16 tháng 11, 2018

Lương Thế Vinh - người thầy giỏi Toán 'khác mọi thầy'

Lương Thế Vinh chủ trương học trò cần học tập chuyên tâm, nhưng cũng phải biết kết hợp với giải trí và phải vận dụng kiến thức vào cuộc sống.

Lương Thế Vinh sinh năm 1441 ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam, nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo (Vụ Bản, Nam Định). Hồi nhỏ, ông nổi tiếng khỏe mạnh, học một biết mười, nhưng nghịch ngợm cũng bằng mười chúng bạn. Lớn lên một chút, ông được bố mẹ gửi tới học với cụ Giải nguyên Lương Hay ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa) và trở thành học trò giỏi của cụ, đỗ trạng nguyên ngay trong lần đầu lều chõng đi thi vào năm 22 tuổi.

Ông Trạng Lường với hơn 30 năm ở chốn quan trường
Lương Thế Vinh được gọi là Trạng Lường bởi rất giỏi đo lường, tính toán. Sách Thần đồng xưa của nước ta viết, tương truyền từ thuở nhỏ, có lần chơi cùng chúng bạn dưới gốc cây cổ thụ, cả nhóm thách đố nhau làm thế nào để biết được cây cao hay thấp. Một số cho rằng chỉ có cách trèo lên ngọn cây rồi dùng dây thòng xuống đất mà đo. Riêng Lương Thế Vinh nói không cần.
Lương Thế Vinh lấy chiếc gậy đo xem dài ngắn bao nhiêu, rồi dựng gậy lên mặt đất và đo chiều dài bóng gậy. Tiếp đoạn, ông đo bóng cây và sau một lát nhẩm tính đã tìm ra chiều cao của cây. Bọn trẻ không tin bèn dùng thừng nối lại, buộc hòn đá phía dưới rồi trèo lên tít ngọn cây dong thừng xuống đất để đo. Kết quả đúng như Vinh đã tính.

"Ngày nay, cách tính chiều cao của cây mà Lương Thế Vinh áp dụng chắc học sinh không lấy gì làm lạ. Nhưng cách đây gần 5 thế kỷ thì việc Lương Thế Vinh tính được tỷ lệ chiều cao của cây và chiếc gậy bằng tỷ lệ bóng của chúng trên mặt đất là một sáng tạo, thể hiện nước ta ở thế kỷ 15 đã có nhà toán học đầy tài năng", tác giả Quốc Chấn viết trong cuốn Thần đồng xưa của nước ta.

Trạng Lường Lương Thế Vinh.
Trạng Lường Lương Thế Vinh.
Học giỏi có tiếng, Lương Thế Vinh tham dự khoa thi Quý Mùi (1463) dưới thời vua Lê Thánh Tông và đỗ ngay trạng nguyên. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép năm đó có tới 4.400 người dự thi, lấy đỗ 44 người. Phấn khởi trước thắng lợi của khoa thi khi mình mới lên ngôi, vua Lê Thánh Tông đã ban lá cờ khoa, tự tay đề ba vị khoa khôi thành một bài thơ: Trạng nguyên Lương Thế Vinh/ Bảng nhãn Nguyễn Đức TrinhThám hoa Quách Đình BảoThiên hạ cộng tri danh.
Sau khi đỗ đạt, Lương Thế Vinh ra làm quan 32 năm, nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ông làm ở Viện hàn lâm, được thăng đến chức cao nhất trong viện. Ông thường khuyên vua chọn người hiền tài, đặt quan chức để "vì dân mà làm việc", nhà vua và triều đình phải "đồng tâm nhất thể"; đồng thời cũng khuyên vua xử tội các quan lại làm sai.
Lương Thế Vinh còn được vua giao soạn nhiều biểu sớ quan trọng liên quan đến ngoại giao với nhà Minh. Trong lần làm sứ nhà Thanh, Chu Hy phải thán phục tài năng tính toán của ông. Lần đó, Chu Hy yêu cầu quan trạng cân trọng lượng của một con voi rất to. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên.
Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả. Chu Hy thán phục, nhưng tiếp tục đố Lương Thế Vinh đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ quyển sách. Vị quan nhà Lê trả lời rằng chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra. Sứ nhà Thanh khi đó đã phải thốt lên: Nước Nam quả có lắm người tài.
Ngoài việc triều chính, Lương Thế Vinh tham gia dạy học ở Quốc Tử Giám, Sùng Văn Quán và Tú Lâm cục - những trường cao cấp đào tạo nhân tài cho đất nước thời bấy giờ.

Quan điểm giáo dục của thầy giáo có nhiều trò giỏi
Trong cuốn Những người thầy trong sử Việt, tác giả Nguyễn Huy Thắng viết Lương Thế Vinh là "người thầy khác mọi thầy". Tác giả cho rằng quan điểm giáo dục của thầy giáo Lương Thế Vinh không giống những bạn đồng liêu. Bằng kinh nghiệm, ông chủ trương học trò cần học tập chuyên tâm, nhưng cũng phải biết kết hợp với giải trí thoải mái, gần gũi với người dân, hòa mình với thiên nhiên và phải tìm mọi cách vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
Trong số các chế, biểu dâng lên vua, nhiều lần ông mạnh dạn đề xuất những cải cách về học hành, thi cử, đưa việc học xuống tận thôn dân, không ưu đãi các quan lại đương chức trong việc thi cử để chọn đúng kẻ thực tài, quan tâm đến việc dạy đạo đức và những tri thức khác có ứng dụng trong thực tế.
Với quan niệm "Thần cơ diệu toán vạn niên sư" (ai tính toán giỏi là người thầy muôn đời), Lương Thế Vinh đã dành nhiều tâm huyết để biên soạn cuốn Đại thành toán pháp. Đây là cuốn sách toán học cổ, bằng chữ Nôm, nội dung nói về kiến thức số học, có bảng cửu chương, phép tính nhân, phép bình phương (khai căn), đồng phân (chia đều); phương pháp đo lường bóng (phương pháp tam giác đồng dạng); hệ thống đo lường (cách cân, đong, đo, đếm...); cách đo điền, đo diện tích hình vuông, chữ nhật, tam giác, hình tròn...
Ở mỗi phần, mỗi phương pháp, Lương Thế Vinh đề một bài thơ cho người đọc dễ thuộc, dễ nhớ. Ví dụ, khi dạy cách tính diện tích hình thang, ông viết "Tam giác bị cụt đầuDiện tích tính làm saoCạnh trên cạnh dưới cộng vàoĐem nhân với nửa bề cao khắc thành. Cuốn sách của Lương Thế Vinh không chỉ nổi tiếng khắp trong nước mà còn vang danh ở cả nước ngoài.
Ngoài viết sách toán, Trạng nguyên của triều Lê còn là tác giả của Hý phường phả lục nêu những nguyên tắc có tính lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên, múa hát và đánh trống.
Trong thời gian dạy học của mình, Lương Thế Vinh có nhiều học trò đỗ đạt cao như Trần Tất Đạt - tiến sĩ năm 1469, Trần Bích Hoành - thám hoa năm 1478, Trần Xuân Vinh - tiến sĩ năm 1499 và đặc biệt là Lương Đắc Bằng - thầy của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông luôn được học trò quý mến và kính trọng.
Ông trạng đa tài Lương Thế Vinh mất năm 1495 tại quê nhà, thọ 54 tuổi. Vua Lê Thánh Tông rất thương tiếc, làm một bài thơ Nôm gửi về phúng điếu. Câu cuối, nhà vua ai oán than "Lấy ai làm Trạng nước Nam ta"?
"Hẳn rồi, ý nhà vua muốn nói Lương Thế Vinh đã đi xa, liệu tìm đâu được ai xứng đáng làm Trạng nước Đại Nam này nữa? Nhưng tại sao không thể hiểu rằng, không còn ông nữa, biết lấy ai làm (đào tạo) ra được những người tài giỏi, những ông nghè, ông trạng như ông từng làm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp", tác giả Nguyễn Huy Thắng đặt câu hỏi trong cuốn sách của mình.
Quan điểm giáo dục và những đóng góp của Lương Thế Vinh được người đời ghi nhận. Ngày nay, nhiều đường phố, trường học được đặt theo tên của người thầy giáo mẫu mực này. Đền thờ Lương Thế Vinh tại huyện Vụ Bản (Nam Định) năm 1990 đã được công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia.
Dương Tâm

15 tháng 11, 2018

Trận Nhật Tảo (10/12/1861) theo ghi chép từ đại Nam thực lục:

theo ghi chép từ đại Nam thực lục:

Sai lĩnh Phó lãnh binh Gia Định là Trương Định kiêm lĩnh làm đầu mục quân mộ nghĩa ở Gia Định. Định đóng đồn ở xứ Gò Thượng (thuộc huyện Tân Hòa) thường ra đánh úp quân Tây dương. Nghĩa sĩ nhiều người đi theo. (Định năm trước chiêu mộ các thân hào ứng nghĩa, dồn thành 18 cơ, nổi lên bắt được súng đạn (của Tây dương) và đúc thêm súng để phòng bị sai phái, mong ơn được lĩnh chức Phó lãnh binh).

Khi ấy quân Tây dương đỗ tàu bọc đồng ở phần thôn Nhật Tảo. Quyền sung Quản binh đạo là Nguyễn Văn Lịch sai sung Phó quản binh đạo là Hoàng Khắc Nhượng, Võ Văn Quang đều đem binh thuyền dọc theo ven sông, tới gần chỗ tàu quân Tây dương đậu, chia quân phòng bị và đặt quân phục kích, bèn đem 59 viên nhân quân chiến tâm chia làm 2 đạo, giả làm thuyền buôn thẳng tới tàu Tây dương, nhảy lên trước đâm chết 4 tên người Tây dương, những người cùng đi đều nhảy lên tàu một lượt giết bừa đi. Quân Tây dương nhảy xuống sông, hoặc chết hoặc thoát thân ; còn thì chui xuống khoang thuyền chống bắn. Quang liền hô 30 tên phục binh nổi dậy tiếp chiến. Bọn quản toán là Nguyễn Học, lương thần là Hồ Quang lấy búa sắt phá tàu của Tây dương không vỡ, tức thì phóng lửa đốt cháy hết. Vua thưởng cho bọn Lịch, Quản cơ Nhượng, Quang cộng 20 người làm Cai đội, đều cho ngân tiền và thưởng chung cho binh đinh 1.000 quan tiền, 4 người bị chết cấp cho tiền tuất gấp 2 và ấm nhiêu cho con hay cháu gọi bằng chú bác ruột. Lại chẩn cấp cho những nhà thôn ấy bị Tây dương đốt cháy.

Thự Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, lĩnh Tuần phủ Định Tường là Đỗ Thúc Tĩnh đều nói trận này là trận xuất sắc nhất, cho nên mới thưởng cho hậu. Lại nói : Những cử nhân, thổ hào ứng nghĩa ở Định Tường, Vĩnh Long cũng có giết chết được quân Tây dương và đánh đắm được thuyền lính ma tà của Tây dương, nên đều thưởng cho phẩm hàm ngân tiền, người bị chết đều cho tiền tuất gấp hai.

6 tháng 11, 2018

Ngô Đình Cẩn, ông là ai?



Ngô Đình Cẩn, ông là ai?
Nguyễn Văn Lục
Tựa đề trên cho bài viết này, tôi lấy cảm hứng từ bài biện hộ ba tiếng đồng hồ của luật sư Võ Văn Quan đặt ra cho những kẻ đứng trên cả pháp luật như Nguyễn Khánh với sắc luật 4/64, những quan tòa nhân danh công lý ngồi xử ông Cẩn, cho các nhân chứng tố cáo ông Cẩn, cho tất cả những ai thù ghét cũng như quý mến ông Cẩn phải trả lời được câu hỏi: Ngô Đình Cẩn. Ông là ai?

Ông Ngô Đình Cẩn, 53 tuổi bệnh tiểu đường, ra toà ngày 16 tháng4, 1964.
IIng tuyên bố vô tội. Nguồn: UPI

Theo dõi phiên tòa với lời biện hộ của luật sư Quan cho ông Cẩn,
hầu như có một sự im lặng chạy suốt căn phòng tòa án.
Sự im lặng ấy phải chăng luật sư đã đánh động được một cái gì, cái gì đó của những người có mặt.
Nam Đình có đặt câu hỏi: tôi không biết 9 năm ở Huế ông hét ra lửa như thế nào, chớ hôm nay ra tòa, tôi ngồi cách bị can 4 thước mà tôi không nghe thấy gì hết, mặc dầu tôi ở cạnh sông Hương núi Ngự bao nhiêu năm.
(Bài tường thuật của nhà
báo Nam Đình cho tờ báo Thần Chung)
Xin trích lại lời luật sư Võ Văn Quan sau lời bào chữa cho ông Cẩn:
“Dứt lời, tôi ngồi xuống trong im lặng. Nơi cuối phòng xử có tiếng vỗ tay lẻ loi của một người nào đó.(..) Tôi day lại nhìn ông Cẩn. Ông nói: cám ơn luật sư thật nhiều”. Anh cựu thủ lãnh luật sư đoàn Phan Kiến Khương nhìn tôi gật đầu mỉm cười. Phần ông thủ lãnh luật sư đoàn Nguyễn văn Huyền trầm tĩnh hơn, kéo tay tôi ra nói riêng: “ Ông ủy viên chính phủ này không phải tay vừa. Anh nên cẩn thận đừng nóng nảy đi quá trớn, sơ xuất để cho Tòa có cớ làm khó dễ anh. Lúc nào tôi cũng có mặt trong phòng xử để bênh vực anh.”
(Võ Văn Quan, “Luật sư, Nghề hay Nghiệp? Vài cảm nghĩ và kỷ niệm về một thời hành nghề. Vụ án Ngô Đình Cẩn”. Hay là “Từ cố vấn chỉ đạo thành tử tội” Độc quyền của tờ Ngày Nay, 1992)
Ghi chú về Ls Quan:
Luật sư Võ Văn Quan tốt nghiệp luật năm 1954 về luật dân sự tại Sài Gòn, chuyển hướng sang hành nghề luật hình sự từ 1960. Ông từng là luật sư của nhiều vụ án liên quan đến chính trị thời đệ nhất và đệ nhị cộng hòa như vụ các nhân sĩ trong nhóm Caravelle, vụ tướng Dương Ngọc Lắm, vụ thiếu tướng Lâm văn Phát, bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, vụ đại tá Đàm Quang Yêu, vụ dân Biểu Trần Ngọc Châu, vụ kỹ sư Trương Như Tảng, v.v..
Tư cách và sự can đảm của Ls Võ văn Quan trong vụ biện hộ cho nhóm Caravelle, thời đệ nhất cộng hòa, là nguồn cớ cho việc ông được bà Trần Trung Dung đến mời ông cãi dùm cho ông Cẩn. Có nhiều luật sư có tiếng tăm, quen thân thiết với gia đình đã từ chối không dám nhận cãi cho ông Cẩn.
Tại sao có sự im lặng ấy? Đó là cái nghịch cảnh của vụ xử án này. Kẻ dưới quyền, ra vào luồn cúi chịu ơn mưa móc nay trở thành kẻ ngồi xử án. Trong buổi trả lời ký giả Hồng Phúc, Ls Võ Văn Quan đã tiết lộ cho biết,
“sau phiên tòa đầu tiên, ông Cẩn cho biết những kẻ ngồi xử án ông (3 sĩ quan cấp đại tá, một trung tá), ông Cẩn có nói rõ tên là những kẻ phản phúc. Đôi khi ông Cẩn nhìn họ với cặp mắt long lanh qua gọng kính của ông, những kẻ ấy gặp cái nhìn ấy thì bẽn lẽn quay mặt ra chỗ khác.”
(Trong vụ xử ông Ngô Đình Cẩn, theo luật sư Võ Văn Quan khi trả lời phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc cho Thế giới Ngày Nay, ngày 17-3-2012. Trích nguyên văn lời luật sư Quan.)
Theo Ls Quan:
“Thành phần xử án ông Ngô Đình Cẩn gồm: Lê Văn Thụ, chánh án. Phụ thẩm: đại tá Nguyễn Văn Chuân, đại tá Đặng Văn Quang, đại tá Trương Văn Chương, trung tá Dương Hiếu Nghĩa. Phụ thẩm Nhân dân gồm quý ông|: Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn Hữu Sửu và Bùi Văn Nhu. Chưởng lý: Thiếu tá Nguyễn văn Đức. Lục sự Nguyễn văn Tâm. Trong hồ sơ ghi: Án Tòa Cách Mạng, do sắc luật 4/64, ngày 20-2-1964.”
Thành phần xử án này do chính tay Nguyễn Khánh ký Sắc lệnh số 120-TP cử các tay chân của ông như các các đại tá kể trên.
Cũng theo Ls Võ văn Quan nhận xét về 4 vị sĩ quan trên trong sách của ông:
“Thành tích của ông Đặng Văn Quang thiên hạ biết quá nhiều, xin miễn nhắc đến. Thành tích của đại tá Nguyễn văn Chuân ra sao, xin quý độc giả độc xem quyển Việt Nam Nhân Chứng của tướng Trần văn Đôn sẽ thấy không có gì đáng đề cao. Đại tá Trương Văn Chương về sau dính líu trong một vụ buôn lậu. Về phần Trung tá Dương Hiếu Nghĩa không đầy một năm sau vụ án Ngô Đình Cẩn, tôi lại gặp ông một lần nữa trong phòng xử này, nhưng ông tụt xuống ngồi trên ghế bị cáo vì dính líu trong vụ đảo chánh ngay 13-9-năm -1964, chuyện đời có lắm sự trớ trêu không thể ngờ được như vậy.”
(Võ Văn Quan, Báo Thế giới ngày nay, số 108, tháng 2-3 93, trang 89)
Phải chăng đây là một ván bài lật ngửa? Kẻ kết ân trở thành bị cáo?
Trong phần phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc với Ls Võ Văn Quan có một câu hỏi khá là quan trọng như sau:
“Theo luật sư, Ông Ngô Đình Cẩn là người có tội hay vô tội?
Ls Võ Văn Quan:
Để trả lời câu hỏi này, tôi chỉ căn cứ trên hồ sơ của bị can Ngô Đình Cẩn. Nếu căn cứ trên hồ sơ thì không có bất cứ bằng cớ nào cũng không có bất cứ giấy tờ của ông Cẩn ra lệnh cho các công an trong vụ tống tiền và thủ tiêu các nạn nhân gián điệp miền Trung. Tôi đã xin hỏi Ủy Viên chính phủ: “Trong hồ sơ có công văn nào giao quyền cho ông Cẩn chỉ huy bộ máy tư pháp, có một chỉ thị do bị can ký tên ra lệnh cho các công an viên đó hay không?” Tuyệt nhiên không có. Không có văn thư, không có bằng cớ đích xác đó, ủy viên chính phủ đành phải đưa ra nhân chứng để buộc tội ông Cẩn cho được. Nhưng nếu không được xác nhận bằng văn thư cụ thể khách quan, có gì bảo đảm rằng các nhân chứng vô tư, không bị chi phối vì tư lợi, không bị mua chuộc hay hăm dọa. Những người được gọi là nhân chứng này thực sự họ là ai? Mấy nhân chứng này là những người lật lọng tráo trở, quý tòa không thể nào tin vào lời nói của họ được!
Luật sư Võ Văn Quan đã trích dẫn một nguyên tắc pháp luật trong luật Hình sự được quy định rõ ràng như sau:
“Một điều luật trong Bộ Hình Sự quy định rằng Tòa phải – và chỉ – căn cứ vào hồ sơ mà thôi để phán xử, thậm chí những điều gì vị thẩm phán tự mình biết được, nhưng không có ghi nhận trong hồ sơ, thẩm phán ấy cũng không được quyền căn cứ sự hiểu biết riêng tư đó mà xử tội. Điều luật ấy rất công minh: những hiểu biết riêng tư không có ghi lại trong hồ sơ, không được Công Tố Viện và bên biện hộ nghiên cứu và tranh luận để nhận định xác tín, tức nhiên không thể dùng làm căn bản cho việc xét xử được.””
(Võ Văn Quan, ibid., Ngày Nay, số 107, tháng 1-93).
Và sau đây là lời nói chót của ông Cẩn:
“Ông diềm nhiên, chậm rãi nói rằng mình vô tội, không có quyền hành, không có ra lịnh cho các công an viên làm sự phi pháp. Ông không van xin cầu khẩn gì hết. Ông biết cái luật chơi tàn nhẫn của chính trị và ông có vẻ điềm tĩnh chấp nhận, mặc dầu đối tượng cuộc chơi chính là sanh mạng của mình.”
(Võ Văn Quan,Ngày Nay, số 110. Tháng 5-93)
Về phía ông Ngô Đình Cẩn, sau khi bị tuyên án tử hình, ông Cẩn không nhận tội và một mực kêu mình vô tội.

Luật sư Võ Văn Quan và ông Ngô Đình Cẩn trong khám Chí Hoà (1964). Nguồn: Petrotimes.
Nhưng Ls Võ Văn Quan cũng thừa biết ràng không thể nào có bản án tha bổng. Phiên xử tại Sài Gòn từ ông Ngô Đình Cẩn, bà Trần Trung Dung, Ls biện hộ thì đều tin chắc rằng: Bản án tử hình đã được định trước rồi. Tất cả chỉ là màn trình diễn như một vở kịch lớp lang có thứ tự đầu đuôi.
Người ta tự hỏi Công lý nằm ở chỗ nào trong Tòa án? Nằm ở phía trên ba tòa quan lớn với Lê Văn Thụ, Chánh thẩm. Lê Văn Đức, Công Tố Viên? Hay là nằm ở đằng sau cánh cửa tòa án với những nguời mà bà Trần Trung Dung sau này ở bên Mỹ có dịp kể lại từng chi tiết rõ ràng cho Ls Quan về những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đoạn gian manh đằng sau vụ án? Và quan trọng hơn cả là việc trao đổi trên xác chết Ngô Đình Cẩn của Nguyễn Khánh muốn lấy lòng nhóm Phật giáo Trí Quang? Khánh xoay đổi sự liên kết của ông cho phe phái nào hứa hẹn xét ra có lợi cho ông, ông sẽ ngả về phía ấy.
Luật sư Võ văn Quan thừa hiểu dụng tâm của Nguyễn Khánh:
“Để mua chuộc cảm tình của giới Phật giáo. Chánh quyền tuyên bố sẽ đem Ngô Đình Cẩn ra xét xử ngay. Đúng. Ông Cẩn phải bị đưa ra xét xử để trả lời về những tội trạng của ông. Nhưng đột ngột đưa ông ra xét xử, với mục đích mua chuộc sự ủng hộ của giới Phật Giáo, mua thời gian cho chánh quyền- Đó không phải là hành xử công lý, nhưng là “ thủ đoạn chính trị lợi dụng công lý.”
(Ls Võ Văn Quan, Báo Ngày Nay, số 107, tháng 1-93)
Nguyễn Khánh đã chuẩn bị một hành lang pháp lý với sắc luật số 4/64 ngày 28.2.1964 để có thể đưa những người như Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn, Đặng Sỹ ra tòa và họ sẽ không tránh khởi bản án tử hình. Khánh đã đưa đại tá Nguyễn Văn Mầu, Giám đốc Nha Quân Pháp, lên làm Bộ Trưởng tư pháp để đưa ra luật 4/64.
Hiện nay tôi cũng không ai biết danh tánh nhóm luật sư nào đã soạn thảo bộ luật 4/64. Và dù nay có biết, họ cũng cố tình dấu nhẹm không để lộ danh tánh. Rồi ai là người ký bộ luật này để đem ra thi hành?
Quốc Trưởng Dương Văn Minh hay Thủ tướng Nguyễn Khánh? Nhưng Nguyễn Khánh đã khẳng định đổ hết tội lên đầu Dương văn Minh: cái chết của anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Cẩn là do sự trả thù cá nhân của Dương Văn Minh.
Nguyên tắc của Bộ luật này là không tôn trọng nguyên tắc bất hồi tố của hình luật. Vì thế, tòa án có thể xử những tội ác gây ra trong thời gian từ 26-10-1955 đến 1-10-1963.
Điều 5, cấm tòa án cách mạng không được quyền giảm khinh, cũng như không được phạt án treo. Điều 16, cấm các bị cáo không được kháng cáo.
Đây là những điều luật giết người vô cùng dã man. Ngậm ngùi thay cho đất nước vào hồi mạt vận nên gặp phải những kẻ gian sảo vô tài lại bất lương, chối tội.
Đối với luật sư biện hộ thì văn hoa hơn, ông cho rằng khi “chính trị đi vào cửa trước thì pháp luật phải luồn ra cửa sau”. Ông cũng không quên viện dẫn trường hợp cách mạng Pháp như lời nói cuối cùng trước khi tòa định án như sau:
“Trong cuộc cách mạng năm 1789 của Pháp, Quốc Hội gọi là Convention Nationale, bầu trong thời kỳ La Terreur (Khủng bố) gồm đa số là những người do tên độc tài khát máu Ropespierre dùng áp lực đưa vào. Ropespierre đã tuyên bố là phải có án tử hình. Trong phiên tòa đặc biệt đó, Nhiều người của Convention Nationale đã cật vấn hằn học, mạt sát thậm tệ vua Louis XVI, cho thấy trước rằng họ sẽ bỏ phiếu tuyên án tử hình.
Khi đứng lên biện hộ cho Louis XVI, luật sư De Sège đã can trường nói thẳng với họ:
“Je viens ici chercher des Juges, mais je ne trouve que des Bourreaux.”
(Tôi đến đây tìm những vị thẩm phán quan, nhưng tôi chỉ gặp những tên đao phủ thủ.)”
(Ls Võ Văn Quan, số 119, tháng 5-93)
Dẫn chứng này của luật sư Võ Văn Quan có khác chi chỉ thẳng vào các sĩ quan đang ngồi xử án trên kia, họ không phải quan tòa mà chỉ là những tên đao phủ thủ không hơn không kém!
Lời kết án nặng nề như thế vậy mà các vị phán quan ngồi xử án ngồi im lặng không một ai lên tiếng phản đối.
Hay ngược lại, phải chăng nó nằm ở phía bị cáo ở vành móng ngựa? Ngô Đình Cẩn là ai? Nếu không có luật 4/64 thì cái đầu của Ngô Đình Cẩn vẫn còn dính trên cổ? Ông Cẩn khong chết vì tội đã làm mà chết vì khung pháp lý bất nhân như lưỡi hái tử thần phập xuống.
Vì thế, cho đến khi tôi cầm bút viết bài này, câu trả lời Ông Cẩn là ai? không phải là dễ cho bất cứ ai. Nhiều uẩn khúc vẫn còn đó.
Tướng Khánh phủ nhận mọi cáo buộc ông
Trong suốt thời kỳ Đệ Nhị Cộng Hòa, hầu như không một ai đã có dụng tâm muốn dở lại hồ sơ vụ án tử hình Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đặng Sỹ. Mọi người muốn quên chăng? Cùng lắm người ta nhắc nhiều đến cái chết của anh em ông Diệm-Nhu với hằng trăm tài liệu phần lớn của người ngoại quốc viết.
Trường hợp ông Cẩn là bị bỏ quên hoàn toàn.
Chê có thể không đáng chê mà khen thì không tiện vì ông chỉ là một người ít học quê mùa, việc chính yếu của ông là thay anh em phụng dưỡng mẹ già. Thói thường người mình thường coi thường kẻ ít học. Dĩ chí đến anh em trong nhà cũng có thể có tâm trạng coi khinh “Cậu Cẩn”. Cộng thêm chức cố vấn chỉ đạo miền Trung mà chắc chắn không có văn thư chính thức nào của tổng thống phủ. Theo Trung tá Nguyễn Văn Minh do nhu cầu kết hợp các tổ chức đoàn thể miền Trung đã đưa đến quyết định thiết lập một văn phòng chỉ đạo do ông Ngô Đình Cẩn cầm đầu. Nó không có ngân sách, không thuộc hệ thống hành chánh chính phủ. Trong đó văn phòng cố vấn chỉ đạo chỉ có tính cách nội bộ, địa phương, không dính dáng đến chính quyền, được thành lập từ cuối năm 1957.
Sau này ra Hải ngoại tôi thấy đã bắt đầu xuất hiện nhiều hồ sơ lẻ tẻ liên quan xa gần đến nội vụ như: Bạch truyện tự ghi của Trí Quang, Thôn nữ Tự Truyện, của bà Ngọc An, vợ của Trung Tá Trần văn Thưởng, giám đốc Nha công an Trung Phần. Hồ sơ Thống Nhất Phật Giáo của Đỗ Trung Hiếu. Nhất là cuốn: Tổng kết nội vụ Phật giáo và |Đại Học (ghi Tối mật, dạng photoco y có dấu triện trên từng trang một) của Lê Dư, trưởng ty Cảnh sát Quốc Gia Thừa Thiên kính gửi Trung tướng chủ tịch Ủy Ban điều hành Trung nguyên Trung Phần. Rồi Bạch Thư của TT Thích Tâm Châu. Có những tài liệu đáng nghi ngại in photocopy, không đề tên tác giả như: Giấc Mơ lãnh tụ, ám chỉ hoạt động của Trí Quang và Phật giáo miền Trung.
Càng đọc càng thấy nhiều uẩn khúc, nhiều điều cần được suy nghĩ và nói ra.
Tôi cũng biết chắc, 10 người hết cả mười không mấy ai có cơ hội đọc Cuốn Hồ sơ Nhân Quyền: Phúc trình của phái đoàn điều tra Phật giáo. Bản báo cáo đầy đủ của Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc phỏng vấn các nhân chứng nạn nhân, 1963. Và khi về họ đã đi đến kết luận: Không có đàn áp tôn giáo ở Việt Nam.
Và nếu ai cũng có cơ hội đọc được cuốn này thì hiểu rõ thực chất vụ tranh đấu Phật giáo, tránh được biết bao tranh cãi vô ích?
Về sách Mỹ liên quan đến Phật giáo, tôi rất trân trọng với cuốn: Lotus Unleashed, The Buddihst Peace movement in South Vietnam 1964-1966 của Robert J. Topmiller. 2002.
Đọc cuốn này để hiểu Trí Quang là ai? Và Phật giáo trong giai đoạn 1964-1965 thực chất là một lực lượng chính trị đi song song với MTGPMN.
Tuy nhiên, cá nhân tôi bắt đầu lưu ý tới ông Ngô Đình Cẩn khi được Trung tá Nguyễn Văn Minh, Văn phòng ông Cẩn trong 9 năm viết hai cuốn sách: Dòng họ Ngô Đình, giấc mơ chưa đạt và cuốn thứ hai gần đây: Dòng họ Ngô Đinh, Giấc mơ bị phản bội. Tôi có cơ hội hiểu biết thêm về ông và những nguồn dư luận bên ngoài.
Tuy nhiên, tôi chỉ thực sự chú trọng tới hồ sơ Ngô Đình Cẩn khi được đọc các tài liệu phía bên kia: Cuốn Bội Phản hay Chân Chính của Dư Văn Chất cũng như bài “Nhà văn bất đắc dĩ” của Dư Văn Chất. (Tài liệu này được Dư Văn Chất trao cho Nguyễn Văn Trung khi ra hải ngoại).
Tài liệu tiếp theo là của Mười Hương trong cuốn: Tình Báo Chiến Lược. Và cuốn mới đây nhất cũng chỉ nhắc lại những ý kiến trước đây: cuốn Trần Quốc Huong, người chỉ huy tình báo, do Nguyễn Thị Ngọc hải chấp bút, 2015.
Nhưng tôi phải thú thực cuốn sách có khả năng lôi cuốn và thuyết phục tôi một cách mãnh liệt và dứt khoát là cuốn sách của luật sư Võ Văn Quan, lúc còn in trên báo Ngày Nay, năm 1992 trở đi: Luật sư Nghề hay Nghiệp. Nay luật sư cũng đã không còn nữa.
Tôi viết bài này phần lớn dựa trên tài liệu của tác giả, người đã hết lòng biện hộ cho Ngô Đình Cẩn. Và nay cúi mình trước vong linh cả hai người: kẻ bị cáo và kẻ biện hộ.
Tiếp theo là các bài phỏng vấn giá trị của Ls Lâm Lễ Trinh với những nhân vật như tướng Nguyễn Khánh (Bài phỏng vấn Nguyễn Khánh nay không còn truy cập được nữa) Tôn Thất Đính, đại tá Nguyễn Văn Y, Tướng Huỳnh Văn Cao, v.v..
Cũng không thể nào không nhắc đến các bài phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc phỏng vấn Trung tá Trần Văn Thưởng, trung tá Nguyễn Văn Minh.
Sau đó đến bài viết của tác giả Tú Gàn lên án kết tội tướng Khánh. Cũng như ông Bùi Duy Liêm, đài truyền hình Hoa Thạnh Đốn, phỏng vấn tướng Nguyễn Khánh và trong bài phỏng vấn này đã tránh né một cách vụng về những luận điểm của Tú Gàn.
Trong phần này, chúng tôi ghi lại những gì tướng Khanh nói để trả lời những lời kết án ông trong âm mưu giết Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đặng Sỹ.
Tướng Khánh trả lời phỏng vấn của đài truyên hình Hoa Thịnh Đốn.
Trong dịp trả lời phỏng vấn của đài Truyền hình Việt Nam tại Hoa Thạnh Đốn THVN-HTĐ ở vùng thủ đô Washington do ông Bùi Dương Liêm phụ trách. Người phỏng vấn đã đề cập đến việc ai ra lệnh giết ông Ngô Đình Cẩn để hỏi tướng Khánh.
Tướng Khánh cho biết: ông rất quý mến ông Ngô Đình Cẩn, vì ông Cẩn là người hy sinh để ở nhà lo cho mẹ, thay cho các anh.
Nhưng ông đã trả lời vụng về là ông không còn nhớ ông hay ông Dương Văn Minh đã ký các sắc luật ấy.
Ông đã tìm hết cách cứu mạng ông Ngô Đình Cẩn. Ông nhìn nhận là chính ông ký sắc lệnh bổ nhiệm các sĩ quan trong bồi thẩm đoàn trong đó có Đặng Văn Quang là người công giáo, rất thân cận với ông Cẩn cũng như hai sĩ quan công giáo khác và hai sĩ quan Phật giáo.(Thật ra chỉ có 4 bồi thẩm đoàn, không phải năm). Và ông hy vọng ba sĩ quan công giáo sẽ bỏ phiếu không kết án tử hình ông Cẩn.
Nhưng theo ông Khánh, cuối cùng thì Ông đại tá Quang đã không làm gì cả. Mặt khác thì Đỗ Mậu mỗi ngày cũng đến hầu tòa và dọa mấy ông ngồi trên đó.
Khi hay tin ông Cẩn bị giết, cũng theo lời tướng Khánh nói, ông đau đớn lắm. Ông nói ông có liên hệ gia đình với ông Ngô Đình Diệm gần lắm, người ngoài không biết. Ông cũng từng nói với ông Dương Văn Minh, lúc đó làm Quốc Trưởng, quyền tha hay giết ông Cẩn là quyền của tướng Dương Văn Minh. Quốc Trưởng có thể đổi án tử hình thành tù chung thân, tại sao không làm như thế.
Ông Khánh còn cho rằng các tài liệu liên quan đến vụ án Ngô Đình Cẩn nay không còn nữa, ai tố cáo ông, xin nêu ra bằng cớ đi.
Ông Bùi Dương Liêm có đặt ra câu hỏi: “Luật tòa án Măt trận không được kháng án. Ai đặt ra luật đó?” Ông Khánh nói “Tôi không biết. Nhưng cứ cho tôi coi tài liệu!”
Trong đó, ông đặc biệt nhắc đến trường họp nhà báo Tú Gàn, tức Lữ Giang trong một bài báo viết tại California. Sau đó Tú Gàn có bài viết trả lời ngày 12.4.2009.
Tôi nghĩ rằng, Dương văn Minh được ông Khánh dựng lên, rồi bỏ đi như một thứ vật làm vì. Quyền hành tuyệt đối nằm trong tay một mình Nguyễn Khánh.
Tướng Nguyễn Khánh cũng như các tướng lãnh khác, cho đến khi chết, không một ai dám nói sự thật.
Đấy là sự thật trên cả sự thật. Họ tất cả đều hèn nhát.
Ghi lại quang cảnh ngày ông Ngô Đình Cẩn ra pháp trường do các nhà báo ghi lại tại chỗ.
Sau đây, chúng tôi xin trích nguyên văn quang cảnh pháp trường trong vụ xử ông Cẩn. Có lẽ chính trong cái bầu khí đượm chết chóc và thê lương ấy cho thấy cái không khí ấy rùng rợn như thế nào. Và chính cái chết ấy có thể để lại cho mỗi người chúng ta một bài học!!
Nhà báo Lý Quý Chung.
Một nhà báo trẻ tuổi Lý Quý Chung lúc bấy giờ, hẳn là không có mối hận oán gì với chế độ Đệ Nhất cộng hòa đã ghi lại tóm tắt như sau.
“Tôi vẫn nhớ thái độ ông Cẩn trước tòa án rất ngạo mạn, ông chẳng quan tâm gì đến diễn tiến phiên tòa. Chẳng chú ý tới các lời buộc tội ông. Ông mặc bộ đồ bà ba lụa mầu trắng, mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các phiên xử. Nhiều lúc còn có cử chỉ tỏ vẻ khinh miệt khi các tướng tá đang ngồi xử mình.”
Và lúc bị đưa ra hành quyết, Lý Quý Chung viết:
“Ông bị trói chặt vào cột hành quyết và lúc sắp sửa bị bịt mắt, muốn được nhìn tận mắt cuộc hành quyết mình. Nhưng người thi hành án giải thich với ông rằng luật lệ không được phép cho họ làm khác. Người ta vẫn bịt mắt ông và một loạt súng kết liễu mạng sống của người thứ ba và là em út trong dòng họ Ngô từ sau cuộc đảo chính 1-11-1963.
Bài tường thuật của tôi nhấn mạnh hai điểm: Ông Cẩn không sợ cái chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử ông ta tại tòa.”
(Nguyễn Văn Lục, Đọc Nhật ký của im lặng của Lý Quý Chung)
Theo tôi, bài báo tuy tóm tắt. Nhưng ý nghĩa phiên tòa xử cũng như ý nghĩa cái chết đã nói lên đủ về con người ông Cẩn. Dư luận có thể coi thường ông, coi ông là lãnh chúa độc ác, là hung thần! Nhưng trước lúc đối diện với cái chết can đảm của ông buộc mọi người phải nghĩ lại về ông.
Tin và bình luận trên báo Chính Luận ngày 12-5-1964, “Báo chí Thủ đô và hai vụ hành quyết Cẩn, Đông”
“Khoảng 18 giờ 27 phút, im lặng đến tức tưởi, đòi hỏi sự phựt đứt ngay trong khoảng 1,2 tích tắc.
10 Quân Cảnh ( QC) ngắm vào cái đích là tử tội. 10 QC đều biến thành 10 cái tượng, không nhúc nhích. Lần đầu tiên trong đời, tôi nghe được sự im lặng lạ lùng ma quái. Sân banh sắp chuyển theo một cái chớp mắt của thời gian để chính thức biến thành một Pháp trường. Vẻ nhợt nhạt của kiếp sống lởn vởn trong không khí. Khẩu lệnh “bắn” được phát ra, những tiếng nổ giòn mang ý nghĩa của những tiếng giải thoát che lấp một phần nào sự trống phẳng.
Tử tội ngoẹo đầu sang phía tay mặt, gục xuống, bàn tay trái có máu, cả thân hình sụm đổ, nhưng bị giữ lại nửa vời thân trên tách khỏi cái cột nhô về trước. Máu túa ra nhiễu ở ống quần chân mặt, đỏ tươi. Hai chân tử tội gập khúc nơi đầu gối, xoạng ra, cong vòng.
Sự im lặng biến thành ghê rợn, nghe rõ tiếng quần áo của tử tội phất theo gió thổi. Người chỉ huy 10 quân cảnh, chạy tới bên tử tội – bây giờ là một tử thi – dùng súng ngắn bắn phát thi ân vào đầu. Bác sĩ khám nghiệm và xác nhận một cái chết, chiếc cáng trắng mới rồi đưa tử tội từ khung cửa sổ có song sắt lại được mang ra.
Người ta tháo dây trói cho tử tội, thật lúng túng, sau nhờ bàn tay chuyên môn của ông Phối mới xong. Thây tử tội được đặt trên cáng, đưa trở vào khung cửa sổ có song sắt, đóng lại.”
Và ông (Chu Tử) kết:
“Người đã chết, không còn là “người” nữa nên hết là kẻ thù của chúng ta. Chúng ta, đều muốn gạt họ qua một bên, gửi vào quên lãng, nhưng cần phải có một thời gian và một thực tế đẹp đẽ để niềm vui xóa nhòa những nghẹn ngào bi thảm hôm qua.”
Một vài nhận xét của báo Chính Luận ngày 12-4-64.
Không hiểu nhà văn Chu Tử có vạch đầu gối ra để nói chuyện hay không. Chỉ biết ông công nhận cho Cẩn một điểm là Cẩn đã biết chết tương đối đàng hoàng. Ông cho rằng
“trong lúc sắp bắn Cẩn giữ sự im lặng hoàn toàn đến nỗi các ký giả ngồi cách xa hơn 10 thước còn nghe thấy hơi thở, mồ hôi của Cẩn và tiếng gió thổi phành phạch vào ống quần trắng của Cẩn.”
Cảm tưởng chung của ông là:
“Cẩn chết là đáng vô cùng, nhưng án tử hình là một án không nên tồn tại trên thế gian. Trên thế gian này, không ai nên nhân danh công lý hoặc nhân danh cách mạng, hoặc nhân danh nền văn minh nhân loại để tỗ chức “lễ” bắn một người khác dù là một kẻ trọng tội chồng chất trăm nghìn tội ác trên đầu như Cẩn.”
Tôi không thấy cần thiết phải có thêm ý kiến gì nữa, vì tờ Chính Luận khi đăng lại bài viết của Chu Tử, họ đã có ý kiến rồi.
Bài viết của Ký giả Nam Đình, báo Thần Chung
Sau đây là bài viết của ký giả kỳ cựu Nam Đình, báo Thần Chung. Một tờ báo bị ông Diệm đóng cửa ngay giai doạn 1954, vì nghi ngờ là tờ báo thiên Cộng. Ông viết:
“Tưởng chừng mình đau khổ vì tinh thần hơn ai hết, khi phải chịu đựng 9 năm trời: từ 1954, Diệm hạ lệnh đóng cửa Thần Chung. Tội gì?”
Ông đã tham dự các phiên tòa xử 42 trí thức bị mật vụ tra tấn và khảo của, ngày 23-6-64. Vụ 13 nhân viên cao cấp trong ngành Cảnh sát Quốc gia, Chúa nhật 18, thứ hai 19-7-65.
Và dĩ nhiên, trong đó có vụ xử Ngô Đình Cẩn mà nhà báo Nam Đình đã đặt ra với rất nhiều tiêu đề như: Cả ba anh em Diệm Cẩm, Nhu chết hụt nhiều lần. Diệm thoát chết hồi 1945. Ai cho Cẩn hay giờ hành quyết. 12 giờ trưa mà Cẩn không đói. Khi hay tin không được ân xá. 10 phút riêng với cha Thí. Tên Thánh của Cẩn. Tại sao bịt mắt tôi. Những chi tiết. Ngô Đình Cẩn trối trước giờ chết.
Với một giọng văn có sự miệt thị và hận oán không cần thiết đối với một tử tội. Tôi không phục tư cách hành nghề của ký giả Nam Đình. Ông thiếu hẳn một tấm lòng cũng như thiếu hẳn tư cách của một ký giả chuyên nghiệp trước một tử tội. Tôi xin trích dẫn:
“Trong vụ xử bắn Ngô Đình Cẩn, ngoài những người có trách nhiệm như ông Chưởng lý Nguyễn Văn Đức, Thừa phát lại Lâm Văn Sáu, bác sĩ Phúc, đại tá Bùi, Quân vụ Thị trấn ngoài ra còn có ông Lục Sự, Cha Thí (Linh mục của Trung tâm cải huấn Chí Hòa) Và ông Trung tá Quản đốc Trung tâm cải huấn và hai hiến binh. Tất cả đám người này đã lên lầu ba, nơi Cẩn bị giam giữ. Ông Cẩn đã nằm nghe ông Lục sự đọc bản án tử hình, có lẽ đến hơn 10 phút. Sau bản án tử hình, tới sắc luật Quốc Trưởng bác đơn ân xá.
Khi nghe ông Lục sự đọc tới đây, Ông Cẩn đưa tay lên kệ, lấy xâu chuỗi mà người Thiên Chúa giáo thường có.
Ông Cẩn đọc kinh lần chuỗi
Ông Lục sự hỏi:
Ông có tuyên bố gì không?
Cẩn nói:
Tôi cầu nguyện cho Quốc Gia Việt Nam… Tôi sẵn sàng chết.”
“Súng nổ đúng 6 giờ 20 phút. Chùa Bửu Liên? Sự ngẫu nhiên là Hòa thượng đọc kinh lúc Ba Cụt Lê Quang Vinh lên gươm máy Cần Thơ, lại là Hòa thượng ở chùa Bửu Liên. Một sự tình cờ khác là Ngô Đình Cẩn day mặt về hướng chùa Bửu Liên lúc thọ hình. Cũng như Diệm Nhu được đưa xác vào nhà thương St Paul gần chùa Xá Lợi!”
(Trích Ký giả Nam Đinh, Báo Thần Chung, 9-5-64)

Linh mục Thí làm lễ rửa tội cho Ngô Đình Cẩn trước giờ ra pháp trường. Nguồn: http://kienthuc.net.vn
Gớm thay tâm địa con người và nghề làm chính trị thật nhiều nỗi oan khiên!
Ngoài ra còn có khoảng có 200 người đến tham dự như gia đình bị can, đại diện báo chí, đại diện cho đủ mọi thành phần xã hội, cho cả người xấu lẫn kẻ tốt, đại diện cho công lý của giới quan tòa, thẩm phán, luật sư. Đại diện cho dư luận báo chí cũng có. Như Chu Tử ở trên, như Nam Đình, như Lý Quý Chung. Đại diện cho giới Phật tử cũng có, giới tu sĩ công giáo cũng không thiếu.
200 người này có thể còn đại diện cho những người không có mặt, đang ngồi ở nhà theo dõi trên báo chí truyền thanh như trường họp Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh và cả Trí Quang.
Ai là người cảm thấy mình vô tội? Chu Tử ở trên cũng nhận xét là Ngô Đình Cẩn chết đàng hoàng? Thế nào là chết đàng hoàng? Sống không đàng hòang mà chết lại đàng hoàng? Rồi một lần nữa vừa kết án, vừa quân tử tàu khuyên: “không ai nên nhân danh công lý hay cách mạng … để rồi tổ chức “lễ” bắn một người khác như Ngô Đình Cẩn.”
Đọc bài tường thuật trực tiếp trên báo chí thời 1964, tôi liên tưởng đến câu chuyện Chém treo ngành của nhà văn Nguyễn Tuân, ghi lại khung cảnh xử chém những người tử tù của chính quyền thực đân Pháp.
Mặc dầu sự liên tưởng này không nhất thiết có cùng một nội dung và hoàn cảnh. Nhưng bầu khí tử thần lảng vảng đâu đó thì ở đâu cũng vậy, thời nào cũng thế.
Chết trở thành một thông điệp của người chết để lại cho người còn sống.
Nhưng nó đều giống nhau ở cái không khí lành lạnh, mùi tử khí luẩn quẩn đâu đây với sự thê lương và im lặng ma quái.
Và trong cái giờ phút ấy, những kẻ gây ra “tội ác” ấy nghĩ gì? Ai là người đưa Ngô Đình Cẩn đến chỗ chết? Câu hỏi ấy chỉ quan trọng đối với người còn sống, nhưng lại trở thành vô nghĩa đối với người chết.
Tôi là người còn sống nên tôi có dịp dở lại đọc tờ báo Lập Trường, cơ quan tranh đấu của Hội Đồng Nhân dân cứu quốc ngoài Huế có bài viết sặc mùi sắt máu: Đồng bào Huế và Trung Việt nghĩ sao? Đặng Sỹ ra tòa tại Sài gòn? Theo bài báo: Lúc xử ông Ngô Đình Cẩn, tất cả các báo Sài Gòn đều viết rằng nhân dân đã xử ông Cẩn trước khi tòa án xử. Đối với Đặng Sĩ cũng vậy, nhân dân đã xử rồi chứ đâu có tòa án cách mạng? (Báo Lập Trường, tháng 6, 1964)
Như vậy cái chết của Ngô Đình Cẩn là do Nhân dân xử mà những vị như ông Thẩm Phán Lê Văn Thụ chỉ là người thừa hành ý của nhân đân? Rồi luật sư biện hộ như Võ Văn Quan hẳn là biết rõ công việc mình làm và đã làm một cách hết mình, cô đơn trong những ngày xử án?
Chính cái Hội Đồng ấy gián tiếp giết Phan Quang Đông, rồi Ngô Đình Cẩn. .
Sức mạnh của Hội đồng ấy sau trở thành như một chính phủ “ma”. Chính Hội đồng ấy phủ nhận chính phủ Tam đầu chế (ông Minh- ông Khánh-ông Khiêm). Và rồi ông Minh và ông Oánh phải lục tục kéo nhau ra Huế để thỉnh ý Hội Đồng. Hội Đồng với quyền lực thương thuyết tay đôi với chính phủ. Tại nhiều tỉnh miền Trung, nhiều Hội Đồng đã được thiết lập và người ta đã chứng kiến cái tấn bi hài kịch của những người dư đảng Cần lao ra trình diện ông Tỉnh trưởng. Ông Tỉnh trưởng lại chuyển qua Hội Đồng xét xử.
Cho nên, cái chết của Ngô Đình Cẩn chung cuộc là để thỏa mãn lòng hận thù được ngụy trang đưới cái được gọi là Nhân Dân? Nhưng Nhân dân là ai mới được?
Trong lời khởi đầu bài biện hộ, luật sư Quan đã nói:
“Tôi khởi đầu với một giọng trầm trầm: “ Bên ngoài là cả một biển hận thù. Hận thù đối với chế độ đã bị lật đổ, hận thù đối với bị can Ngô Đình Cẩn, đã thành là biểu tượng của Ngô triều. Tòa chưa xử, nhưng đã có nhiều người nhứt quyết đòi cho được một bản án tử hình, đòi mạng phải đền mạng, nợ máu phải trả bàng máu.”
(Võ Văn Quan, Ngay Nay, số 108, tháng 2-3-93)
Theo tôi, giết ông Ngô Đình Cẩn là một cái chêt vô ích cho mọi phía. Cùng lắm chỉ thỏa mãn lòng hận thù của một thiểu số người
Tuy nhiên, theo tôi giữa cái chết của anh em ông Ngô Đình Diệm-Ngô Đình Nhu và cái chết của ông Ngô Đình Cẩn có những sự khác biệt nên nói ra.
Trong vụ thảm sát anh em ông Diệm-ông Nhu. Cho đến giờ này, mọi người trong cuộc đều không nhìn nhận là kẻ trực tiếp ra lệnh giết ông Diệm. Để tránh né, hay chạy tội, không một tướng lãnh nào đã nhận giết ông Diệm, ngay cả cái người được coi là chủ mưu với nhiều bằng cớ như Dương Văn Minh. Dương Văn Minh đã tìm cách đổ lên đầu Nguyễn Văn Thiệu! Nguyễn Văn Thiệu đã phản ừng một cách quyết liệt và chê trách Dương Văn Minh hèn. Phần đông, cách hay nhất là cứ đổ thừa cho ông Cabot Lodge hay người Mỹ đã chủ mưu giết anh em ông Ngô Đình Diệm.
Dương Văn Minh là một Pilate của thời đại, rửa tay để như thể không dính vào máu cho đến lúc ông chết.
Theo tôi, ông Diệm và ông Nhu bị giết chết không phải vì căm thù mà vì cái tai họa phát xuất từ chính họ, bởi vì họ còn quá mạnh. Tướng lãnh quá sợ hãi hai người họ, nhất là ông Nhu. Vì thế cách tốt nhất là trừ hậu họa để tránh một sự lật ngược thế cờ như hồi 1960 thì số phận họ sẽ ra sao?
Cái chết của hai anh em ông Diệm là để trừ hậu họa mà người Mỹ có thể bất lực không can thiệp được hoặc gián tiếp chấp nhận!
Mới đây, nhà báo kỳ cựu Nguyễn Ngọc Linh vừa mới qua đời, tờ Người Việt đã cho phát lại 6 buổi phỏng vấn ông Nguyễn Ngọc Linh. Trong đó ông Nguyễn Ngọc Linh cũng nhìn nhận tướng tá VNCH chẳng ra cái gì cả, vừa không có uy, vừa không có kiến thức nên bắt buộc vì sợ anh em ông Diệm mà họ phải trừ khử. Và sau đó, họ kéo VNCH xuống hố.
Ông cũng thẳng thắn nhìn nhận, cá nhân ông thương ông Diệm lắm. Ông Diệm nói tiếng Anh lưu loát, nhưng khi phải tiếp xúc với giới chức Mỹ cao cấp, bao giờ ông Diệm cũng sai ông Võ Văn Hải kêu ông Nguyễn Ngọc Linh vào làm thông dịch viên.
Cái chết của ông Ngô Đình Cẩn khác hẳn. Nó là một vụ án chính trị, có khuôn khổ nằm trong luật 4-64, ký ngày 18 tháng 2, năm 1964 dưới thời Nguyễn Khánh, cho thiết lập tòa án Cách mạng. Luật này có hiệu lực hồi tố. Số phận của ông Cẩn nằm trong tay Nguyễn Khánh và cái được gọi là Nhân dân. Mà nhân đân ở đây cụ thể là Hội Đồng Nhân dân cách mạng ngoài Huế và một số tỉnh miền Trung như Nha Trang, Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Ngãi. rồi cái Hội Đồng ấy đổi ra cứu quốc do Trí Quang và một số giáo sư đại học Huế chủ trì.
Sở dĩ, tôi có thể nói như thế, vì sau này, trong vụ Biến Động miền Trung, TT Trí Quang đích thân đị gặp Ls Vũ Văn Quan để nhờ ông biện hộ cho gà nhà như trường họp bác sĩ Mẫn, Thị trưởng Đà Nẵng.
Cái chết của hai anh em ông Diệm-Nhu, thú thực tôi không học được nhiều điều và nó cũng chẳng ám ảnh tôi bao nhiêu. Cùng lắm là sự coi thường về sự bất tài của một số tướng lãnh vì họ làm đảo chánh xong mà không biết họ phải làm gì, ngoài chuyện ngoan ngoãn vâng lời người Mỹ.
Cái chết của ông Ngô Đình Cẩn trái lại dạy cho tôi nhiều điều về chính trị đảo điên, về tình đời, về thái độ ứng xử trong hoàn cảnh cay nghiệt. Và điều quan trọng hơn cả, nếu ông không chịu án tử hình thì thái độ của tôi đối với ông không mấy tốt đẹp cũng như thiếu sự trân trọng. Chính cái chết ấy làm cho ông trở thành cao cả và cho thấy cái nhỏ nhen và tầm thường của nhiều người.
Thái độ của ông cũng như phong cách của ông trước tòa án cúng như khi đối diện với cái chết làm cho ông lớn lên và cho những kẻ thù ông ngồi đó nhỏ đi, ti tiện hơn.
Luật sư Quan viết lại trong lần gặp gỡ cuối cùng trước khi ông Cẩn bị hành quyết ở sân phía sau khám Chí Hòa. Ông Cẩn và luật sư đã nói chuyện với nhau trong ba tiếng đồng hồ và ông Cẫn đã tâm sự rất nhiều. Và lần đầu tiên, ông tiết lộ bí mật ông giữ kín từ trước. Ông cho biết rằng bà Trần Trung Dung có thuật lại với ông là trước khi ông bị đem ra xét xử, “người ta” (ông vẫn còn dấu không tiết lộ đích danh) hứa nếu ông bằng lòng chuyển cho “người ta” số tiền mấy triệu đô la trong trương mục của ông ta tại Thụy Sĩ, ông sẽ được phi cơ lén đưa qua Singapore sống tự do. Nhưng ông ta biết người đó là kẻ lật lọng, nếu ông lầm tin chuyển tiền cho họ thì sẽ bị cảnh “tiền mất tật còn” nên ông cương quyết từ chối. Về sau, nhân dịp một linh mục tới khám Chí Hòa cùng với ông làm lễ, ông ký giấy ủy quyền cho dòng tu của linh mục ấy lãnh số tiền kể trên, tờ ủy quyền được giấu trong một quyển kinh sách của vị linh mục. Ông tâm sự: “Tôi thà dâng cho Chúa chứ không chịu làm giầu thêm cho họ!”
Sau đó, luật sư kết luận:
“Ra về, tôi không khỏi thầm phục con người can trường, biết cái chết thê thảm đang kề trong gang tấc mà vẫn giữ được phong thái thản nhiên, ung dung suốt mấy tiếng đồng hồ ngồi trò chuyện với tôi.”
(Võ Văn Quan, Báo Ngày Nay, số 110, tháng 5-93)
Thật vậy, trong những phiên tòa biện hộ. Ls Quan tiết lộ là ông Cẩn chỉ nhờ ông có một điều- một điều mà ông Quan không muốn nói. Đó là:
“Những nhân chứng này là những người tráo trở, lật lọng, quý tòa không thể tin vào lời nói của họ được. Họ đã từng khúm núm xưng con với những người của chế độ cũ. Họ đã từng nịnh bợ đủ cách để xin xỏ ân huệ. Ngày xưa, họ lòn cúi bao nhiêu thì sau cuộc đảo chánh, họ càng a dua, mạt sát, chà đạp những người cũ để khỏa lấp quá khứ gian nịnh và lập công với chế độ mới.”
(Võ Văn Quan, Báo Ngày Nay, số 110, tháng 5-93)
Luật sư Võ Văn Quan cũng liên hệ trường hợp của ông Ngô Đình Cẩn về những kẻ lật lọng giúp liên tưởng đến trường hợp César thời cổ La Mã. Brutus vốn là một tướng thân cận của César được coi như một đứa con nuôi và được César nâng đỡ hết mình. Nhưng đến ngày phe nghịch làm phảm mưu sát và đâm túi bụi César, ông chống đỡ mãnh liệt. Nhưng khi nhìn thấy Brutus cũng có mật trong đám sát nhân. César than: Cho đến con mà cũng phản cha nữa sao? Ròi láy vạt áo bào che mặt, mặc cho những tên sát nhân chém giết!
Trong số những tướng lãnh của nền Đệ Nhất cộng Hòa, đã có bao nhiêu Brutus?
Nhưng mặt khác, có một nhận xét không thể thiếu được là chính thái độ đối diện với cái chết bên bờ tử sinh là một thái độ của Ngô Đình Cẩn mà ít ai sánh bằng theo như lời kể lại của luật sư Vũ Văn Quan!
Và luật sư Võ Văn Quan, người nhận công việc bẽ bàng là biện hộ cho bị can đã viết trong vụ Đặng Sĩ như sau về việc TT Trí Quang không ra làm chứng trước tòa:
“Trong thơ, TT tuyên bố sẵn sàng ra tòa khai rõ về những việc đã xảy ra tại miền Trung, vì chính ông lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy. Dĩ nhiên, tòa không mời TT Trí Quang ra tòa làm nhân chứng để ông không dùng phiên tòa làm dĩễn đàn chính trị. Còn truy tố ông, “ họ” dám thì đã làm từ lâu. Chưa kể đằng sau tòa án, còn có” những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đoạn lừa lọc gian manh.”
(Võ Văn Quan, Luật sư Nghề hay Nghiệp, số 100, tháng 5-92)
Đây là tâm sự trao đổi giữa ông Ngô Đình Cẩn và luật sự Quan sau khi Tòa tuyên án tử hình:
“Trước khi vô phòng để nghị án, Tòa cho ông Cẩn nói lời chót. Ông điềm nhiên chậm rãi nói rằng mình vô tội, không có quyền hành, không ra lệnh cho các công an viên làm sự phi pháp. Ông không van xin cầu khẩn gì hết.
Ông biết cái luật chơi tàn nhẫn của chính trị và ông có vẻ điềm tĩnh chấp nhận, mặc dầu đối tượng cuộc chơi là chính sinh mạng của mình.
Sau khi nghị án tới khya. (Tôi đoán rằng họ kéo dài thời gian để nghỉ ngơi, ăn uống) Tòa trở ra tuyên xử tử hình.
Ông Cẩn lặng thinh.
Tôi vịn vai ông an ủi.
Hai quân cảnh bước tới kéo ông đi, khi đến gần tới cửa, bất thần ông ngoái lại nhìn tôi, đôi mắt bỗng nhiên bi thiết sau cặp kính trắng. Lần đầu tiên cũng là lần duy nhứt, tôi bắt gặp cái nhìn chới với, bi thiết như vậy nơi ông Cẩn.
Cho tới bây giờ cái nhìn đó vẫn còn ám ảnh tôi mỗi khi nhớ lại vụ án.”
(Võ Văn Quan, Luật sư Nghề hay Nghiệp, số 110, tháng 5, 1992)
Kết luận

Ông Ngô Đình Cẩn (1964). Nguồn: OntheNet
Nếu cần thiết phải nói thêm điều gì về cái án tử hình của ông Ngô Đình Cẩn thi tôi chỉ có vài dòng: đây là cái chết của một con dê thế thần. Ông chết cho gia đinh ông. Cho sự đạo đức thánh thiện dễ tin người của anh ông Ngô Đình Diệm. Cho sự lú lẫn không phân biệt đạo với đời của một Ngô Đình Thục, của thói lăng loàn của bà Ngô Đình Nhu.
Và hẳn là ông cũng chết cho nhưng kẻ ám hại ông như Dương Văn Minh- Trần Thiện Khiêm- Đỗ Mậu- Nguyễn Khánh- Tôn Thất Đính vốn chỉ là bọn tướng thiếu đức, thiếu tài.
Tôi mượn lời Chúa như một lối giãi bày biểu tuọng trong ngày chịu nạn thay cho ông Diệm và chế độ của ông:
“Pópulé méus, quid fécit tibi? Aut in quo contristávit te? Respónde mihi.”
(Dân ta hỡi, Ta đã làm gì cho ngươi điều gi? Hãy trả lời cho Ta hay.)
“Quia edúxi te de térra Aegýpti: Parasti Crúcem Salvatsritúo.”
(Phải chăng vì ta đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập. Nên vì thế Thập ác ngươi đã dành cho Đấng cứu ngươi).
Tôi rung động khi viết những dòng này.
Và chúng ta đừng quên, ngay một kẻ đã làm theo lệnh của bọn tướng lãnh trên, số phận anh ta cũng không hơn gi: Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung được coi là người đã ra tay trực tiếp giết hai hai anh em tt. Diệm.
Cuối cùng ông cũng bị chết thảm – thêm một con dê thế thần- ngay khi Nguyễn Khánh làm chỉnh lý. Đây là cảnh giết người để bịt miệng!!!
Xin mượn lời sách Thánh như sau:
Hôm nay trong nhà thờ đạo công giáo của tuần thánh, người ta nghe tiếng thày sáu đọc sách Thánh như sau:
“Khi ấy Chúa bảo hai ông MaiSen và Aaron ở Ai Cập rằng, tháng này là tháng thứ nhất trong năm, tháng thứ nhất trong mọi tháng. Hãy bảo cho toàn dân biết rằng: Ngày thứ 10 trong tháng này, mỗi họ và mỗi nhà phải chọn một con chiên. Nếu trong nhà không có đủ người để ăn, thì hãy mời thêm những người lân cận nhất, đủ để ăn. Phảỉ chọn con chiên đực, trong sạch được một năm. Các người cũng có thể thay thế bằng một con dê đủ điều kiện như thế. Hãy giữ nó cho đến ngày 14 tháng này và tất cả dân chúng Israel sẽ hiến dâng nó vào buổi chiều. Hãy lấy máu nó bôi lên hai cánh cửa và xà ngang của nhà có người ăn. Trong đêm ấy, hãy ăn thịt nướng với bánh không men và rau rừng. Đừng ăn sống hoặc luộc, nhưng nướng. Hãy ăn tất cả đầu, chân và bộ lòng. Không được để thừa đến sáng mai. Nếu còn thừa thì hãy đốt đi. Đây là cách thức phải giữ trong khi ăn: Hãy thắt lưng, chân xỏ giầy, và tay cầm gậy. Hãy ăn vội vã vì là ngày vượt qua, ngày Chúa vượt qua.”
(Theo Cựu ước, lễ ăn thịt chiên là để kỷ niệm ngày giải phóng dân tộc Israel ra khỏi ách nô lệ Ai cập. Đằng khác, việc hiến dâng còn mang ý nghĩa như một sự cứu chuộc.: Mọi tội ác của người ta sẽ đổ lên đầu con chiên đực trong sạch kia và khi con vật được thiêu hủy đi, nó mang theo luôn tất cả những vết tích nhơ bẩn đó)

PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà: Lịch sử cần phải được mô tả một cách khách quan như nó từng diễn ra

30/10/2018 - 06:06 - Nguồn: viettimes.vn 
 
Đây là bộ sử Việt Nam gồm 25 tập, từ khi dựng nước đến năm 2015, trong đó có 13 tập lịch sử cổ trung đại, 12 tập lịch sử cận đại và hiện đại, 5 tập lịch sử biên niên và một hệ thống tư liệu phong phú. Bộ lịch sử đồ sộ này quy tụ khoảng 300 nhà sử học tham gia.

Dưới đây là cuộc trao đổi giữa VietTimes với PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, một trong những tác giả tham gia đề án, xung quanh bộ lịch sử đang được biên soạn.

Bộ sử đề cập đến chính quyền Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu
Sự đồ sộ của bộ quốc sử có hứa hẹn những quan điểm và nội dung mới mà nó thể hiện không, thưa ông? Điều gì khiến cho nó khác với các bộ lịch sử trước đó?

PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà: Tất nhiên sẽ có những nội dung và quan điểm đánh giá mới, vì nếu chỉ viết lại điều đã viết trước đó thì chỉ gây tốn kém và không có ý nghĩa gì.
Khi triển khai bộ quốc sử này, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và các tác giả đã thống nhất một quan điểm: Lịch sử phải được viết toàn diện và toàn thể. Nếu trước đây chủ yếu chỉ viết về các lĩnh vực chính trị, quân sự, thì bây giờ viết đầy đủ hơn về các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục...

Trước đây hầu như chỉ viết về lịch sử của người Kinh, thì bây giờ cần phải viết lịch sử của cả 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam. Trước đây chủ yếu chỉ viết lịch sử vùng đất từ Đèo Ngang trở ra Bắc, thì bây giờ phải viết lịch sử của mọi vùng đất hiện hữu trên lãnh thổ Việt Nam, từ Chăm Pa, Phù Nam đến Lục Chân Lạp, Thủy Chân Lạp… và không chỉ là lịch sử trên đất liền mà viết cả lịch sử trên biển, đảo.

Về tính toàn thể, trước đây chỉ viết lịch sử “từ phía chúng ta”, chứ không hoặc rất ít đề cập từ góc độ của các chính quyền đối lập. Bây giờ bộ sử sẽ đề cập đến các tổ chức đoàn thể chính trị, tôn giáo, đến các chính quyền Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu… bởi đó là những thực thể lịch sử tồn tại trong những khoảng thời gian nhất định trong lịch sử Việt Nam.
Nói tóm lại, lịch sử cần phải được mô tả một cách khách quan như nó từng diễn ra. Có một yêu cầu cao đối với các tác giả tham gia biên soạn bộ lịch sử này là rất hạn chế, không được trích dẫn tài liệu thứ cấp. Điều này đòi hỏi chúng tôi phải tìm kiếm tư liệu thật đầy đủ, khai thác và đưa ra những tài liệu gốc chưa được công bố trong các bộ sử trước đó.
PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà: Lịch sử cần phải được mô tả một cách khách quan như nó từng diễn ra - ảnh 1
"Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" 
Khi coi các chính quyền đối lập là những thực thể lịch sử có nghĩa là thừa nhận vai trò của nó trong một giai đoạn lịch sử. Ông có thể cho biết chính quyền Việt Nam Cộng hòa được nhìn nhận như thế nào trong bộ quốc sử?
- Trong tập 22 (lịch sử Việt Nam giai đoạn 1965-1975) do tôi làm đồng chủ biên có hai chương về kinh tế, xã hội miền Nam, trong đó viết về hệ thống chính quyền của Việt Nam Cộng hòa cùng những phát triển của nền kinh tế, văn hóa, giáo dục trong thời kỳ này.
Các vấn đề về nông - lâm - ngư nghiệp và chính sách ruộng đất, mức độ tăng trưởng của công nghiệp miền Nam, thương mại, tài chính, ngân hàng, giao thông vận tải, chính sách giáo dục… được đề cập một cách cụ thể. Điều này có ý nghĩa nhìn nhận sự tồn tại của chính quyền Việt Nam Cộng hòa như một thực thể trong một giai đoạn lịch sử Việt Nam.

Những đóng góp của chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại, cũng như Việt Nam Cộng hòa trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa cũng được ghi vào trong bộ quốc sử. Công ước của Liên hợp quốc 1982 về Luật biển (UNCLOS) có nói về “sự thụ đắc liên tục” trong việc chiếm hữu và khai thác của vùng biển đảo mà một nước tuyên bố có chủ quyền.
Nếu không thừa nhận các chính thể trước đó thì sẽ không thể chứng minh được “sự thụ đắc liên tục” trong vấn đề tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Ví dụ, năm 1951, Thủ tướng Trần Văn Hữu của chính quyền Bảo Đại đã tuyên bố trước Hội nghị Liên hợp quốc về biển tại San Franscisco về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Nếu không thừa nhận chính quyền Bảo Đại như một thực thể lịch sử thì sẽ bị trống một khoảng về “sự thụ đắc liên tục” của Việt Nam đối với Hoàng Sa,Trường Sa.

Ông có thể nói rõ hơn về nền giáo dục miền Nam dưới thời Việt Nam Cộng hòa?
- Một đặc điểm nổi bật của các viện đại học ở miền Nam Việt Nam thời kỳ này là tính tự trị của các viện đại học. Các chương trình học, nội dung giảng dạy, bộ máy tổ chức điều hành và nhân sự nội bộ… đều do các viện đại học tự quyết định. Đặc tính “mở” cũng được xem là một đặc điểm nổi bật của giáo dục đại học ở miền Nam Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa.

Đặc tính này biểu hiện qua chương trình học linh hoạt, giáo trình giảng dạy các môn học không bị đóng khung hay phải chịu các quy định khắt khe về nội dung và luôn được điều chỉnh, cập nhật nhằm đảm bảo cho sinh viên được tiếp cận với các kiến thức khoa học mới. Có thể nói, từ giữa thập kỷ 60, giáo dục miền Nam có một bước phát triển đáng kể, đặc biệt là đào tạo đại học và đào tạo chuyên nghiệp.
PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà: Lịch sử cần phải được mô tả một cách khách quan như nó từng diễn ra - ảnh 2
Bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc 
Các cuộc chiến tranh và cải tạo công thương nghiệp được viết kỹ hơn
Khi được tiếp cận từ góc độ đời sống văn hóa - xã hội, lịch sử không còn chỉ là các cuộc chiến tranh với những sự kiện, dấu mốc và con số, mà lịch sử còn là đời sống, văn hóa của các cộng đồng với những biến động thăng trầm. Vậy những “biến động thăng trầm”này có được đề cập đến trong bộ lịch sử không, thưa ông?

- Từ góc độ tiếp cận này, lịch sử hiện đại Việt Nam còn rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và đánh giá lại. Trong bộ quốc sử lần này, các vấn đề về cải cách ruộng đất (1954-1956), Nhân văn giai phẩm, vụ xét lại chống Đảng (1963-1968), cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc và cải tạo tư sản ở miền Nam sau năm 1975… đều được đề cập, không tránh né, với những quan điểm đánh giá mới và được phân tích kỹ hơn.
Chúng tôi cho rằng phải đề cập đến mọi vấn đề lịch sử. Công việc của các nhà khoa học là nếu có được tư liệu thì cứ viết ra, còn các nội dung đó được đánh giá và xử lý như thế nào là chuyện sau đó.

Hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam được đánh giá và lý giải ra sao, thưa ông?
- Về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc tháng 2/1979, phải coi đây là một cuộc chiến tranh xâm lược biên giới chứ không phải là xung đột biên giới. Đây là giai đoạn lịch sử mà tôi rất quan tâm và tôi luôn bày tỏ quan điểm phải đưa giai đoạn lịch sử này vào sách lịch sử, sách giáo khoa cụ thể hơn cũng như đưa ra công luận một cách rộng rãi hơn vì đây là sự kiện rất lớn trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.
Vấn đề Việt Nam - Campuchia cũng cần được viết sâu sắc hơn, trong đó lý giải những nguyên nhân vì sao Campuchia đem quân đánh sang các tỉnh biên giới Tây Nam của Việt Nam và tại sao Việt Nam đưa quân sang Campuchia và ở lại đó lâu như thế.
PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà: Lịch sử cần phải được mô tả một cách khách quan như nó từng diễn ra - ảnh 3
Trường Sa, Hoàng Sa là một phần máu thịt của Việt Nam 

Về cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và thời kỳ quân đội Việt Nam ở Campuchia, liệu có số liệu cụ thể về sự tổn thất không, thưa ông?
- Chiến tranh không chỉ là những thắng lợi mà còn bao gồm cả những tổn thất, thiệt hại. Hiện chúng tôi chưa có số liệu chính xác, nhưng mức tổn thất của 10 năm chiến tranh biên giới Tây Nam có thể tương đương với mức tổn thất trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).
Về cuộc tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968, bộ sử cũng đưa ra những đánh giá về những sai lầm trong chiến lược khiến gây ra những tổn thất nặng nề, đặc biệt là cuộc tấn công đợt 2 và đợt 3, khi đã không còn yếu tố bất ngờ.
Tuy nhiên, chúng tôi gặp một vấn đề khó khăn là việc tiếp cận nguồn tư liệu gốc, nhất là đối với những vấn đề, sự kiện được coi là nhạy cảm nên chưa thể có được những phân tích và đánh giá toàn diện, cụ thể.

Có thể thấy, đưa ra được những nội dung và quan điểm mới đã là điều khó khăn, nhưng thể hiện quan điểm mới đó như thế nào là công việc còn khó khăn hơn nữa. Chắc chắn vẫn sẽ còn những khoảng trống trong lịch sử chưa được đào bới, mổ xẻ sâu hơn. Ông có thể nói rõ hơn về những khó khăn đó không?
- Khó khăn nhất vẫn là việc tìm kiếm, tiếp cận, khai thác nguồn tư liệu. Những vấn đề về biển đảo trong lịch sử cổ trung đại, về lịch sử vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, về các dân tộc sinh sống trên dải đất hình chữ S, về các tôn giáo… tư liệu về các vấn đề này chưa khai thác được nhiều.
Bên cạnh đó là những khó khăn về cách tiếp cận và nhận thức lịch sử. Phải tiếp tục đổi mới nhận thức. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nói: “Lịch sử chỉ diễn ra một lần nhưng viết về lịch sử có thể viết nhiều lần và mỗi lần ở những góc độ khác nhau, từ đó tiệm cận với sự thật khách quan”.
Quan điểm của cá nhân tôi là không nên “hiện đại hóa” lịch sử mà phải xuất phát từ quan điểm, nhận thức lịch sử của thời kỳ lịch sử đó để từ đó đưa ra những phân tích, đánh giá và lý giải thì sẽ khách quan hơn.

Xin cám ơn ông về cuộc trò chuyện này!