Chúng
tôi kinh chuyển đến Quý bâc trưởng thượng những tài liệu lịch sử
hiên đang có trên các trang mạng. Xin Quý vị xem xét những giai đoạn
lịch sử của đất nước, chứ không phải vì món nợ ân tinh cá nhân,
phe đảng, địa phương hay tôn giáo.
Chúng tôi chỉ chỉ chuyển tải những gì đã có do các thế hệ trước tạo ra, và xin chỉ có thế..
Trân trọng kinh chúc quý vị an vui, và thành công.
------------------------------ ------------------------------ ------------------------------ -----------------
Nhóm Caravelle
(Bách khoa toàn
thư mở Wikipedia)
Nhóm Tự do Tiến bộ, còn được biết với tên
gọi Nhóm Caravelle vì nhóm họp báo ra tuyên cáo lần đầu tiên tại Khách sạn
Caravelle Sài Gòn vào năm 1960, là một nhóm gồm 18 chính khách thuộc nhiều thuộc
nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, chống Cộng và đối lập với chính phủ hiện
thời. Trong số họ, có nhiều người đã từng cộng tác với chính quyền Ngô Ðình Diệm,
như ông Lê Trọng Luật, Nguyễn Tăng Nguyên, Trần Văn Ðỗ, Hồ Văn Vui v.v...Nhóm
chỉ tồn tại trên chính trường Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn đầu 1960 đến hết
1963. Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị đảo chính quân sự lật đổ, nhóm này xem
như chấm dứt hoạt động, tuy nhiên, nhiều thành viên cũ của nhóm vẫn có tác động
đến chính trường Việt Nam Cộng hòa cho đến khi chính thể này sụp đổ vào năm
1975.
khi chính sự đã ổn định, tổng thống Diệm đã dần trở mặt với các
thỏa hiệp ban đầu với những người đã ủng hộ ông và giúp ông giữ được ngôi vị
tổng thống. Để đảm bảo vị thế quyền lực của mình, Diệm chủ trương kềm chế các
phe phái chính trị đối lập cũng như ảnh hưởng từ phía nước ngoài như Mỹ, Pháp.
Các tướng lĩnh như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân..., các chính khách như Trần Văn Hương,
Nguyễn Ngọc Thơ, Phan Khắc Sửu..., kể cả nhiều đảng viên cao cấp
của đảng Cần Lao như Trần Chánh Thành, Võ Văn Trưng..., lần lượt
đều bị xa lánh và tước bỏ ảnh hưởng. Trong nền Đệ nhất Cộng hòa, ngoài tổng thống Diệm, quyền
hành bị tập trung vào trong tay một số người thân trong gia đình ông như Ngô Đình Nhu, Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Thục; và một số ít người thân tín
như Trần Kim Tuyến, Lê Quang Tung và đảng Cần lao.
Việc quyền hành nhà nước bị chi phối quá nhiều trong tay những
người trong gia đình tổng thống Diệm, cộng với sự lộng quyền của một số đảng
viên Cần lao và chính sách đàn áp của Chính phủ gây bất mãn trong quần chúng.
Ngay chính trong những người đồng chí thuở ban đầu của Diệm cũng cảm thấy bị
phản bội và chuyển dần sang thế đối lập với người mà họ đã ủng hộ. Họ liên tục
công kích chính sách độc tài chính trị của tổng thống.
Mặt khác, khi những người Cộng sản miền Nam, với sự cho phép của
Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, dần xây dựng cơ sở và
chuyển hướng đấu tranh từ đơn thuần đấu tranh chính trị sang kết hợp với đấu
tranh vũ trang từ cuối năm 1959, sự ổn định của chính phủ Diệm đã trở nên bị
lung lay, nhất là khi nổ ra Phong trào Đồng khởi tại Bến Tre và
Trận tập kích Tua Hai tại Tây Ninh cuối tháng 1 năm
1960. Trước hàng loạt thất bại về quân sự và chính trị của tổng thống Diệm, các
nhóm đối lập ngày càng kích động quần chúng phản đối chính phủ Diệm. Họ buộc
tội chính phủ Ngô Đình Diệm thực chất là một chính phủ độc tài và
gia đình trị, bất lực trong việc ổn định xã hội và chống Cộng thiếu hiệu quả.
Tuyên
cáo Caravelle
Từ những ý kiến trao đổi với một số trí thức đối lập, ba trí
thức đối lập là các ông Trần Văn Văn, Trần Văn Hương và Nguyễn Lưu Viên đã
thảo một bản tuyên cáo kêu gọi chính quyền nên cải tổ. Sau đó, ông Trần Văn Văn
đã đi thuyết phục 15 nhân sĩ khác, thuộc nhiều thuộc nhiều khuynh hướng chính
trị, tôn giáo khác nhau, chống Cộng và đối lập với chính phủ, quê quán ở 3
miền, cùng ký tên vào bản tuyên cáo. Ông Trần Văn Văn đề xuất tên gọi nhóm 18
nhân sĩ là nhóm Tự Do Tiến Bộ, gọi tắt là Cấp Tiến, để
có danh nghĩa chính thức đối lập hợp hiến với chính quyền. Để đảm bảo an toàn
khi ra tuyên cáo, nhóm đã cẩn thận mời đại diện các báo chí Việt Nam họp báo riêng tại một khách sạn ở Chợ Lớn. Các phóng viên nước ngoài và đại diện các tòa đại sứ
được báo mời trước nhưng không cho biết trước địa điểm. Sáng ngày 26 tháng 4 năm 1960, hai ông Trần Văn Văn
và Phan Khắc Sửu, mặc âu phục chỉnh tề, bất thần đến trước cổng dinh Độc Lập, nhờ quân phòng vệ dinh chuyển
bản tuyên cáo đến tổng thống Diệm. Sau đó, các ông trở về khách sạn Caravelle
và cùng các thành viên khác tổ chức họp báo tại đây.
Nội
dung của bản tuyên cáo chỉ trích quyết liệt các sai lầm của chính quyền
về chính trị, hành chính, xã hội và
quân sự, gây ra tình trạng bất mãn trong dân chúng, suy thoái của chế độ và làm
giảm tiềm lực đấu tranh chống cộng. Tuy nhiên, ngoài việc đòi hỏi
thực thi dân chủ và chấm dứt gia đình trị, những đề nghị cải cách tương đối
khiêm tốn.
Thành viên
Dưới đây là danh sách 18 thành viên
của nhóm Caravelle ký tên trong Tuyên cáo ngày 26 tháng 4 năm 1960 (xếp theo thứ tự
ký tên).
STT
|
Tên
|
Năm sinh
|
Quê quán
|
Tôn giáo
|
Đảng phái
|
Ghi chú
(tại thời điểm ký
tên)
|
1
|
1907
|
Đảng Phục
Hưng
|
Thạc sĩ Thương mại,
cựu
Bộ trưởng Kinh
tế và Kế hoạch.
| |||
2
|
Mặt trận Đại
đoàn
kết Quốc dân
|
Kỹ sư Canh Nông,
cựu
Bộ trưởng
Canh Nông.
| ||||
3
|
Đảng Phục
Hưng
|
Giáo sư Trung học,
cựu Đô trưởng Sài
Gòn-Chợ Lớn.
| ||||
4
|
Không đảng
phái
|
Bác sĩ Y khoa, cựu
Cao ủy Di cư.
| ||||
5
|
chưa rõ
|
(quê quán
miền
Nam,
chưa rõ)
|
Bác sĩ Y khoa, cựu
Bộ trưởng Y tế.
| |||
6
|
Hà Tĩnh
|
Bác sĩ Y khoa,
cựu Bộ trưởng
Quốc phòng và
Giáo dục.
| ||||
7
|
cựu Thủ hiến
Trung phần.
| |||||
8
|
chưa rõ
|
(quê quán
miền
Bắc,
chưa rõ)
|
Bác sĩ Y khoa.
| |||
9
|
Bác sĩ Y khoa, cựu
Bộ trưởng Ngoại
giao.
| |||||
10
|
chưa rõ
|
Luật sư, cựu Bộ
trưởng Quốc phòng.
| ||||
11
|
chưa rõ
|
(quê quán
miền
Bắc,
chưa rõ)
|
Phong trào
Liên hiệp
Dân chúng
|
Luật sư, cựu Bộ
trưởng Thông tin.
| ||
12
|
Kỹ sư công chánh,
cựu Thứ trưởng
Kinh tế Quốc gia.
| |||||
13
|
1914
|
Hà Nội
|
Bác sĩ Y khoa,
cựu Bộ trưởng
Lao động và
Thanh Niên.
| |||
14
|
chưa rõ
|
(quê quán
miền
Bắc,
chưa rõ)
|
chưa rõ
|
Bác sĩ Y khoa, cựu
Bộ trưởng Y tế và
Công tác Xã hội.
| ||
15
|
|
Luật sư, cựu Bộ
trưởng Thông tin
và Tuyên truyền.
| ||||
16
|
chưa rõ
|
Không đảng
phái
|
cựu Tỉnh trưởng
Bình
Định.
| |||
17
|
(quê quán
miền
Bắc,
chưa rõ)
|
Không đảng
phái
|
Tiến sĩ Hán học.
| |||
18
|
(quê quán
miền
Nam,
chưa rõ)
|
Không đảng
phái
|
Linh mục, Chánh
xứ họ đạo Tha La,
Tây Ninh
|
Ảnh hưởng chính trị của tuyên cáo
Thực chất, nhóm Tự do Tiến bộ không hẳn là một tổ chức chính trị
độc lập mà chỉ là tập hợp các nhân sĩ cùng đưa ra tuyên bố chính trị. Ngoài ảnh
hưởng của tuyên cáo, các thành viên của nhóm đã có những ảnh hưởng chính trị
riêng của cá nhân hoặc dưới danh nghĩa đảng phái.
Tuy vậy, ảnh hưởng của tuyên cáo làm chấn động chính trường Việt
Nam Cộng hòa bấy giờ. Dù rất ôn hòa, nhưng đây là lần đầu tiên, một nhóm chính
khách dám ra tuyên cáo chống quyền lực của tổng thống Diệm, bấy giờ đang đạt đỉnh
cao.
TUYÊN NGÔN CỦA 18 NHÂN VẬT NHÓM “TỰ DO
TIẾN BỘ”
GỞI TỔNG THỐNG VNCH, SÀIGÒN
Thưa Tổng thống,
Chúng tôi ký tên dưới đây, đại diện cho một nhóm đồng bào, nhân
vật và trí thức tên tuổi thuộc mọi xu hướng, nhóm những người thiện chí nhận thấy
rằng đối diện với sự trầm trọng của tình hình chính trị hiện nay, chúng tôi
không thể cứ bàng quan với những thực tế của nước ta.
Vì vậy, chúng tôi chính thức
gửi đến Tổng thống hôm nay lời kêu gọi, với mục đích phơi bày với Tổng thống tất
cả sự thật trong niềm hy vọng là chính quyền sẽ lưu tâm để gấp rút thay đổi
chính sách, hầu cứu vãn tình hình hiện nay để đưa quốc dân ra khỏi cơn nguy biến.
Chúng ta hãy nhìn lại dĩ vãng thời Tổng thống còn ở nước ngoài.
Đã 8, 9 năm qua, dân tộc Việt Nam trải qua nhiều thử thách do chiến tranh mang
lại; từ sự độ hộ của Pháp đến việc chiếm đóng của Nhật, từ cách mạng cho đến kháng
chiến, từ việc Cộng Sản núp sau chiêu bài quốc gia để gạt gẫm cho đến nền độc lập
giả tạo che dấu nền thực dân, từ kinh hoàng này đến kinh hoàng khác, hy sinh
liên tục - nói tóm lại từ hứa hẹn này đến hứa hẹn khác, cuối cùng cho đến khi
niềm hy vọng kết thúc bằng một sự thất vọng chua cay.
Vì vậy, khi Tổng thống sắp sửa
hồi hương, toàn dân đã nuôi mối hy vọng là dưới sự lãnh đạo của Tổng thống,
toàn dân sẽ lại tìm thấy được nền Hòa bình cần thiết để đem lại ý nghĩa cho cuộc
sống, để dựng lại ngôi nhà đã bị phá hủy, để đặt lại được cái cày trên những mảnh
đất từng bị bỏ hoang. Nhân dân hy vọng rằng không còn bị bắt buộc buổi sáng
hoan hô một chế độ, buổi chiều hoan hô một chế độ khác, không còn là con mồi
cho sự tàn bạo và áp lực của một phe phái nào, không còn bị đối xử như cu-li,
không còn một nền độc quyền nào thao túng, không còn bị sự cướp bóc của công chức
tham nhũng và độc đoán. Nói tóm lại, nhân dân ước mong được sinh sống trong sự
an ninh, dưới một thể chế sẽ đem lại cho họ một chút công lý và tự do. Toàn dân
nghĩ rằng Tổng thống sẽ là con người của thời thế và sẽ đáp ứng được nguyện vọng
của họ.
Lúc Tổng thống mới về nước thì tình trạng quốc gia như thế đó.
Hiệp ước Genève năm 1954 chấm dứt cuộc chiến và sự tàn phá của chiến tranh.
Quân đội viễn chinh Pháp tuần tự rút đi và nền độc lập cho miền Nam Việt Nam trở
thành một sự thật. Ngoài ra, nước nhà còn được sự khích lệ tinh thần và được hưởng
sự viện trợ đáng kể của thế giới tự do. Với nhiều yếu tố chính trị thuận lợi
như thế thêm vào những điều kiện địa dư may mắn có được đất đai màu mỡ về nông
lâm sản và thặng dư về hải sản, đáng lẽ miền Nam Việt Nam đã phải đủ sức để bắt
đầu đi đến thắng lợi cuối cùng trong cuộc chiến đấu với miền Bắc, để có thể thỏa
mãn được ý dân và đưa đất nước đến hy vọng, tự do và hạnh phúc. Ngày này, sáu
năm sau, sau khi hưởng được nhiều lợi điểm không thể chối cãi đến như thế,
Chính phủ đã làm được những gì? Chính phủ đã đưa miền Nam đi về đâu? Những ước
vọng tha thiết nào của nhân dân đã được thành tựu?
Chúng ta thử tổng kết tình
hình một cách khách quan, không xu nịnh mà cũng không buộc tội sai lầm, theo
đúng đường hướng xây dựng mà chính Tổng thống vẫn hay nói đến với ước vọng là
Chính phủ sẽ thay đổi chính sách để tự đưa mình ra khỏi một tình trạng hết sức
hiểm nghèo cho sự sinh tồn của quốc gia.
VỀ CHÍNH TRỊ
Mặc dù chế độ ngoại lai
do thực dân tạo ra và che chở đã bị lật đổ và nhiều phe nhóm từng đàn áp nhân
dân đã bị triệt hạ, dân chúng vẫn chưa tìm thấy được một cuộc sống khá hơn hay
có nhiều tự do hơn dưới chế độ Cộng Hòa do Tổng thống thành lập. Một hiến pháp
đã được lập ra nhưng chỉ có hình thức. Và Quốc hội tuy có đấy nhưng những cuộc
thảo luận luôn luôn được diễn ra chỉ theo đường hướng của chính quyền. Và những
cuộc bầu cử phản dân chủ. Toàn là những phương pháp và “trò hề” bắt chước các
chế độ Cộng Sản độc tài và lẽ tất nhiên là không thể đem ra để so sánh với miền
Bắc được.
Những vụ bắt bớ liên tục tiếp diễn làm cho nhà giam và khám đường
đầy đến tận nóc như hiện nay đang xảy ra; dư luận quần chúng và báo chí phải
câm lặng. Cũng thế, ý dân bị khinh nhục và chà đạp trong những cuộc đầu phiếu
(ví dụ trường hợp xảy ra trong cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 mới đây). Tất cả những điều
này đã gây ra sự nản chí và bất mãn của dân chúng.
Các chính đảng và giáo phái
đã bị loại bỏ. Thay vào đấy là các “Nhóm” và “Phong trào”. Nhưng sự thay thế
này chỉ đem đến những điều áp bức mới cho dân chúng mà không che chở được cho
dân chúng của các giáo phái từ trước vẫn là những vùng tử địa của Cộng Sản thì
nay không những đã mất hết an ninh (cho người Quốc gia) mà còn trở thành những
đại lộ cho du kích Việt Cộng mà tình trạng chung như thế xảy ra khắp nơi.
Đây là chứng cớ cho thấy rằng các giáo phái tuy nhỏ nhoi không
đáng kể đã là những thành phần chống Cộng hữu hiệu. Việc triệt hạ các giáo phái
đã mở lối cho Việt Cộng và vô tình dọn đường cho kẻ thù, trong khi một chính
sách thực tế và uyển chuyển hơn đã có thể liên kết họ về chung thành một khối để
tiếp sức cho trận tuyến chống Cộng.
Ngày nay, nhân dân muốn được tự do. Đáng lẽ Tổng thống nên mở rộng
chế độ, khuyến khích nền dân chủ, bảo đảm các quyền công dân tối thiểu và công
nhận đối lập hầu dân chúng được nói lên tiếng nói của mình mà không sợ hãi để dẹp
được sự bất mãn và căm thù, vì đối với dân chúng, thế đối lập là lý do độc nhất
cho họ tồn tại. Khi Tổng thống thực hiện xong được những điều này thì nhân dân
miền Nam Việt Nam có thế đứng của mình đối với miền Bắc mà nhận ra được giá trị
của một nền tự do thật sự và một nền dân chủ chân chính. Chỉ đến lúc đó dân
chúng mới sẽ nỗ lực và hy sinh tối đa để bảo vệ sự tự do và nền dân chủ ấy.
VỀ CHÍNH QUYỀN
Lãnh thổ thu hẹp lại, số
công chức lại tăng lên mà việc quản trị lại không chạy. Ấy là vì chính quyền giống
như Cộng Sản, đã để cho các đoàn thể chính trị (của chính quyền) kiểm soát người
dân, tách rời nhóm ưu tư ra khỏi hạ tầng và gieo rắc sự nghi ngờ giữa những kẻ
liên hệ với “đoàn thể” và những người “ngoài đoàn thể”. Thực quyền không còn ở
trong tay của những người đáng lý có trách nhiệm của “gia đình”, nơi từ đó các
mệnh lệnh được truyền ra. Điều này làm cho guồng máy hành chánh bị chậm lại,
làm tê liệt mọi sáng kiến và làm nản lòng mọi người có thiện chí. Đồng thời,
không một tháng nào trôi qua mà báo chí không đăng đầy những chuyện hối lộ
không thể che dấu được, những chuyện này trở thành một chuỗi dài những giao dịch
phi pháp hằng triệu bạc.
Guồng máy hành chánh, vốn đã bị đình trệ bây giờ hầu như hoàn
toàn trở nên tê liệt. Nền hành chánh cần được cải tổ gấp rút. Những người có khả
năng phải được đặt đúng vào những chức vụ từ trên xuống dưới, hệ thống hành
chánh và kỷ luật phải được tái lập, quyền lực và trách nhiệm phải đi đôi với
nhau; sự hữu hiệu, sáng kiến, lòng ngay thẳng và tính cần kiệm phải là những
tiêu chuẩn để dùng vào việc thăng thưởng, khả năng nghề nghiệp phải được tôn trọng.
Phải loại trừ tình trạng ban phát ân huệ bằng vào những liên hệ gia đình hay
phe phái. Những kẻ buôn bán quyền hành, tham nhũng và lạm dụng quyền thế phải bị
trừng trị.
Có như thế thì mọi chuyện vẫn còn có thể cứu vãn được, nhân phẩm
còn có thể phục hồi, và có thể dựng lại niềm tin vào một chính quyền thành thật
và công bình.
VỀ QUÂN ĐỘI
Quân đội viễn chinh đã ra
khỏi nước và một quân đội Cộng Hòa đã được thành lập; nhờ vào viện trợ Hoa Kỳ
quân đội này đã được trang bị với quân trang quân cụ tối tân. Tuy nhiên ngay cả
trong lực lượng thanh niên kiêu hãnh như Quân đội Việt Nam - nơi mà đáng lý
tinh thần danh dự phải được vun xới, gồm những kẻ mà bầu nhiệt huyết và những
cánh tay phải được tận dụng vào việc bảo vệ quốc gia, nơi mà đáng lẽ phải vắng
bóng đầu óc phe phái - thì tinh thần “Phong trào Cách mạng Quốc gia” hoặc tinh
thần “Nhân vị” đã chia rẽ những kẻ cùng chung một đơn vị, gây ngờ vực giữa những
bạn đồng ngũ đồng cấp và lấy “sự trung thành với một đảng để tùng phục mù quáng
những kẻ lãnh đạo đảng” làm tiêu chuẩn thăng thưởng. Điều này đã tạo ra những
điều kiện cực kỳ nguy hiểm, như trong vụ vừa xảy ra ở Tây Ninh. (Bernard Fall
ghi chú: Vụ sư đoàn 21 bị Việt Cộng tấn công đầu năm 1960).
Nhiệm vụ của quân đội, rường cột của việc bảo vệ quê hương, là
chận đứng những cuộc ngoại xâm và tiêu diệt các phong trào nổi loạn. Quân đội
chỉ phục vụ quốc gia và không nên để cho một phe nhóm hay đảng phái nào lợi dụng.
Việc cải tổ toàn diện quân đội là một điều cần thiết. Đầu óc phe phái và sự
trung thành với một đảng phải được loại bỏ; tinh thần quân đội phải được tái phục
hồi cho mạnh lên, phải tạo ra một truyền thống cao đẹp về niềm hãnh diện quốc
gia; và tinh thần chiến đấu, lương tâm nghề nghiệp và lòng can trường phải là
những tiêu chuẩn dùng trong việc thăng thưởng. Phải khuyến khích binh sỹ biết
kính trọng cấp trên và phải khuyến khích sĩ quan phải biết yêu thương binh sĩ.
Phải loại bỏ lòng ngờ vực, ganh tỵ và đố kỵ giữa những kẻ đồng đội, đồng ngũ.
Có như thế, gặp thời nguy biến quốc gia sẽ có được một quân đội
hào hùng thúc đẩy bởi một tinh thần và có cùng một lý tưởng: bảo vệ cho cái sở
hữu chúng ta: quê hương Việt Nam.
VỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
Một xứ sở giàu có và phì
nhiêu với thực phẩm dư thừa, một ngân sách không cần phải đối phó với những chi
phí Quốc phòng, (chi phí Quốc phòng của miền Nam Việt Nam do kinh viện và quân
viện của Hoa Kỳ đài thọ: ghi nhận thêm của Bernard Fall) những ngân khoản bồi
thường chiến tranh lớn lao, mức lời cao đẻ ra từ công khố phiếu quốc gia, một
chương trình ngoại viện khổng lồ, một thị trường bành trướng và đủ sức nhận vốn
đầu tư của ngoại quốc. Đó là nhiều điều kiện thuận lợi có thể biến Việt Nam
thành một quốc gia sản xuất cao và thịnh vượng. Thế mà hiện nay nhiều người
không có việc để làm, không có nhà để ở và không có tiền bạc. Gạo nhiều nhưng
bán không được, các tiệm đầy hàng mà hàng hóa lại không di chuyển - nguồn lợi nằm
trong tay những kẻ đầu cơ, dùng phe nhóm, đoàn thể của chính quyền để che dấu
việc buôn bán độc quyền đem lợi về cho một thiểu số tư nhân. Trong lúc đó, hằng
ngàn dân bị huy động đi làm việc cực nhọc, bị ép buộc phải rời bỏ công ăn việc
làm, nhà cửa gia đình của mình để tham gia vào công tác xây dựng những “Khu
Dinh Điền” tuy đồ sộ nhưng vô ích. Điều này làm họ mỏi mệt và mất thiện cảm với
chính quyền càng làm cho mối bất mãn thêm trầm trọng và tạo một môi trường lý
tưởng cho công tác tuyên truyền của địch.
Kinh tế là nền móng của xã hội và lòng dân là yếu tố sống còn của
chế độ. Chính quyền phải phá tan mọi chướng ngại cản trở việc mở mang kinh tế.
Phải hủy bỏ sự độc quyền và đầu cơ dưới mọi hình thức; phải tạo môi trường thuận
tiện cho việc đầu tư đến từ phía các quốc gia thân hữu cũng như từ chính nhân
dân của ta; phải khuyến khích kinh doanh thương mại, khuếch trương kỹ nghệ và tạo
công ăn việc làm để giảm thiểu tình trạng thất nghiệp. Đồng thời, chính quyền
phải chấm dứt sự bóc lột con người dưới mọi hình thức trong các công trường lao
động của những “Khu Dinh Điền”.
Có thế nền kinh tế mới lại phát triển, người dân mới tìm lại được
cuộc sống an bình và mới được thụ hưởng đời sống của mình, xã hội mới được tái
thiết trong một bầu không khí tự do và dân chủ.
Thưa Tổng thống, có lẽ đây là lần đầu tiên Tổng thống mới được
nghe lời phê bình gắt gao và khó chịu ngược lại với ý muốn của Tổng thống. Tuy
nhiên, thưa Tổng thống, những lời trình bày ở đây là sự thật hoàn toàn, một sự
thật cay đắng nặng nề mà Tổng thống chưa bao giờ biết được vì dù vô tình hay chủ
ý, một khoảng trống quanh Tổng thống đã được tạo ra và chính vì cái địa vị cao
cả của Tổng thống mà không ai để cho Tổng thống nhận ra được thời kỳ nghiêm trọng
khi mà sự thật sẽ tràn tới như những làn sóng căm hờn không cưỡng nổi, sự căm hờn
của nhân dân đã từ rất lâu phải nhận chịu sự đau khổ khủng khiếp đến một lúc sẽ
vùng lên bẻ gẫy những ràng buộc từng cột chặt mình, đè mình xuống. Làn sóng này
sẽ quét sạch sự ô nhục và bất công vốn bao quanh người dân đã áp bức họ.
Vì chúng tôi hoàn toàn thành thật không muốn thấy Quê Cha Đất Tổ
phải trải chịu những ngày tháng hiểm nghèo đó nên chúng tôi - không kể đến những
hậu quả do hành động của chúng tôi sẽ mang lại cho chúng tôi - hôm nay gióng
lên tiếng chuông báo động trước mối nguy cơ cấp thiết đang đe dọa chính quyền.
Cho đến nay, chúng tôi đã giữ im lặng và để cho chính quyền mặc
ý hành động. Nhưng bây giờ đã đến lúc khẩn thiết, chúng tôi cảm thấy rằng bổn
phận của chúng tôi - và trong lúc nước nhà gặp cảnh rối loạn thì ngay cả những
kẻ hèn kém nhất cũng phải chia xẻ bổn phận này - là phải nói lên sự thật, thức
tỉnh dư luận, báo động với nhân dân, và liên kết những kẻ đối lập, để cho thấy
lối thoát.
Chúng tôi thỉnh cầu chính quyền gấp thay đổi chính sách để cứu vãn
tình thế, bảo vệ chế độ Cộng Hòa và bảo vệ sự sống còn của quốc gia. Chúng tôi
giữ vững niềm hy vọng là dân tộc Việt Nam sẽ có một tương lai sáng lạn để được
hưởng thanh bình và thịnh vượng trong Tự Do và Tiến Bộ.
Trân trọng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét