làm thinh? Tôi tin rằng chắc chắn dân Việt sẽ không làm thinh, vì, lời của nhà cách mạng anh hùng Nguyễn Trải còn vang vọng lại trong tai của mỗi nguời Việt Nam: "nuớc Việt ta, dù thang trầm có lúc khác nhau, nhung hào kiệt thời nào cung có./."
Houston Texas ngày 25/5/2002