LỜI DẪN NHẬP:
Đã 44 năm sau cuộc Chiến tranh Việt Nam, vẫn còn những câu hỏi chưa có
lời giải đáp. Chỉ riêng tên tuổi Thích Trí Quang đã gây ra rất nhiều
tranh cãi.(1) Có
nhiều nhãn hiệu gán cho ông: với một số người Việt chống cộng thì cả
quyết Thích Trí Quang là cộng sản đội lốt tu hành hoạt động với sự chỉ
đạo của Hà Nội; nhưng ngay với giới chức cộng sản cũng đã từng coi Trí
Quang là một loại CIA chiến lược; còn theo tài liệu giải mật của CIA thì
đánh giá Trí Quang không phải cộng sản, mà là một nhà tu hành đấu tranh
cho hòa bình và muốn sớm chấm dứt chiến tranh. Thêm nguồn tài liệu còn
lưu trữ về những cuộc đàm luận giữa Trí Quang và các giới chức Hoa Kỳ,
cho rằng Trí Quang chống cộng mạnh mẽ và hiểu được sự việc xử dụng quân
đội Hoa Kỳ để chống lại Cộng sản Bắc Việt và Trung cộng.
Và trong phần trả lời phỏng vấn của báo Sinh viên Tình Thương 1966,
cách đây 53 năm, khi "đề cập tới sự nguy hiểm của Cộng sản, TT Trí
Quang đã so sánh họ với những chiếc lá vàng có đóng đinh, phải cần tới
một cơn gió lốc cách mạng thổi đúng hướng, không phải làm bay những niềm
tin mà là bốc sạch đám lá vàng có đóng đinh là Cộng sản."
Vậy
thì đâu là sự thật? Đâu là con người thật của Thích Trí Quang? Như câu
hỏi trong phim Rashomon, một kiệt tác điện ảnh của Nhật Bản. Người viết
sẽ không đưa ra một kết luận nào về chân dung TT Thích Trí Quang, nhưng
muốn trở lại bối cảnh chính trị xã hội của thập niên 1960s, khi mà tên
tuổi Trí Quang hầu như gắn liền với những biến động thời bấy giờ.
Từ sau 1975 TT Trí Quang sống lặng lẽ những năm tháng cuối đời trong ngôi chùa Già Lam ở Gò Vấp Sài Gòn, rồi sau đó trở về chùa Từ Đàm Huế. Và mới đây, khi tin Thích Trí Quang vừa viên tịch ngày 8.11.2019 ở tuổi 96 (ông sinh năm 1923) cũng tại chùa Từ Đàm Huế (6) – nơi chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn ngày 5 tháng 5, 1966 cách đây cũng đã hơn nửa thế kỷ.
Trên báo chí truyền thông và dư luận trong và ngoài nước lại dấy lên những ý kiến rất khác nhau về ông, nhưng các thông tin về ông thì lại rất ít.
Nhìn lại thập niên 1960s, trong khi tin tức
về các phong trào Phật giáo tranh đấu ngoài miền Trung rất nhiễu loạn,
thì tại Sài Gòn, ngoài một cuộc phỏng vấn hiếm hoi dành cho tuần báo
TIME ngày 22.04.1966 với hai ký giả McCulloch và James Wilde (2);
TT Trí Quang sau đó trở ra Huế và rất ít khi dành cho báo giới Tây
phương những cuộc tiếp xúc nào khác. Riêng với TÌNH THƯƠNG tuy chỉ là tờ
báo của Sinh viên Y khoa nhưng lại rất quan tâm theo dõi thời cuộc, nên
hai phóng viên Phạm Đình Vy (5) và Ngô Thế Vinh được sự chỉ định của Toà soạn, đã bay ra Huế, được gặp và thực hiện cuộc phỏng vấn Chín mươi sáu phút với Thượng Toạ Thích Trí Quang buổi chiều ngày 5-5-1966 tại Chùa Từ Đàm Huế. Và
bài phỏng vấn này đã được đăng ngay trên báo Tình Thương số 29, 1966,
và đã được phóng viên của US News & World Report xin dịch sang tiếng
Anh nhưng rồi không rõ lý do, bài báo đã không được phổ biến sau đó.
Và nay qua bộ báo Tình Thương mà Thư quán Bản Thảo của nhà văn Trần Hoài Thư (4) mới tìm lại được từ Thư viện Đại Học Cornell, trong đó có số báo TT 29, với 4 trang 2-3-4-5 đăng trọn vẹn cuộc phỏng vấn đã thực hiện từ hơn nửa thế kỷ trước. Chúng tôi cho phổ biến bài báo này – với không bình luận, không ngoài mục đích chỉ muốn cung cấp tới các bạn trẻ và các sử gia tương lai có thêm một sử liệu hiếm quý về TT Trí Quang tưởng như đã thất lạc.. Ngô Thế Vinh
***
CHÍN MƯƠI SÁU PHÚT VỚI THƯỢNG TOẠ THÍCH TRÍ QUANG [05.05.1966]
NGÔ THẾ VINH & PHẠM ĐÌNH VY
ĐỘNG CƠ THÚC ĐẨY
Với
những rối loạn chính trị trong tuần lễ vừa qua, có một hiện tượng TRÍ
QUANG trên khắp các báo chương ngoại quốc. Tuần báo Time coi ông như
xuất hiện một Machiavel mới, trong khi báo L'Express gán cho ông là mẫu
người đang làm rung động cả Mỹ quốc, đó là chưa kể tới những bài báo nói
về ông đăng trên US News and World Report và Newsweek... Hiện tượng
trên cũng được các báo Việt ngữ toa rập theo, thích thú đem ra phiên
dịch và đăng tải; nhiều người coi đó như một khám phá mới lạ về một nhà
tu hành tài ba, nhiều quyền lực nhưng cũng rất bí ẩn và khó hiểu.
Đã
từ lâu chúng tôi vẫn có thành kiến với các nhà báo ngoại quốc khi họ
nhận định về các vấn đề Việt Nam và chúng tôi thành thật tin tưởng rằng
không một người ngoại quốc nào am hiểu vấn đề Việt Nam bằng chính những
người Việt. Cái thái độ dễ dàng tin cậy vào mấy ông nhà báo ngoại quốc
trong công việc tìm hiểu đất nước mình nếu không bắt nguồn từ một thái
độ ỷ lại của báo chí Việt thì cũng đang coi là một hiện tượng quái gở.
Trở
lại trường hợp Thích Trí Quang, từ nhận định bảo ông là cộng sản đến ý
nghĩ một tay quốc gia cực đoan, hình như chỉ cần một chút ngộ nhận. Nghĩ
rằng tôn giáo sẽ còn đóng một vai trò quan trọng trong tương lai chính
trị miền Nam, việc tìm hiểu mẫu một nhà tu-hành-dấn-thân đang có nhiều
ảnh hưởng là điều cần thiết, đó là lý do cuộc gặp gỡ Chín mươi sáu phút
với Thượng Toạ Thích Trí Quang buổi chiều ngày 5-5-1966 tại Chùa Từ Đàm
Huế..
NHỮNG SAI LẦM CỦA TIME
Hình
như có một sự khác biệt rất xa giữa thực trạng miền Trung và các tin
tức thổi phồng trên báo chí. Sau hơn bốn tuần lễ tranh đấu, Huế đã có
một khuôn mặt sinh hoạt bình thường ngoại trừ những biểu ngữ khẩu hiệu
còn treo dán rải rác, các chữ Bãi Khoá Bãi Thị kẻ sơn còn lưu vết trên
nền tường; các cô nữ sinh Quyết tử đã lại tóc thề áo dài trắng tới
trường đi học, súng ống cũng được trả lại cho quân đội, đài phát thanh
cho đọc thông cáo kêu gọi tất cả sinh viên họp đại hội để bàn về bình
thường hoá sinh hoạt Đại học.
Nơi
bến Toà Khâm, ngay trước khu Đại học, các tàu Há Mồm của Mỹ đang đổ lên
bến chồng chất những thực phẩm và đạn dược, đám trẻ con xúm quanh đùa
rỡn với những anh lính Thuỷ quân Lục chiến Mỹ. Trước trụ sở Thông tin
ngoài các khẩu hiệu đòi bầu cử Quốc hội, chống chánh phủ Trung ương, còn
có khẩu hiệu lên án Việt cộng pháo kích vào Thành nội sát hại dân
chúng...
Dấu vết những ngày máu lửa chỉ có vậy.
Trên
dốc tới Nam Giao, chùa Từ Đàm vẫn yên tĩnh nằm đó. Ngoài một số đệ tử
đi lễ chùa, trong sân không có chút náo nhiệt của những phút tranh đấu.
Nơi nhà Trai, trong bộ đồ rộng trắng, Thượng toạ Trí Quang đang ngồi
bình thản đánh cờ với một cụ già, ngồi cạnh đó là một nhà sư trẻ Thích
Mẫn Giác.
Khi
chúng tôi tới ván cờ đã mãn với phần thắng về phía Thượng Toạ, dĩ
nhiên. Tuy chưa giáp mặt ông lần nào, chúng tôi đã biết mặt Thượng toạ
qua hình ảnh báo chí, và đặc điểm đầu tiên để nhận ra ông là đôi mắt vô
cùng sắc sảo. Không với một cử chỉ xa cách nghiêm trọng, không với cả
tia nhìn mãnh liệt như thôi miên, Thượng toạ vui vẻ tiếp chúng tôi qua
những nụ cười dễ gây thiện cảm và những cử chỉ tự nhiên thoải mái.
Vào
đề ngay, chúng tôi nhắc tới những lời tuyên bố của Thượng toạ trên các
báo chí ngoại quốc, đặc biệt là bài của tuần báo TIME (2). Thượng Toạ cho biết:
--
Họ có tới gặp tôi hỏi ý kiến, tôi cũng có trả lời họ một số những câu
hỏi, nhưng khi bài đăng có cả những ý kiến mà tôi không hề nói, tính tôi
không bao giờ muốn đính chính, bởi vậy trong các bài báo đó có những
điều sai lạc.
Chẳng
hạn tuần báo TIME gán cho tôi óc bài ngoại gay gắt và nhất là muốn quay
lại thời Hoàng kim của đời nhà Lý là một điều hoàn toàn bịa đặt.
Không
bao giờ tôi chủ trương như vậy; hơn nữa công thức đời nhà Lý với những
thày chùa hăng hái nắm quyền chính hoàn toàn không còn thích hợp với
thời đại bây giờ, mơ ước điều đó là vô lý. Cũng như khi hỏi tôi về Quốc
hội, tôi chỉ nhấn mạnh với họ ở mấy điểm: số người đi bầu, sự xâm nhập
của Việt cộng và cách bầu gián tiếp người lãnh đạo hành pháp qua một
Quốc hội trung gian.
Còn về tiểu sử Thượng Toạ, ông cho rằng đó chỉ là tài liệu không xác thực của Công an.
Xem ra bài báo TIME đã mô tả nhiều điều không đúng ý Thượng toạ nhưng chúng tôi không muốn đi sâu vào thêm.
CHIẾN TRANH HAY HOÀ BÌNH
Từ
những nhận định cho ông có óc bài Mỹ, nhiều người e sợ rằng Quốc hội
đầu tiên được thiết lập với ảnh hưởng của Phật giáo sẽ biểu quyết yêu
cầu Mỹ rút lui khỏi Việt Nam để đi tới thương thuyết và chấm dứt chiến
tranh. Thượng Toạ cho rằng:
-- Bây
giờ còn quá sớm để nói tới nên thương thuyết hoặc tiếp tục chiến tranh.
Chỉ biết rằng chính quyền hiện tại chẳng đại diện cho một ai và hậu quả
là tình trạng vô cùng bi thảm về chính trị cũng như quân sự. Nói chiến
tranh thì chẳng ra chiến tranh, nói thương thuyết thì lại càng nhục nhã,
chỉ có Mỹ với Hà Nội mà không ai đếm xỉa tới chính phủ Sài Gòn. Bởi
vậy, chúng ta bắt buộc phải có một Quốc hội, một chính quyền dân cử, tạo
một khuôn mặt quốc gia cho đúng nghĩa một Quốc Gia, việc chiến hay hoà
là do nơi Quốc hội. Nếu tiếp tục chiến tranh thì lúc đó mới đúng nghĩa
là một cuộc chiến tranh và nếu thương thuyết thì đó đúng là một cuộc
thương thuyết nghĩa là chúng ta đã có một ưu thế.
Phải
ngồi trên chiếc xe lúc đó mới nói tới chuyện lái tới hoặc lui. Đó là
phải cho có một Quốc hội. Và tôi cũng không dại gì đính chính là không
muốn thương thuyết để mang lấy tiếng hiếu chiến.
Khi nhắc đến giải pháp Trung Lập mà có người nghĩ rằng đó là chủ trương tương lai của Phật giáo, Thượng toạ Trí Quang nói:
--
Nếu có thương thuyết để tiến tới giải pháp trung lập thì nền trung lập
đó phải như thế nào. Người liều lĩnh nhất cũng không thể chấp nhận một
hoàn cảnh như Lào. Pathet Lào trước đó là một phe nổi loạn, hiệp ước
đình chiến 62 ở Lào là một công khai chấp nhận cuộc chiến tranh đó,
Pathet Lào đương nhiên được hợp thức hoá và lại tiếp tục chiến đấu và
thực sự không có một nền trung lập ở Lào.
Như
Việt Nam với tình trạng hiện giờ, một ký kết như thế là đương nhiên
chấp nhận Việt Cộng và chỉ trong sáu tháng là miền Nam rơi vào tay họ.
Bởi vậy tôi vẫn nghĩ phải có chiếc xe cái đã, một Quốc hội được đa số
dân chúng đi bầu, đến lúc đó hãy tính xa hơn. Mọi dự đoán trước theo tôi
là quá sớm.
MỘT QUỐC HỘI KHÓ KHĂN
Khi đề cập tới những khó khăn của một Quốc hội sắp tới: Cộng sản, Chính quyền hiện tại và người Mỹ; Thượng toạ cho rằng:
--
Hơn ai hết, người dân quê Việt Nam đã có kinh nghiệm Cộng sản là thế
nào rồi và họ biết rõ ai là Cộng sản ai không. Bởi vậy không đáng lo
ngại sự xâm nhập của Việt cộng vào Quốc hội.
Còn
về phía chính quyền, Phật giáo đã giữ đúng lời hứa và để cho chính
quyền có cơ hội thực hiện lời cam kết của mình với dân chúng về vấn đề
Quốc hội. Nếu là một chính quyền thiện chí họ hãy tỏ thiện chí đó trong
việc đi tới một Quốc hội. Nếu chính quyền phản bội thì không những lịch
sử sẽ phán xét họ mà chính dân chúng sẽ có ngay phản ứng. Việc duy trì
chính phủ hiện thời cho tới ngày bầu Quốc hội cũng là một cách để những
tướng lãnh phản bội âm mưu phá hoại không có cơ hội lẩn tránh hèn nhát
những trách nhiệm mà họ gây ra trước lịch sử.
Còn
người Mỹ thực tâm muốn miền Nam có một Quốc hội hay họ muốn ngăn cản,
điều đó chưa thể đo lường được, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải
tin ở mình và không nên có những hành động làm cho người Mỹ khiếp sợ.
CÁC TƯỚNG LÃNH SAU QUỐC HỘI
Khi đề cập đến vai trò các tướng lãnh hiện thời và sau ngày có Quốc hội, Thượng toạ Trí Quang nhận định:
--
Nào là tình trạng chiến tranh, nguy cơ của Cộng sản, các tướng lãnh kêu
gọi dân chúng, tôn giáo, đảng phái phải đoàn kết thì chính họ lại chia
rẽ hơn ai hết. Họ tranh giành quyền hành, thanh toán nhau vì quyền lợi
và loại dần những tướng lãnh có công khác. Nhưng trước sự chống đối của
dân chúng, trước hiểm hoạ đe doạ họ liên kết chặt chẽ hơn ai hết để bảo
thủ quyền lợi và lũng đoạn dân chủ. Bởi vậy mối băn khoăn chính của
nhiều người là làm sao trả họ về vị trí thuần tuý quân sự, gây lại sức
mạnh uy tín và kỷ luật quân đội cùng phục hồi danh dự cho những tướng
lãnh có công khác.
Hiện
thời người ta phải chứng kiến một trung ương các tướng lãnh chỉ âm mưu
thanh toán nhau để tự đi đến chỗ đào thải. Tại các địa phương dân chúng
vẫn dành nhiều cảm tình cho các tướng lãnh trong sạch có công với cách
mạng tháng 11. Như trung tướng Đính được dân chúng miền Trung chấp nhận
cũng ở trong trường hợp đó.
VỚI NGƯỜI MỸ
Cuộc tranh đấu cho Quốc hội vừa qua có pha mùi Bài Mỹ khiến
cho nhiều e ngại và tự đặt ra nhiều giả thuyết về sự lợi dụng của Cộng
sản. Với vai trò của người Mỹ ở Việt Nam, Thượng toạ Trí Quang cho rằng:
-- Sau
cuộc cách mạng 63, người Mỹ được hưởng ở Việt Nam vô số lợi lộc: gia
tăng gấp bội quân số, chiếm được những căn cứ tốt như Đà Nẵng, Cam Ranh;
được thêm cả nước Thái Lan. Không chắc người Mỹ thực tâm muốn chống
cộng tại Việt Nam, họ muốn duy trì Cộng sản, duy trì cuộc chiến tranh
này để thủ lợi. Vì nếu thực tâm người Mỹ muốn, họ có thể làm khá hơn
nhiều cục diện bây giờ bằng cách trợ giúp Việt Nam vừa chống cộng vừa
xây dựng những căn bản dân chủ hơn là nâng đỡ những chính phủ tay sai.
Điển hình là vụ Đà Nẵng vừa qua.
MỘT TRƯỜNG HỢP ĐÀ NẴNG
Theo Thượng toạ thì nhờ phước ông bà mới
không xảy ra vụ đổ máu tại Đà Nẵng. Ngoài trách nhiệm lỗi lầm của ông
Kỳ trước lịch sử còn những trách nhiệm lớn lao của Mỹ. Việc người Mỹ xử
dụng những chiếc C130 để chở những tiểu đoàn Thuỷ quân Lục chiến và xe
tăng ra đàn áp phong trào dân chúng đấu tranh tại miền Trung là một lỗi
lầm không thể tha thứ, Thượng toạ nói:
-- Chỉ
cần một chút nữa là xẩy ra đổ máu lớn lao với trách nhiệm nặng nề về
phía người Mỹ. Lịch sử Mỹ Thế kỷ Hai Mươi sẽ có ba vết nhơ: ném bom
nguyên tử xuống Nhật Bản, đàn áp nền cộng hoà San Domingo và vết nhơ thứ
ba là vụ Đà Nẵng.
MỘT CHÍNH PHỦ PHẬT GIÁO
Khi
nhắc tới nhận định của Tuần báo Newsweek cho rằng sở dĩ Thượng toạ Trí
Quang đòi bầu cử gấp rút một Quốc hội vì ông tin rằng tổ chức Phật giáo
sẽ thắng thế trong cuộc bầu cử đó và chính phủ tương lai sẽ là một chính
phù Phật giáo với bàn tay chi phối trực tiếp của Chùa chiền, Thích Trí
Quang đã phủ nhận mạnh mẽ ý kiến đó và bày tỏ rằng:
-- Quan
niệm đó không những không có lợi gì mà còn làm mất Danh Dự của Phật
giáo. Tôi hoàn toàn không mong muốn như vậy. Kinh nghiệm cho thấy với
những chính phủ tạm thời dù được hậu thuẫn của tôn giáo này hay tôn giáo
khác chỉ cần những cuộc biểu tình vài trăm người cũng đủ sụp đổ. Như
một chính phủ thành lập do hậu thuẫn của Phật giáo sẽ gặp ngay những khó
khăn với các tôn giáo bạn, không làm được việc gì mà chính Phật giáo
lại mang tiếng. Bởi vậy Phật giáo không bao giờ muốn tái diễn nhưng lỗi
lầm của thời ông Diệm.
Tranh
đấu cho Quốc hội, Phật giáo chỉ muốn xây dựng một cái gì thực sự cho
quốc gia dân tộc trong đó không phải chỉ có những Phật tử mà là cả những
thành phân Tôn giáo bạn và các tầng lớp dân chúng.
Quốc hội, Chính phủ sẽ không đại diện cho một ưu thế riêng nào mà là đại diện xứng đáng của dân chúng.
CHIẾN TRANH TÔN GIÁO
Rối
loạn tháng Tám năm 1964 với những vụ thảm sát trong thành phố vẫn lá ám
ảnh đen tối trong đầu óc nhiều người. Sự cọ sát giữa hai tôn giáo trong
những ngày gần đây làm thức dậy nỗi ám ảnh đó. Viễn tượng một cuộc
chiến tranh tôn giáo đã được một số báo chí e ngại nhắc tới. Theo ý
Thượng toạ sự thật sự đe doạ đó như thế nào. Thích Trí Quang cho rằng:
-- Sự
e ngại đó quá đáng và không thể nào có. Những đáng tiếc hồi tháng Tám
là do âm mưu của Nguyễn Khánh, hoàn toàn ngoài ý muốn của các vị lãnh tụ
Tôn giáo. Khi phải tiếp xúc cới những vị lãnh đạo tôn giáo bạn, tôi có
nói rằng chẳng thà thực sự có một cuộc chiến tranh tôn giáo vì quyền lợi
hai phía; nhưng mâu thuẫn quyền lợi đó hoàn toàn không có. Bởi vậy
không vì lý do gì để xảy ra những điều đáng tiếc mà nguyên nhân chỉ tại
một anh tướng Kaki đứng ở giữa.
TÍN ĐỒ HAY CÔNG DÂN
Việc
tiến tới Quốc hội Lập hiến một cách nhanh chóng là công của Phật giáo,
nhiều người nghĩ như vậy. Đó là điều mà Thượng toạ Trí Quang không muốn.
Ông nói:
-- Một
phong trào đấu tranh có màu tôn giáo sẽ gặp nhiều khó khăn, tự nó gây
ra những mặc cảm thắng bại nơi các tôn giáo bạn. Bởi vậy tôi vẫn muốn
các phong trào tranh đấu dân chủ phát xuất tự quần chúng không mang màu
sắc tôn giáo, nếu có lợi cho tổ quốc, Phật giáo sẽ đứng sau hậu thuẫn.
Trong cuộc xáo trộn vừa qua, khi gặp các Đại diện Hội đồng Đô Thành, tôi
có nói: quý vị là đại diện cho các tầng lớp dân chúng, nếu chính quý vị
đứng ra tranh đấu cho Quốc hội, Phật giáo sẽ đứng sau ủng hộ quý vị. Và
trong thâm tâm tôi mong muốn như vậy.
Sau
khi tỏ ý không tin tưởng vào thực lực các đảng phái quốc gia, Thượng
toạ cho rằng vai trò tranh đấu cho tự do dân chủ chính là bổn phận của
thanh niên sinh viên chứ không phải của Phật giáo hay một tôn giáo nào.
Thượng toạ nói:
-- Tôi
hiểu rằng khi các anh em sinh viên tham dự cuộc tranh đấu chống ông
Diệm năm 1963, anh em nhìn các vị Thượng tọa hồi đó khác bây giờ. Tôi
muốn được giữ nguyên cái nhìn lúc trước, bởi vậy tôi muốn Phật giáo cũng như các tôn giáo bạn được trở về vị trí của mình. Phật giáo bất đắc dĩ phải đứng ra lãnh đạo các cuộc đấu tranh là một điều tôi thấy rất chướng
***
NIỀM TIN TẤT THẮNG
Trái
hẳn với triết lý nhà Phật hiểu theo nghĩa thông thường là xuất thế và
yếm thế, Thượng toạ Thích Trí Quang mang khuôn mặt của một nhà tu hành
mới: một Nhà-Sư-Dấn-Thân, dấn thân vào tất cả những biến động xã hội,
dùng tất cả những uy tín và quyền năng sẵn có để lèo lái tới một cảnh
đời thích hợp với sự phát triển của đạo giáo.
Với
con mắt nhận xét tinh tế về thời cơ đúng lúc, với niềm kiêu hãnh cao độ
về nhân cách Á Đông của mình cộng thêm với tinh thần quốc gia cực đoan
cố hữu, triết lý hành động kỳ lạ của Thích Trí Quang ở nơi niềm tin sắt
đá về sự tất thắng trong mọi mưu lược tranh đấu. Tên ông đồng nghĩa với
những âm mưu nhưng chính ông muốn đối thủ phải kính trọng cái nhân cách Á
Đông của mình nên mọi hành động của ông đều được báo trước. Thượng toạ
nói:
-- Nhiều
người gán cho tôi mối liên hệ mật thiết với ông Lodge, sự thật không
có. Với ông Lodge hay Taylor (3) cũng vậy, mỗi lần tranh đấu tôi đều
gặp, nói cho họ biết lập trường của Phật giáo thế nào, còn người Mỹ muốn
sao tuỳ họ. Tôi hành động đều có báo trước ít nhất là 24 tiếng. Như vụ
tranh đâu gần đây tôi chỉ gặp ông Lodge có một lần, nói rõ lập trường
của Phật giáo về Quốc hội. Ông ta nói Thượng toạ nên nghĩ lại. Tôi chỉ
cười và trả lời đã nghĩ rồi. Có vậy thôi. Còn dư luận cho rằng ông Kỳ đã
gặp tôi trước vụ hạ Trung tướng Thi là hoàn toàn bịa đặt. Tôi chưa hề
gặp ông Nguyễn Cao Kỳ một lần nào.
LÁ VÀNG VÀ GIÓ LỐC
Có lá vàng thì phải có gió lốc. Đó là câu so sánh của Thượng toạ Trí Quang với hiện tình người Mỹ và Cộng sản:
- Lá
vàng đó là Cộng sản, và gió lốc chính là người Mỹ. Muốn chống Cộng thì
phải cần tới người Mỹ, thế thôi. Đối với tôi, những ảnh hưởng ngoại lai
chỉ nên dùng như những phương tiện chứ bảo chấp nhận thì không.
Đề
cập tới sự nguy hiểm của Cộng sản, ông nói họ không phải chỉ là những
chiếc lá vàng làm nhớp nhà mà là những chiếc lá vàng có đóng đinh.
Vì
khía cạnh chống Mỹ trong các phong trào tranh đấu vừa qua của Phật
giáo, có báo ngoại quốc cho rằng Thượng toạ Trí Quang muốn đuổi Mỹ.
Thượng toạ nói:
-- Người
Mỹ rất ngờ nghệch, họ không phân biệt được giữa Bài Mỹ và Chống Mỹ. Bài
Mỹ là một thái độ thù ghét đương nhiên, dù người Mỹ có làm hay đến đâu
cũng vẫn bị ghét bỏ, có khi lại còn thù ghét hơn. Trong khi Chống Mỹ là
một thái độ phản kháng xây dựng. Bởi quan niệm hai người cùng ngồi trên
một chiếc xe, thấy người kia lái bậy thì người nọ phải giành lấy mà lái
nếu không muốn rớt xuống hố. Các phong trào vừa qua không mang tính chất
bài Mỹ mà là chống Mỹ; chống Mỹ đã ngăn cản việc đi tới Quốc hội, chống
Mỹ đã hậu thuẫn những chính phủ tay sai thối nát, chống Mỹ đã giúp
phương tiện đàn áp Đà Nẵng.
Thì
ra thái độ của Thượng toạ là muốn cảnh giác người Mỹ. Cơn gió lốc phải
được thổi đúng hướng, không phải làm bay những niềm tin mà là bốc sạch
đám lá vàng có đóng đinh là Cộng sản.
NGÔ THẾ VINH
PHẠM ĐÌNH VY
Chùa Từ Đàm, Huế 05.05.1966
[Trích Nguyệt san Tình Thương, số 29, 1966]
Ghi chú:
1/ Only Religions Count in Vietnam: Thich Tri Quang and the Vietnam War. James McAllister; Department of Political Science, Williams College, Williamstown, MA 01267
2/ A Talk with Thich Trí Quang. McCulloch, James Wilde. Time Magazine, April 22, 1966 | Vol. 87 No.
3/ Henry Cabot Lodge, Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam 1963-1964. Maxwell D. Taylor, Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam 1964-1965
4/ Hành Trình Tình Thương. Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo, số 74, Tháng 4, 2017
5/
Phạm Đình Vy, nguyên chủ nhiệm Tình Thương 1964-1967, bác sĩ Thuỷ Quân
Lục chiến VNCH, sau tù cải tạo 3 năm vượt biển, sang định cư và hành
nghề y khoa tại Pháp.
MỘT TRANG SỬ KHÉP LẠI
Có
lẽ đây là bức hình cuối cùng của TT Thích Trí Quang, chụp ngày 29 tháng
Tư, 2018 do BS Thân Trọng Minh gửi cho tôi qua một email viết ngày 27
tháng 5, 2018 trong một chuyến ra Huế tới chùa Từ Đàm viếng thăm “Ôn” –
cách xưng hô của TTM với TT Trí Quang. Thân Trọng Minh viết: “Thầy đã
ngoài 90 tuổi nhưng còn minh mẫn và còn thao thức chuyện thế sự. Gửi vài
tấm hình của Thầy để Vinh giữ làm tư liệu nhưng khi Thầy mất mới xử
dụng được.” Cũng trong dịp này, Thân Trọng Minh có đưa Thầy đọc lại bài
phỏng vấn năm xưa của báo SVYK Tình Thương 1966, cách đây 53 năm. TT
Thích Trí Quang nay không còn nữa, ông đã thuộc về một phần của lịch sử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét