Tất tần tật các trùm sò xứ Tàu như Hồ Cẩm Đào, Giang Trạch Dân,
Ngô Bang Quốc… đều đến dự đám tang. Ngạc nhiên chưa!
Ai mà gớm thế? Cha đẻ của ngành tên lửa và hàng không vũ trụ Trung Quốc đấy. Tên ông khi ở Mỹ là Hsue Shen Tsien.
Tốt nghiệp ĐH Giao thông Thượng Hải, năm 1935 Tiền Học Sâm sang Mỹ du
học, năm 1939 lấy bằng tiến sĩ tại Học viện Công nghệ California, được
giữ lại giảng dạy và tham gia chế tạo tên lửa. Thế chiến 2 bùng nổ, ông
tham gia chế tạo bom nguyên tử. Sau chiến tranh, ông tham gia chế tạo
tên lửa của quân đội Mỹ, mang lon đại tá. Từ đây, Tiền Học Sâm trở thành
một trong những chuyên gia tên lửa hàng đầu thế giới.
Năm 1949 nước
CHND Trung Hoa ra đời. Sự kiện này như quả tạ ném vào đĩa cân, đối đầu
quốc tế lên đỉnh điểm. Hai phe cuống quýt chạy đua vũ trang, trọng tâm
là vũ khí hạt nhân và tên lửa. Tình báo Hoa Nam tiếp cận và “giác ngộ”
Tiền Học Sâm tính chuyện về nước. Đồng thời, CIA cũng ghi tên ông vào sổ
đen, loại dần ra khỏi những nghiên cứu bí mật quân sự. Đơn xin trở về
Tàu của ông bị chính phủ Mỹ gạt phắt. Thứ trưởng Bộ Hải quân Mỹ nói:
“Tiền Học Sâm nắm được tất cả các bí mật của công trình tên lửa Mỹ, con
người ấy có giá trị ngang với mấy sư đoàn lính thuỷ đánh bộ. Tôi thà bắn
chết người này còn hơn để ông ta về với Trung Quốc cộng sản”. Thế là
ông bị quản thúc chặt, cắt mọi liên lạc với bên ngoài.
Thủ tướng
kiêm Ngoại trưởng Chu Ân Lai lên kế hoạch giải cứu. Tháng 4-1954 các
nước lớn họp hội nghị Giơnevơ bàn về Triều Tiên và Đông Dương. Qua môi
giới, phái đoàn Mỹ gặp phái đoàn Tàu để mặc cả. Tuy nhiên, Mỹ sẵn sàng
đổi lủ khủ các kiều dân Tàu bị bắt tại Mỹ lấy các nhân viên tình báo Mỹ
bị bắt ở Tàu và các phi công Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên, chỉ trừ
Tiền Học Sâm vì cớ: phía Tàu chưa có lý do thật sự thuyết phục.
Tình
báo Tàu liên lạc với Tiền Học Sâm, bảo viết thư đề nghị chính phủ Tàu
giúp ông trở về nước, rồi bí mật chuyển ra. Có bằng chứng này, Mỹ hết
đường từ chối. Ngày 17-9-1955 Tiền Học Sâm (44 tuổi) cùng vợ và 2 con
nhỏ trở về cố hương. Biết tin, nhà khoa học Von Karman thốt lên: “Thế là
nước Mỹ biếu không cho Trung Quốc Đỏ một chuyên gia tên lửa xuất sắc
nhất thế giới”.
Tiền Học Sâm được trọng dụng quá cỡ thợ mộc, muốn gì
được nấy, cần gì có nấy, thường xuyên được Mao Chủ tịch mời nhậu (ảnh).
Ông vừa nghiên cứu vừa đào tạo đội ngũ kế cận, khiến “công trình chế
tạo tên lửa và bom nguyên tử của Trung Quốc hoàn thành sớm trước thời
hạn ít nhất 20 năm”.
Thật vậy, chỉ 5 năm sau khi Tiền Học Sâm về
nước, Tàu đã phóng thành công quả tên lửa đầu tiên (1960); năm 1964 thử
thành công bom nguyên tử; năm 1970 phóng thành công vệ tinh nhân tạo
Đông Phương Hồng 1; năm 2003 phóng thành công tàu vũ trụ Thần Châu 5 chở
người; năm 2008 phóng vệ tinh Hằng Nga bay quanh Mặt Trăng, trở thành
quốc gia thứ 5 đưa được vật thể lên đó sau Nga, Mỹ, Nhật và châu Âu; năm
2011 và 2016 phóng thành công 2 trạm không gian Thiên Cung; hôm
3-01-2019 lại phóng tàu vũ trụ hạ cánh ngon lành xuống bề mặt tối của
Mặt Trăng. Kinh!
Có người phán: Thế mới là trọng người tài chớ!
Nhiều kẻ phản bác: Mất cảnh giác quá! Tay này thành xuất thân trí thức
tiểu tư sản, nhiễm văn hóa Mỹ, lại từng đeo lon đại tá Mỹ, biết đâu
thuộc thế lực thù địch, giả vờ ngoan ngoãn về nước để ngấm ngầm phá hoại
thì sao? Chó ngáp phải ruồi thôi! Sau này, các nước đàn em cảnh giác
hơn nhiều.
Tui chỉ kể chuyện thôi, ứ nhận xét gì sất.
Hữu Thọ
Editor-in-Chief: Chủ Biên LS Trịnh Quốc Thiên - trinhquocthien@gmail.com Trụ sở: 1701 Pennsylvania Avenue, NW Washington, D.C. 20006, VPU 200. Chủ bút Trịnh Quốc Thiên đã đoạt giải Hạng Nhất đồng hạng về BIÊN KHẢO VĂN HỌC SỬ, VÀO NĂM 2008, LỄ CÔNG BỐ TRAO GIẢI TẠI THÀNH PHỐ SAN JOSÉ CỦA HỘI Y NHA DƯỢC SỸ QUỐC TẾ. Chủ bút Trịnh Quốc Thiên, là chủ kênh "Từ Thủ Ðô" TiVi, https://www.youtube.com/trinhquocthien
31 tháng 10, 2019
28 tháng 10, 2019
BẠN CÓ BIẾT? Một cuộc vận động hành lang nhằm thả bom nguyên tử xuống miền Bắc Việt Nam để "cứu nguy"
-------------
Tháng 5/1954, trong lúc 16.200 quân Pháp và tay sai bản xứ bị quân đội Việt Nam vây chặt tại Điện Biên Phủ thì ở New York, Hồng y Spellman được sự đồng tình của Giáo hoàng Pius XII tiến hành một cuộc vận động hành lang nhằm thả bom nguyên tử xuống miền Bắc Việt Nam để "cứu nguy" cho sự thống trị của nền văn minh Kitô ở Việt Nam.
Chính quyền Mỹ đã chuẩn bị kế hoạch thả từ 1 đến 6 quả bom nguyên tử cỡ 31 kiloton với sức công phá gấp 3 lần quả từng thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản trong Thế chiến II.
Tuy nhiên, một số thành viên có đầu óc thực tế hơn trong Nhà trắng và Lầu Năm góc đã dừng kế hoạch do tính hiệu quả trên thực tế cũng như lo sợ phản ứng của Liên Xô sẽ châm ngòi cho Thế chiến III. Chi tiết kế hoạch được bạch hóa trong cuốn đầu tiên trong bộ 17 cuốn viết về Chiến tranh Việt Nam của Phòng Quân sử Lục quân Hoa Kỳ xuất bản vào năm 1984.
Tháng 5/1954, trong lúc 16.200 quân Pháp và tay sai bản xứ bị quân đội Việt Nam vây chặt tại Điện Biên Phủ thì ở New York, Hồng y Spellman được sự đồng tình của Giáo hoàng Pius XII tiến hành một cuộc vận động hành lang nhằm thả bom nguyên tử xuống miền Bắc Việt Nam để "cứu nguy" cho sự thống trị của nền văn minh Kitô ở Việt Nam.
Chính quyền Mỹ đã chuẩn bị kế hoạch thả từ 1 đến 6 quả bom nguyên tử cỡ 31 kiloton với sức công phá gấp 3 lần quả từng thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản trong Thế chiến II.
Tuy nhiên, một số thành viên có đầu óc thực tế hơn trong Nhà trắng và Lầu Năm góc đã dừng kế hoạch do tính hiệu quả trên thực tế cũng như lo sợ phản ứng của Liên Xô sẽ châm ngòi cho Thế chiến III. Chi tiết kế hoạch được bạch hóa trong cuốn đầu tiên trong bộ 17 cuốn viết về Chiến tranh Việt Nam của Phòng Quân sử Lục quân Hoa Kỳ xuất bản vào năm 1984.
Giáo hoàng Pius XII là một trong những người đã dựng lên con bài Bảo
Đại, tiếp đó cùng đồ đệ là Hồng Y Spellman (Tổng giám mục New York . Sau
này là Tổng quân ủy quân đội Mỹ) vận động để đưa Ngô Đình Diệm từ một
cá nhân không mấy tên tuổi và gần như không có công trạng gì từ Mỹ về
miền Nam Việt Nam cầm đầu chính thể 'người Việt quốc gia' sau thất bại
của thực dân Pháp tại Điện Biên Phủ.
--------
Theo sử gia Avro Manhattan trong cuốn "Vietnam why did we go?" (Việt Nam: tại sao chúng ta đến đó?), Nxb Chick, California, 1984, tr 72. [Bản dịch của học giả Nguyễn Mạnh Quang đã đăng trên sachhiem.net]
(Ảnh) Chân dung 2 bà mẹ đỡ đầu của "Quốc gia Việt Nam' và 'Việt Nam Cộng hòa'
--------
Theo sử gia Avro Manhattan trong cuốn "Vietnam why did we go?" (Việt Nam: tại sao chúng ta đến đó?), Nxb Chick, California, 1984, tr 72. [Bản dịch của học giả Nguyễn Mạnh Quang đã đăng trên sachhiem.net]
(Ảnh) Chân dung 2 bà mẹ đỡ đầu của "Quốc gia Việt Nam' và 'Việt Nam Cộng hòa'
23 tháng 10, 2019
Theo Thiên Nam hành kỷ, do Từ Minh Thiện- sứ giả nhà Nguyên viết, ngay sau khi quân Nguyên rút về năm 1288, nhà Trần đã phải nhún nhường và triều cống rất nhiều.
Tác giả liệt kê 2 danh sách cống vào năm 1289:
- Danh sách đầu gồm 15 lễ vật, trong số đó 9 đồ bằng vàng bạc:
Gồm có:
1. Một đôi hoãn đeo tai dây bằng vàng kết hạt trân châu,
2. Một chiếc áo chầu màu đỏ có cẩn ngọc trai và vàng,
3. Một hộp bằng bạc để đựng vật dụng,
4. 16 hạt châu màu (4 hạt màu nâu, 4 hạt màu tía, 4 hạt màu biếc, 4 hạt màu thạch lựu),
5. 276 hạt trân châu (2 hạt to, 4 hạt vừa, 70 hạt nhỏ, 200 hạt dáng như đá minh hoành),
6. Một đôi khuyên trân châu trang trí bằng vàng (nặng 1 lạng vàng, 10 hạt châu),
7. Một bộ chén mời rượu bằng vàng (vàng nặng 4 lạng 5 tiền),
8. Một đĩa vàng đựng chén hoa tê (vàng nặng 3 lạng),
9. Một chén có nắp đậy bằng vàng (vàng nặng 9 lạng 6 tiền).
Ngoài ra còn có 50 cánh chim thúy.
- Danh sách 2 gồm 47 hiện vật, trong đó 25 đồ bằng vàng bạc, ngoài ra còn có 1 đôi chim vẹt:
1. Một hộp đựng biểu bằng gỗ sơn son thiếp vàng viền bạc và chìa khóa,
2. Một bộ yên nạm vàng gồm cả bành (vàng nạm nặng 10 lạng),
3. 5 quả cầu bằng da con tê ngưu có nạm vàng bạc (tổng cộng nặng 14 lạng 5 đồng cân),
4. 7 chiếc vòng đồng mạ vàng,
5. Một chiếc mâm đá hoa, dát vàng mạ bạc để nhà vua dùng,
6. Một đôi bình lưu ly cùng nắp đậy bằng vàng (tổng cộng vàng nặng 1 lạng 6 đồng cân),
7. Một đôi đế cắm nến bằng vàng nặng 14 lạng,
8. Một chiếc khay bằng ngà con tê dát vàng mạ bạc,
9. Một chén bằng trầm hương bít vàng đế có nắp,
10. Một đĩa hình hoa sen bằng vàng (6 lạng 6 đồng cân) có đế bằng vàng (3 lạng 7 đồng cân),
11. Một đĩa hình lá sen bằng vàng (5 lạng),
12. Một đĩa hình quả dưa bằng vàng (6 lạng 8 đồng cân),
13. Một cái bầu bằng vàng (7 lạng),
14. Một chiếc đĩa bằng sừng tê bít vàng (4 lạng),
15. Đũa vàng (1 lạng 3 đồng cân),
16. Một đôi xiên thịt bằng vàng (7 tiền),
17. Một bộ bàn cờ bằng xương voi nước, ô trên bàn cờ bằng chỉ vàng (kim tuyến 1 lạng),
18. Một chiếc hộp bằng bạc cẩn vàng có khóa (25 lạng),
19. 3 chiếc sừng hoa tê, 3 chiếc đế bịt vàng cẩn bạc (đế nặng 10 lạng 8 đồng cân),
20. 5 bộ thanh la bằng vàng (tổng cộng nặng 100 lạng),
21. 10 bộ thanh la bằng bạc (tổng cộng nặng 300 lạng),
22. 3 chiếc bình bằng bạc đựng dầu tô hợp hương (đều nặng 163 lạng, bình nặng 79 lạng).
Như thế cống vật rất nặng nề, trong khi kinh tế bị phá hủy nặng nề trong chiến tranh. Điển hình là 2 năm liền 1290, 1291 đói to, dân chết đói rất nhiều dù đã phát chẩn, miễn thuế đinh. Liền mấy năm binh lửa quân dân chạy hết lên rừng xuống bể ruộng đồng bỏ không, đê điều thiếu quản lí. Nhưng vì đại cục chung mà ta phải nhin nhục cống nạp.
Nguồn: dựa theo thông báo Hán Nôm học năm 2012.
Ảnh: bát vàng thời Trần
#VN #Trần
Tác giả liệt kê 2 danh sách cống vào năm 1289:
- Danh sách đầu gồm 15 lễ vật, trong số đó 9 đồ bằng vàng bạc:
Gồm có:
1. Một đôi hoãn đeo tai dây bằng vàng kết hạt trân châu,
2. Một chiếc áo chầu màu đỏ có cẩn ngọc trai và vàng,
3. Một hộp bằng bạc để đựng vật dụng,
4. 16 hạt châu màu (4 hạt màu nâu, 4 hạt màu tía, 4 hạt màu biếc, 4 hạt màu thạch lựu),
5. 276 hạt trân châu (2 hạt to, 4 hạt vừa, 70 hạt nhỏ, 200 hạt dáng như đá minh hoành),
6. Một đôi khuyên trân châu trang trí bằng vàng (nặng 1 lạng vàng, 10 hạt châu),
7. Một bộ chén mời rượu bằng vàng (vàng nặng 4 lạng 5 tiền),
8. Một đĩa vàng đựng chén hoa tê (vàng nặng 3 lạng),
9. Một chén có nắp đậy bằng vàng (vàng nặng 9 lạng 6 tiền).
Ngoài ra còn có 50 cánh chim thúy.
- Danh sách 2 gồm 47 hiện vật, trong đó 25 đồ bằng vàng bạc, ngoài ra còn có 1 đôi chim vẹt:
1. Một hộp đựng biểu bằng gỗ sơn son thiếp vàng viền bạc và chìa khóa,
2. Một bộ yên nạm vàng gồm cả bành (vàng nạm nặng 10 lạng),
3. 5 quả cầu bằng da con tê ngưu có nạm vàng bạc (tổng cộng nặng 14 lạng 5 đồng cân),
4. 7 chiếc vòng đồng mạ vàng,
5. Một chiếc mâm đá hoa, dát vàng mạ bạc để nhà vua dùng,
6. Một đôi bình lưu ly cùng nắp đậy bằng vàng (tổng cộng vàng nặng 1 lạng 6 đồng cân),
7. Một đôi đế cắm nến bằng vàng nặng 14 lạng,
8. Một chiếc khay bằng ngà con tê dát vàng mạ bạc,
9. Một chén bằng trầm hương bít vàng đế có nắp,
10. Một đĩa hình hoa sen bằng vàng (6 lạng 6 đồng cân) có đế bằng vàng (3 lạng 7 đồng cân),
11. Một đĩa hình lá sen bằng vàng (5 lạng),
12. Một đĩa hình quả dưa bằng vàng (6 lạng 8 đồng cân),
13. Một cái bầu bằng vàng (7 lạng),
14. Một chiếc đĩa bằng sừng tê bít vàng (4 lạng),
15. Đũa vàng (1 lạng 3 đồng cân),
16. Một đôi xiên thịt bằng vàng (7 tiền),
17. Một bộ bàn cờ bằng xương voi nước, ô trên bàn cờ bằng chỉ vàng (kim tuyến 1 lạng),
18. Một chiếc hộp bằng bạc cẩn vàng có khóa (25 lạng),
19. 3 chiếc sừng hoa tê, 3 chiếc đế bịt vàng cẩn bạc (đế nặng 10 lạng 8 đồng cân),
20. 5 bộ thanh la bằng vàng (tổng cộng nặng 100 lạng),
21. 10 bộ thanh la bằng bạc (tổng cộng nặng 300 lạng),
22. 3 chiếc bình bằng bạc đựng dầu tô hợp hương (đều nặng 163 lạng, bình nặng 79 lạng).
Như thế cống vật rất nặng nề, trong khi kinh tế bị phá hủy nặng nề trong chiến tranh. Điển hình là 2 năm liền 1290, 1291 đói to, dân chết đói rất nhiều dù đã phát chẩn, miễn thuế đinh. Liền mấy năm binh lửa quân dân chạy hết lên rừng xuống bể ruộng đồng bỏ không, đê điều thiếu quản lí. Nhưng vì đại cục chung mà ta phải nhin nhục cống nạp.
Nguồn: dựa theo thông báo Hán Nôm học năm 2012.
Ảnh: bát vàng thời Trần
#VN #Trần
Ngô Thì Nhậm - người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh 1789
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngô Thì Nhậm 吳時壬 | |
---|---|
Tượng thờ Ngô Thì Nhậm trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt (Bảo tàng Quang Trung, Bình Định)
| |
Thông tin chung | |
Tự | Hy Doãn |
Hiệu | Đạt Hiên |
Pháp danh | Hải Lượng thiền sư [1] |
Học vấn | tiến sĩ (Hậu Lê) |
Chức quan | |
Thân phụ | Ngô Thì Sĩ |
Sinh | 25 tháng 10, 1746 |
Mất | 1803 (56–57 tuổi) |
Triều đại | Hậu Lê, Tây Sơn |
Mục lục:
Sự nghiệp
Năm 1768, 23 tuổi ông thi đỗ giải nguyên, được bổ Hiến sát phó sứ Hải dương.
Năm 1771, 26 tuổi, dự khảo thí ở Quốc tử giám, đỗ ưu hạng đồng thời hoàn thành “Hải đông chí lược”, một tập địa phương chí của Hải Dương.
Năm 1775, ông thi đỗ thứ năm hàng tiến sĩ tam giáp, cùng khoa với Phan Huy Ích. Ðạt được học vị cao nhất của thang giá trị học vấn thời đó. Được chúa Trịnh Sâm rất quý mến và nhận xét là “Tài học không ở dưới người”. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan Hộ khoa cấp sự trung ở bộ Hộ dưới triều Lê–Trịnh.
Năm 1776, ông được bổ làm Giám sát Ngự sử đài đạo Sơn nam, sau đó thăng Ðốc đồng trấn Kinh bắc.
Năm 1778, ông vẫn giữ chức Ðốc đồng Kinh Bắc nhưng kiêm thêm chức Ðốc đồng Thái Nguyên. Khi đó cha ông làm Đốc đồng Lạng Sơn. Cha con đồng triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ.
Không phụ lòng tin yêu của Tĩnh đô vương, Ngô Thì Nhậm dâng nhiều kế sách hay trong đạo trị nước, trong đó có các bài biểu nổi tiếng như Giáo nghị, Pháp nghị và Chính nghị. Tuy nhiên, do triều đại Lê – Trịnh đang ở vào thời suy vi, nên dù rất khen kế sách của ông, Trịnh Sâm cũng không thể áp dụng nó vào thực tế.
Sau Vụ án năm Canh Tý (1780), Ngô Thì Nhậm được thăng làm Công bộ Hữu thị lang. Vụ này khiến cho giới sĩ phu Bắc hà nghi ngờ Ngô Thì Nhậm là người tố giác Trịnh Khải, nên phải bỏ trốn về quê vợ ở Bách Tính Nam Định[3] (nay là Bách Tính, Nam Hồng, Nam Trực, Nam Định) lánh nạn.
Cha ông mất cùng năm sau vụ án Canh Tý (Trịnh Sâm dẹp tan âm mưu đảo chính của phe cánh Trịnh Tông muốn diệt trừ phe cánh Ðặng Thị Huệ và Quận Huy), do bạo bệnh sau một chuyến đi Nam quan cho việc quan. Do đó Nhậm mới bị cái tiếng “sát tứ phụ nhi thị lang” ( giết bốn cha để được chức Thị lang. Bốn cha ý chỉ Ngô Thì Sĩ và ba người bạn vong niên của cha là Nguyễn Khản, Nguyễn Phương Ðĩnh và Nguyễn Khắc Tuân).
Với tư tưởng lấy trung làm đầu, khi Nguyễn Huệ mang quân ra đất Bắc lần thứ nhất, Ngô Thì Nhậm đã từng gọi Nguyễn Huệ là giặc, từ bỏ đất kinh kì đi “lánh nạn”, hưởng thú vui “nhắm rượu với cua béo”.
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan lại của triều cũ. Danh sĩ Bắc Hà đã đầu quân cho nhà Tây Sơn từ trước đó mới chỉ có Trần Văn Kỉ[4], Ngô Văn Sở và Đặng Tiến Đông[5].
Tuy vậy, tới thời điểm này thì cả vua Lê lẫn chúa Trịnh đều đã đổ. Ngô Thì Nhậm và một số thân sĩ Bắc Hà khác như Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch[6]; các tiến sĩ Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan; Đoàn Nguyễn Tuấn (anh rể Nguyễn Du); Vũ Huy Tấn; Nguyễn Huy Lượng (tác giả "Tụng Tây Hồ phú")...lần lượt ra làm quan cho nhà Tây Sơn.[7] Ngô Thì Nhậm là người đầu tiên trong đám nhân sĩ Bắc hà tới trình diện ở bộ Lễ. Sau đó, ông nhận được lòng tín nhiệm tuyệt đối của Nguyễn Huệ.
Sử cũ viết khi được Thì Nhậm, Nguyễn Huệ mừng mà rằng: "Thật là trời để dành ông cho ta vậy", và phong cho ông chức Tả thị lang bộ Lại, tước Tĩnh phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả quan văn võ của triều Lê.
Chỉ chưa đầy một tháng phục vụ chủ mới, thị lang Ngô Thì Nhậm đã tập hợp được một số cựu thần nhà Lê và soạn ngay một tờ biểu suy tôn để xin Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế. Công việc có chiều hấp tấp và lộ liễu đó không được mấy người hưởng ứng, những người có tư cách đều không ra, có kẻ bị ép thà tự tử.
Không thể đóng quân mãi ở xa đại bản doanh, thả mồi bắt bóng, ngày chậm tháng chầy có thể đưa đến những bất lợi, Nguyễn Huệ đành phải để một đại tướng trấn giữ miền Bắc phải hậm hực kéo quân trở về Thuận Hoá chờ cơ hội khác. Sau ông lại thăng làm thượng thư bộ Lại - chức vụ cao cấp nhất trong Lục bộ.
Cuối năm Mậu Thân (1788) do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê.
Ngô Thì Nhậm đã có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn. Ông nhận định: "Nay, ta giữ quân mà rút về chỗ hiểm Tam Điệp, không bị mất một mũi tên. Cho giặc vào Thăng Long ngủ trọ một đêm, rồi tung quân ra đánh, đuổi chúng đi, có mất gì đâu?”.
Đánh giá về công lao của Ngô Thì Nhậm, vua Quang Trung nói với tướng sĩ rằng: “Các người đều là chiến tướng, tự nhiên gặp giặc là đánh, mà lâm cơ cần ứng biến thì không đủ tài. Mấy tháng trước, ta phải để Ngô Thì Nhậm ở lại, cộng sự với các ngươi, chính là lo sẵn cho chỗ đó”.
Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ thượng thư. Tuy làm ở bộ Binh, nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa.[8]
Vốn là người văn chương nức tiếng bấy giờ, phần lớn các thư từ bang giao giữa nước ta và nhà Thanh đều do chính tay ông soạn thảo. Những văn kiện ngoại giao của Ngô Thì Nhậm thể hiện rõ nguyên tắc về chủ quyền lãnh thổ, danh dự quốc gia với các chính sách mềm dẻo, linh hoạt, cứng rắn. Ngoài ra, Ngô Thì Nhậm hai lần đi sứ sang nhà Thanh vào những dịp rất quan trọng, khoảng các năm 1790, 1792-1793. Ông dốc toàn tài năng cho nhà Tây Sơn. Chính sách ngoại giao khôn khéo đối với nhà Thanh, không nghi ngờ gì nữa, là tác phẩm của Ngô Thì Nhậm, không phải là công trạng của Quang Trung.
Theo sách Hoàng hoa đồ phả, trong những lần đi sứ phương Bắc, ông luôn cố gắng để đến tất cả những danh thắng ở Trung Quốc mà người Việt chỉ biết qua sách vở, cũng như tìm kiếm dấu vết của lịch sử Việt Nam trên đất khách. Chính ông là người đã phát hiện miếu của Hai Bà Trưng được lập ở xứ người.
Sau khi ổn định an ninh một dải đất dài từ ải Nam quan vào tới Bến Ván, Quang Trung đã nghe theo lời cố vấn của hai văn thần quan trọng là Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm để tổ chức lại guồng máy hành chánh, thuế khóa.
Sau một thời gian chiến tranh liên miên, đồng ruộng hoang hóa, xóm làng điêu tàn đổ nát, dân cư xiêu tán, kinh tế kiệt quệ, Quang Trung phải đối phó với những khó khăn chồng chất của thời bình. Trong các kế hoạch bình định, chắc chắn Ngô Thì Nhậm soạn thảo cho Quang Trung kế hoạch tái phối trí dân số và phát triển nông nghiệp, vì văn bản chính thức của kế hoạch này, “Tờ Chiếu Khuyến nông”, được dòng họ Ngô-thì lưu giữ và ghi vào tập “Hàn các anh hoa” của Ngô Thì Nhậm.
Năm 1792, Sau khi Quang Trung mất, ông không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học. Ông lập thiền viện, soạn công án, trở thành Hải Lượng thiền sư. Từ một nhà nho nhiệt tín, một nhà chính trị nhiệt tín, ông trở thành đệ tứ tổ của Thiền tông Việt Nam. Ông đã hoàn thành một tác phẩm rất có giá trị là Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh (1796).
Năm 1802, Sau khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Tây Sơn thì bị đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803. Nhưng do trước đó có mâu thuẫn với Đặng Trần Thường nên cho người tẩm thuốc vào roi. Sau trận đánh đòn, về nhà, Ngô Thì Nhậm chết.
Câu ứng đối nổi tiếng
Tương truyền Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường có quen biết với nhau.Chuyện xưa kể lại rằng, học trò của cụ Ngô Thì Sỹ ngày ấy khá đông, nhưng xuất sắc nhất chỉ có người con trai là Ngô Thì Nhậm và con rể của cụ là Phan Huy Ích. Một lần vui miệng, để khuyến khích cả con rể và con trai, cụ Sỹ bảo hai người hãy cố chiếm lấy cho được vị trí trong cuộc tranh đua khoa giáp. Lúc ông bảo ban như vậy có mặt cả một người học trò khác tên là Đặng Trần Thường. Không thấy thầy nhắc gì đến mình, Đặng Trần Thường cảm thấy mình bị bẽ mặt, từ đó trong thâm tâm nảy sinh ghen ghét, bực bội với hai người kia.
Nhưng quả thực là lực học của Đặng Trần Thường không bằng hai người họ Ngô và Phan được. Sau kỳ thi hội, hai người này đều đỗ cao, còn Đặng Trần Thường thì bị hỏng. Từ đó, lòng đố kỵ lại tăng lên, Đặng muốn tỏ ra khinh thường bạn để thỏa nỗi bực mình. Vì thế, chọn đúng ngày Ngô Thì Nhậm vinh quy được rước về làng, Thường ra chặn ngay đầu đường kéo quần xuống đái. Các quan và chức dịch sở tại thấy vậy đuổi bắt và đánh Thường mấy chục roi. Thường cho đây là chủ tâm của Ngô Thì Nhậm muốn làm nhục mình, nên từ đó càng căm giận, nhất quyết trả thù cho bằng được.
Lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Nhậm thét bảo Thường:
- Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.
- Có chuyện lại kể, Nhậm thấy vẻ khúm núm, hèn hạ, xin xỏ của Thường khẽ cười mà rằng:
- Công hầu, khanh tướng, vòng trần ai
- Đại ý nói rằng, danh tước, công hầu làm con người thành bi kịch chốn trần ai.
Sau khi nhà Tây Sơn mất, các võ tướng và một số quan văn bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đó có Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó là Đặng Trần Thường.
Trong thế đối nghịch nhau, nhớ lại chuyện xưa, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:
- Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai đã biết ai
- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, dù thời thế, thế nào cũng thế
- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế nào vẫn thế
Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình không qua khỏi, trước khi qua đời ông có làm bài thơ gửi tặng Đặng Trần Thường như sau:
- Ai tai Đặng Trần Thường
- Chân như yến xử đường
- Vị Ương cung cố sự
- Diệc nhĩ thị thu trường
Tạm dịch:
- Thương thay Đặng Trần Thường
- Tổ yến nhà xử đường
- Vị Ương cung chuyện cũ
- Tránh sao kiếp tai ương?
Cống người vàng thế thân: Từ sử liệu chính thống đến truyền thuyết dân gian
Tác giả: TS Nguyễn Thanh Tùng
Bài viết đặt vấn đề tìm hiểu hiện tượng tiến cống “người vàng
thế thân” trong lịch sử bang giao Việt - Trung thời trung đại. Trong bài
viết này, từ việc phân tích các sử liệu chính thống, quan phương (còn
gọi là “chính sử”) ghi chép về việc cống “người vàng thế thân” từ cả hai
phía (Trung - Việt), phân tích nhóm tư liệu phi chính thống, tư nhân
hoặc vô danh (mang nhiều tính giai thoại của loại “chuyện ngoài chính
sử”) mà chúng tôi tạm gọi là “truyền thuyết” của dân gian (kể cả người
phương Tây) trong sự đối sánh thường trực với nhau, bài viết sẽ chỉ ra
sự lệch pha, khác biệt quan điểm, thái độ và động thái của các bên, các
nhóm mà các sử liệu, tư liệu đại diện để làm rõ sự chi phối của các tác
nhân bên ngoài như chủ thể, bối cảnh, mục đích, quyền lực, tri thức,…
đến sự phản ánh cũng như diễn giải, tiếp nhận một hiện tượng lịch sử.
Bài viết cũng chỉ ra sức mạnh chi phối của những văn bản “then chốt” và
sức mạnh của cả những “ngộ nhận” trong sự diễn hoá của các văn bản, các
diễn ngôn.
Cũng
như trong lĩnh vực chính trị - quân sự, trong lĩnh vực ngoại giao của
các quốc gia (đặc biệt là ở thời cổ trung đại) thường xuất hiện những
biến cố, sự kiện được xếp vào dạng “thâm cung bí sử”, ít phổ biến ra bên
ngoài. Chính sự bí mật, thiếu công khai đó là một trong những nguyên
nhân chủ yếu đã tạo điều kiện cho sự ngộ nhận hoặc diễn giải, thậm chí
hư cấu thông tin theo những cách khác nhau, tạo thành các “diễn ngôn”
phản ánh hoàn cảnh, mục đích, ý chí và lợi ích riêng của các chủ thể
(các bên, các nhóm) mà sự khác biệt điển hình đến từ lĩnh vực chủ quyền
dân tộc (ngoại bang và quốc nội, đế quốc và thuộc địa,…) và vị thế quyền
lực - tri thức (trung tâm, chính thống, bác học và ngoại biên, phi
chính thống, dân gian(1)). Tìm hiểu sự khác nhau này sẽ cho
chúng ta thấy nhiều đặc trưng thú vị trong ý thức, hành động của các lực
lượng, các nhóm cũng như sự vận động, tương tác của ý thức, hành động
đó trong dòng chảy lịch sử. Hiện tượng cống “người vàng thế thân” (代 身 金
人) trong lịch sử ngoại giao Việt - Trung thời trung đại là một ví dụ
điển hình.
*
* *
1. Cống người vàng trong sử liệu chính thống Trung - Việt dưới cái nhìn đối chiếu
1.1. Khởi nguồn và tính chất của việc cống người vàng
Theo
sử liệu Trung Hoa, việc cống “người vàng thế thân” trong quan hệ bang
giao Việt - Trung bắt đầu xuất hiện từ thời Nguyên 元. Khởi nguồn, để lấy
cớ chèn ép và nô thuộc An Nam 安 南 (tức Đại Việt 大 越), nhà Nguyên [Chí
Nguyên 至 元 năm thứ 4 - 1267] đã đưa ra yêu sách “6 việc” (六 事), đó là:
“1) Vua nước ấy phải sang chầu; 2) Cho con em vua sang làm con tin; 3)
Biên nộp hộ khẩu trong nước; 4) Góp quân lính; 5) Đóng sưu thuế; 6) Đặt
chức Đạt lỗ hoa xích để cai trị”(2). Vua Trần 陳 là Trần Quang
Bính 陳 光 昺 (tức vua Trần Thánh Tông 陳 聖 宗, tên thật là Trần Hoảng 陳 晃)
lần lữa không tuân theo. Năm 1278, nhà Nguyên lại sai sứ thần Sài Thung 柴
樁 sang An Nam đòi Trần Nhật Huyên 陳 日 烜 (tức Trần Nhân Tông 陳 仁 宗, tên
thật là Trần Khâm 陳 昑) “nhập cận” (lấy cớ Nhật Huyên “tự lập” không xin
phép và vua Nguyên mới đổi tên nước là “Đại Nguyên” 大 元, đòi ông sang
chúc mừng). Vua Trần lấy cớ từ nhỏ sinh trưởng trong cung, sức khoẻ yếu,
không quen thuỷ thổ để từ chối. Sứ Nguyên về nước, vua Trần sai sứ là
Trịnh Quốc Toản 鄭 國 瓚 [tức Trịnh Đình Toản 鄭 廷 瓚], Đỗ Quốc Kế 杜 國 計 sang
sứ để biện bạch. Nhà Nguyên không chấp thuận. Năm 1279, Sài Thung lại
sang An Nam cật vấn vua Trần tự tiện lên ngôi và không sang chầu. Vua
Trần tiếp tục tìm nhiều cách từ chối, sứ giả hai nước qua lại rất nhiều
để thương thảo nhưng không có kết quả. Cuối cùng nhà Nguyên đưa ra một
cách thức được họ cho là nhượng bộ, thoả hiệp đó là dùng “người vàng thế
thân”. Chiếu dụ của vua Nguyên yêu cầu và đe doạ: “Nếu quả không thể tự
mình sang chầu, thì hãy gom vàng [đúc tượng] thay cho thân mình, dùng 2
hòn ngọc để thay cho mắt mình, lại phụ thêm hiền sĩ, phương kĩ, con
gái, thợ thuyền mỗi hạng hai người, để thay cho dân trong nước. Nếu
không theo thì hãy sửa sang thành trì mà đợi sự phán xử của ta”(3).
Vua Trần vẫn không chấp nhận nhưng có nhượng bộ bằng cách đưa chú là
Trần Di Ái 陳 遺 愛 sang thay chầu. Sự việc sau đó, như chúng ta đều rõ: 2
lần (1285, 1288) nhà Nguyên cất quân chinh phạt An Nam và đều thất bại
thảm hại. Mặc dù vậy, năm 1288, nhà Nguyên vẫn sai sứ Lí Tư Diễn 李 思 衍,
Vạn Nô 萬 奴 sang An Nam đòi vua Trần vào chầu và đe doạ tiếp tục đem quân
sang đánh để rửa hận(4). Trước áp lực to lớn đó, vua Trần
buộc phải nhượng bộ bằng cách: “lại sai sứ sang tạ, dâng người vàng để
tạ, gánh thay tội cho bản thân”(5). Nhà Nguyên vẫn tiếp tục
hạch sách đòi vua Trần vào chầu thêm vài lần nữa, nhưng chấm dứt hẳn
việc động binh. Như vậy, theo sử Trung Hoa, đây là lần đầu tiên An Nam
cống “người vàng thế thân”. Cũng theo sử liệu Trung Hoa, người vàng ở
đây là để thay thế cho vua An Nam, biểu hiện sự cung thuận, thần phục
của nước “chư hầu” với “thiên triều” trong một mối quan hệ bang giao
theo kiểu “triều cống” bất cân xứng(6). Ngoài ra, theo phân
tích của các nhà nghiên cứu phương Tây, hiện tượng sử dụng cống vật như
thế còn ẩn chứa mối quan hệ kinh tế đặc biệt(7).
Ngược với
sử liệu Trung Quốc, sử chính thống Đại Việt hầu như không ghi chép về
việc cống “người vàng thế thân” dưới triều Trần. Các sách Đại Việt sử lược 大 越 史 略, An Nam chí lược 安 南 志 略, Đại Việt sử kí toàn thư 大 越 史 記 全 書 (Toàn thư) tuy có ghi chép một số sự kiện ngoại giao liên quan(8) nhưng không chép việc nhà Nguyên đòi cống người vàng cũng như việc nhà Trần đáp ứng đòi hỏi đó. An Nam chí lược của Lê Tắc 黎 側 chỉ chép sự kiện năm 1288, sứ Đại Việt có sang nhà Nguyên cống “phương vật” mà không ghi rõ là gì(9). Đến Ngô Thì Sĩ 吳 時 士, trong Việt sử tiêu án 越 史 標 案, Đại Việt sử kí tiền biên 大 越 史 記 前 編 (Tiền biên) rồi sử thần nhà Nguyễn 阮 trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱 目 (Cương mục), có dẫn lời chiếu dụ của vua Nguyên nhưng có sửa đổi văn từ. Chẳng hạn, Tiền biên chép: “Theo sử phương Bắc,
trước đây vua Nguyên nhiều lần sai sứ dụ vua vào chầu, vua ta đều không
nghe. Vua Nguyên lại sai sứ sang dụ rằng: Nếu quả thực không tự mình
đến, thì nên đem vàng bạc châu báu sang thay và đem những bậc hiền sĩ, những thợ giỏi mỗi loại hai người để phụ bên”(10). Về khởi nguồn lệ cống người vàng thời Nguyên, duy có tờ Bẩm Phúc đại nhân 禀 福 大 人 trong Bang giao hảo thoại 邦 交 好 話 của
Ngô gia văn phái có nhắc đến nhưng phủ nhận việc nhà Trần tuân theo. Tờ
bẩm viết: “Trộm xét: lệ này có từ năm nhà Nguyên chinh phạt nhà Trần.
Vua Trần quy thuận cầu phong, Trung Quốc sai Quốc vương nước ấy vào
chầu. Vua Trần lấy cớ bệnh tật từ tạ. Vì thế, [nhà Nguyên] sức cho phải
chuẩn bị người vàng làm thành hình dạng Quốc vương, để thay mình vào
chầu. Vua Trần lấy lí do việc này xưa không có [từ chối], cuối cùng
tránh được”(11). Phải đến tận cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX,
việc nhà Trần cống người vàng mới được ghi nhận thông qua việc tra cứu
sử liệu Trung Hoa. Sách Cổ kim giao thiệp sự nghi thông khảo 古 今 交 涉 事 儀 通 考 (Khuyết danh) dẫn Nguyên sử loại biên 元 史 類 編 thừa nhận sự khác biệt giữa sử Việt và sử Trung Hoa và cho rằng sử Trung Hoa “so với sự ghi chép của sử Việt giúp làm rõ hơn chỗ sơ lược của nhau”(12).
Song từ trước đến nay, dường như chưa có công trình nào dẫn dụng sách
này, do đó, kết quả khảo cứu của nó không được phổ biến rộng rãi.
Vậy
là, trong hầu suốt thời kì trung đại, đã có sự lệch pha giữa sử Việt và
sử Trung Hoa. Ta thấy các sách sử sớm nhất của Đại Việt (như Đại Việt sử lược, Toàn thư,…)
không hề hé lộ việc nhà Nguyên đòi người vàng và nhà Trần xử lí ra sao.
Mãi đến thế kỉ XVIII, sự việc mới dần được đề cập đến (ở những mức độ
khác nhau) nhưng vẫn còn chưa rõ ràng (đặc biệt là Tiền biên, Việt sử tiêu án và Cương mục như đã dẫn). Tờ Bẩm Phúc đại nhân
là tài liệu “đối ngoại” (so với các bộ sử có tính “đối nội” là chủ
yếu), kết hợp cả sử liệu chính thống và truyền thuyết dân gian mới một
phần thừa nhận gốc gác đó (vì đây là điều nhà Thanh hẳn nắm rõ và nêu
lên làm lí do để đòi cống người vàng, không thể phủ nhận như đối với
người trong nước), nhưng vẫn phủ nhận việc nhà Trần chấp nhận cống
“người vàng thế thân”. Còn sách Cổ kim giao thiệp sự nghi thông khảo là
một tài liệu khảo cứu tư nhân (chứ không phải chính sử), lại xuất hiện
muộn trong thời buổi chữ Hán đang dần bị thu hẹp phạm vi ảnh hưởng, nên
không có ảnh hưởng rộng rãi. Thành thử, việc nhà Trần có cống người vàng
gần như không được thừa nhận.
Vì
sao có hiện tượng trên? Trở lại nguyên uỷ của vấn đề, ta thấy việc nhà
Nguyên đòi cống “người vàng thế thân” hẳn là có thật (được sử liệu hai
bên thừa nhận ở những mức độ khác nhau), thể hiện thái độ rất kẻ cả,
ngạo mạn của chúng. Việc vua Trần kháng cự cũng là có thật, được chính
sử nhà Nguyên ghi lại, thể hiện ý chí cứng cỏi, độc lập của nhà Trần.
Nhưng, năm 1288 nhà Trần có cống người vàng hay không thì hai bên có
quan điểm khác nhau. Có 2 giả thiết được đặt ra. Một là, việc
này là có thật, sử nhà Nguyên ghi chép chân thực với một sự tự mãn vốn
có (nhưng có phần gượng gạo) đối với Đại Việt. Điều đó, nếu có, thực ra
cũng không lấy gì làm ngạc nhiên, bởi dù chiến thắng quân Nguyên, nhưng
trước áp lực của một nước lớn mạnh hơn nhiều lần, vua Trần phải chọn
biện pháp cầu hoà. Nếu một lễ cống người vàng có thể tránh được can qua,
chết chóc thì có lẽ ông cũng nên làm. Đó là một sự thoả hiệp, nhượng bộ
(trên thế thắng) để đổi lấy hoà bình. Việc này sau đó nhiều vị vua khác
của Đại Việt cũng làm theo. Hai là, có thể sử thần nhà Nguyên
đã “chế tác” ra sự kiện này để tô vẽ, lấy lại thể diện cho vua quan nhà
Nguyên sau 2 lần thất bại cay đắng. Hiện tượng đó không phải không
thường xảy ra (khi sử Trung Hoa thường viết thế nào để giảm nhẹ thất bại
của họ ở Đại Việt). Nếu đúng như vậy thì sử Việt đã phản ánh sự thực,
và họ ngầm bác bỏ sử Trung Hoa. Nhưng nếu giả thiết thứ nhất là đúng thì
tại sao sử Việt bỏ qua, rất ít nói đến và dần dần mới hé lộ phần nào?
Điều này có thể có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan,
việc bang giao không phải ai cũng biết đến, đó là một bí mật quốc gia,
kể cả sử quan đương thời cũng chưa chắc được biết, nhất là những việc
nhạy cảm. Hơn nữa, trong hoàn cảnh binh lửa, việc sử quan khó nắm bắt
đầy đủ tình hình cũng có khả năng xảy ra. Sử quan đương thời có thể cũng
không có điều kiện được tiếp xúc với những tư liệu Trung Hoa để tham
khảo, đối chiếu(13). Về chủ quan, đây là vấn đề tế nhị, có
liên quan đến thể diện quốc gia (quốc thể), nên sử gia không muốn phổ
biến rộng rãi, gây bất lợi cho triều đại. Điều đó trở thành một ý thức
ám ảnh các sử gia không chỉ đương thời mà còn về sau khiến họ tìm cách
làm “nhoè”, “mờ” sự kiện cống người vàng, đặc biệt là nếu nó liên quan
trên triều đại họ đang phụng sự. Chẳng hạn, mặc dù tra cứu cẩn thận tư
liệu Trung Hoa(14) và hẳn biết đến nội dung chiếu dụ của nhà Nguyên và trích dẫn nó(15),
nhưng Ngô Thì Sĩ và sử thần nhà Nguyễn đã diễn thích lời văn của chiếu
dụ đó đủ đến mức khiến người ta không còn nhận ra yêu sách đòi người
vàng của nhà Nguyên nữa (qua đó làm mờ dấu vết về sự kiện cống người
vàng thời Trần). Điều này khiến cho thông tin về việc cống người vàng
thời Trần hầu như bị chìm khuất. Ý kiến của Hoa Bằng sau đây cho thấy
tác động của việc diễn thích trên đối với nhận thức của người đời sau về
việc nhà Trần có cống người vàng: “Có lẽ ở chỗ này có nói người Nguyên
bảo vua Trần nếu không sang chầu thì phải dâng vàng ngọc để thay thế,
nên người sau mới vin đó làm cớ, rồi đổ thừa cho vua Trần là người khởi
đầu đem cống người vàng chăng”(16) Ở đây, có lẽ cũng còn có
cả sự ưu ái lớn dành cho nhà Trần (các triều đại sau không được may mắn
như vậy, nhất là triều đại đối kháng với triều đại đương thời), một
triều đại vũ công oanh liệt trong lịch sử dân tộc (tâm lí này còn ảnh
hưởng lâu dài đến thời hiện đại). Ngay tác giả tờ Bẩm Phúc đại nhân khi
thừa nhận lệ cống người vàng cũng bác bỏ việc triều Trần tiến cống (ở
đây mục đích của nó không chỉ để khẳng định tinh thần dân tộc, mà còn là
phục vụ cho nhiệm vụ ngoại giao hiện tại: chống lại việc Phúc Khang An 福
康 安 đòi cống người vàng). Rõ ràng, làm gì có sự cung thuận ngoan ngoãn,
vô điều kiện, mặc nhiên đối với những yêu sách vô lí và ngạo mạn của
“thiên triều” như sử gia và các nhà nghiên cứu Trung Hoa hay phương Tây
khẳng định. Nếu phải làm thì đó cũng chỉ là một việc làm “quyền biến”,
bề ngoài, có điều kiện và trong những tình thế bắt buộc, cần được xử lí
kín đáo. Mặt khác, đó cũng là động thái để giữ gìn thể diện cho chính
“thiên triều”, xoa dịu sự bực bội, kiêu căng của chúng, bởi việc chấp
thuận dâng người vàng không thường xảy ra trước các trận chiến (khi
“thiên triều” yêu sách và đe doạ) mà xảy ra sau khi “thiên triều” đã
thất bại thảm hại (về sau cơ bản cũng vậy, điển hình là trường hợp Lê
Thái Tổ 黎 太 祖(17)), hoặc cảm thấy không lợi khi can thiệp
quá sâu vào tình hình Đại Việt, đơn giản chỉ muốn “đục nước béo cò” (như
trường hợp nhà Mạc 莫 và nhà Lê Trung hưng 黎 中 興). Giả dụ nhà Trần chấp
nhận ngay từ đầu việc dâng người vàng thì liệu nhà Nguyên có dừng lại ở
đó mà thôi! Thực tế lịch sử cho thấy không có chuyện đó (chẳng hạn Trần
Quý Khoáng 陳 季 扩 3 lần sai sứ sang nhà Minh 明, trong đó có lần đem cả
người vàng thế thân, nhưng nhà Minh thẳng thừng từ chối, hoặc giả vờ
nhận nhưng sau lại lật lọng là bởi vì chúng đang trên thế áp đảo). Vậy
nên nói cho công bằng, việc chấp nhận tiến cống người vàng là sự nhượng
bộ, thoả hiệp của cả hai bên chứ không chỉ riêng bên nào: với “thiên
triều” là để thoả mãn tư tưởng “Hoa tâm”, “Đại Hán” của họ (nhiều khi
cũng là kiểu AQ chủ nghĩa rất hài hước) và với Đại Việt thì nó là một
động thái khôn khéo để “hàn gắn” mối quan hệ bang giao bị tổn thương bởi
chiến tranh giữa hai nước, củng cố hoà bình, ổn định hoặc đạt được sự
công nhận về danh nghĩa của triều đình phương Bắc (nhiều khi quan trọng
để đạt được tính chính danh ở bên trong). Điều này được thể hiện rõ hơn
qua các lần cống người vàng về sau.
1.2. Diễn biến lệ cống người vàng
Sử
liệu Trung Hoa ghi nhận lần tiến cống người vàng lần thứ 2 là do Trần
Cảo 陳 暠 (thực chất là Lê Lợi 黎 利 tức Lê Thái Tổ) tiến hành sau thắng
lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trước đó, sử liệu Trung Hoa (tuy không
phải chính sử) cũng ghi nhận việc nhà Minh sai sứ sang dụ cha con Hồ Quý
Ly 胡 季 犛 cống người vàng, nhưng bị từ chối thẳng thừng(18). Đó là một trong những cái cớ để nhà Minh động binh, dẫn đến 20 năm nhà Minh đô hộ Đại Việt. Năm Tuyên Đức 宣 德 thứ 3 (1428), Minh thực lục 明 實 錄 ghi nhận việc Trần Cảo “sai người mang biểu đến trần tình tạ tội, cống người vàng, người bạc thế thân”(19). Năm Tuyên Đức thứ 4 (1429), Minh sử 明 史 lại ghi nhận việc Lê Lợi “tiến cống phương vật và người vàng thế thân”(20).
Đến năm 1433, Lê Lợi mất, con là Lê Lân 黎 麟 (tức Lê Thái Tông 黎 太 宗,
tên thật là Lê Nguyên Long 黎 元 龍) lên ngôi, nhà Minh sai bọn Từ Kì 徐 琦
sang điếu tang đồng thời vặn hỏi về việc “thuế cống không như ngạch [đã
định]” và “quân sĩ đánh phương Nam chưa về hết”. Nghe lời của Từ Kì
“khuyên bảo chuyện hoạ phúc”, vua Lê (mới lên ngôi) lại sai sứ sang dâng
cống người vàng và phương vật vào năm 1434(21). Từ đó đến
hết thời Lê sơ, sử liệu Trung Hoa không ghi nhận thêm đợt cống người
vàng nào nữa. Phải sang thời Mạc và Lê Trung hưng, việc cống người vàng
mới được nối lại. Nguyên do là nhà Minh lấy cớ nhà Mạc tiếm ngôi, lại
xâm phạm biên cảnh, doạ động binh tiễu phạt. Mạc Đăng Dung 莫 登 庸 (tức
Mạc Thái Tổ 莫 太 祖) trước sức ép đó buộc phải chấp thuận một số đòi hỏi
của nhà Minh như: trả lại mấy động ở biên giới (thực ra vốn đã của nhà
Minh), Mạc Đăng Dung tự thân chịu trói (tượng trưng) đến Trấn Nam Quan
“đầu hàng” và dâng cống người vàng, người bạc thay mình. Việc này được
sử nhà Minh ghi là vào năm Gia Tĩnh thứ 19 (1540)(22). Trong
thời Vạn Lịch (1573 - 1620), nhà Lê Trung hưng đánh đuổi nhà Mạc ra khỏi
Thăng Long, sai sứ sang Minh cầu phong. Nhà Minh nghi ngờ có việc “mạo
nhận” con cháu nhà Lê, lại ra điều kiện để thông hiếu, gồm 3 khoản: an
tháp hậu duệ nhà Mạc [ở Cao Bằng]; xin chịu trói lên “nghiệm khám” ở
Trấn Nam Quan; dâng tiến người vàng. Ban đầu, Nhà Lê Trung hưng không
chấp nhận 3 điều kiện trên, chỉ muốn dùng 100 cân vàng, 1000 lạng bạc
(tương đương: 60,5 kg vàng và 37,8 kg bạc) để thay người vàng. Tuy
nhiên, nhà Minh kiên quyết không nghe. Việc thương thảo diễn ra khá dằng
co. Năm Vạn Lịch thứ 25 (1597), Lê Duy Đàm 黎 維 潭 (tức Lê Thế Tông 黎 世
宗) lên Trấn Nam Quan hội khám và bàn định lễ nghi cống phẩm, dâng người
vàng chấp nhận theo yêu cầu của nhà Minh(23). Cũng năm đó,
Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 được cử sang sứ Yên Kinh, dâng người vàng như đã
thống nhất. Từ đó, hai bên nối lại việc bang giao với định lệ tuế cống
thông thường.
Từ
đây về sau không thấy sử Trung Hoa ghi nhận việc cống người vàng nữa.
Điều này có nguyên nhân lịch sử của nó: từ khi nhà Thanh 清 lên thay nhà
Minh, ở Đại Việt không xảy ra biến cố thay đổi triều đại nào để nhà
Thanh lấy cớ đòi người vàng (như quan niệm của họ được phản ánh trong tờ
Bẩm Phúc đại nhân). Chỉ đến khi nhà Tây Sơn 西 山 thay nhà Lê,
việc này có được đặt ra trong một bộ phận quan lại nhà Thanh (điển hình
là Phúc Khang An), nhưng nó nhanh chóng bị khước từ cũng như được hoá
giải bởi việc “triều cận” của Nguyễn Huệ. Sự việc này được phản ánh
trong 2 bài thơ (và lời chú thích) của vua Càn Long 乾 隆 (tức Thanh Cao
Tông 清 高 宗) tặng cho Nguyễn Văn Bình 阮 文 平 (tức Quang Trung hoàng đế 光 中
皇 帝) vào hai dịp: khi Quốc vương An Nam sang triều kiến Càn Long tại
Yên Kinh 燕 京 năm 1790(24) và khi ông tạ thế vào năm 1792(25). Trong đó, Càn Long tỏ ý chê cười việc cống người vàng của các triều đại trước.
Diễn
biến lệ cống người vàng trong sử liệu Việt Nam cũng khá phong phú và có
những khác biệt nhất định, vừa bổ sung vừa “tranh luận” với sử liệu
Trung Hoa.
Thời
Hồ, sử liệu Việt Nam không ghi nhận việc cống người vàng. Tuy nhiên,
đến thời Hậu Trần 後 陳, có một sự kiện mà sử Trung Hoa không ghi nhận và
cũng ít được dư luận chú ý đến. Đó là việc Trần Quý Khoáng (tức vua
Trùng Quang 重 光 帝) sai sứ sang Trung Hoa cống người vàng, người bạc đề
cầu phong(26). Nếu sự kiện này là thực thì ngay từ Toàn thư, sử
Việt đã thừa nhận việc cống người vàng không chỉ đến Lê Thái Tổ mới có.
Và thực ra, việc này cũng không phải là khó hiểu. Nếu liên hệ với sử
Trung Hoa, ta sẽ thấy logic ở đây là: thời Hồ, nhà Minh sang đòi cống
người vàng (và hứa bãi binh, khôi phục họ Trần), nhà Hồ không chấp nhận,
kháng cự lại. Trần Quý Khoáng kháng Minh đã chủ động xin cống người
vàng (để xin bãi binh và cầu phong), nhưng nhà Minh không chấp nhận (đủ
thấy lí do đòi cống người vàng rất phi lí và chỉ là cái cớ để xâm chiếm
Đại Việt). Phải đến khi Lê Lợi thắng trận, đem người vàng sang cống
[theo yêu cầu của nhà Minh], chúng mới chấp nhận để vớt vát chút thể
diện của bản thân “thiên triều” trong tình thế “sa lầy” ở Đại Việt(27).
Có
nhiều sử liệu Việt Nam cung cấp về việc cống người vàng thời Lê sơ. Sớm
nhất là có lẽ là những bức thư Trần Cảo và Lê Thái Tổ (chủ yếu do
Nguyễn Trãi chấp bút) gửi cho các tướng nhà Minh hứa hẹn sẽ đúc người
vàng tiến cống để hoà giải vào năm 1427(28). Những bức thư
này cho thấy việc tiến cống người vàng đã được hai bên đưa ra thương
thảo trong một thời gian nhất định. Nhưng phía nào đề xuất trước? Căn cứ
vào bức Dữ Liễu Thăng thư 與 柳 升 書, Trần Văn Nguyên 陳 文 源 cho rằng Lê Lợi đã chủ động đề xuất tiến cống người vàng trước(29).
Nhưng theo chúng tôi, chưa hẳn đã là như vậy. Đó là cái nhìn “ngắn hạn”
không đặt trong bối cảnh lịch sử và thiếu chứng cứ chuẩn xác(30).
Nếu nhìn trong trường kì lịch sử thì phải thấy rằng, không phải ngẫu
nhiên mà xuất hiện việc cống người vàng của Lê Lợi. Như ta biết, theo Thù vực chu tư lục, năm 1405, nhà Minh đã sai Hành nhân Chu Khuyến sang dụ nhà Hồ tiến cống người vàng(31).
Có nhiều chi tiết lại cho thấy, việc gợi ý dâng cống để hoà hoãn là từ
phía nhà Minh (mà đại diện là Vương Thông). Bởi Vương Thông, khi đem
quân sang cứu viện bị Lê Lợi đánh bại phải vào Đông Quan cố thủ (cuối
năm Bính Ngọ 1426 - đầu năm Đinh Mùi 1427), đã “sai người dụ vương [tức
Lê Lợi - NTT] bãi binh thông hoà, cầu phong cho Trần Cảo, vương ưng cho.
Thông yêu cầu vua sai sứ sang Yên Kinh cống sản vật địa phương”(32).
Như vậy, rất có thể việc Lê Lợi cống người vàng trực tiếp là từ yêu cầu
“cống sản vật địa phương” của Vương Thông và gián tiếp là từ chuỗi áp
lực, yêu sách, thậm chí “mời mọc” liên tục của nhà Minh trong nhiều năm
trước. Theo đó, sử Việt ghi 2 lần nhà Lê chính thức tiến cống người
vàng. Lần thứ nhất, năm 1427 (Chánh sứ Lê Thiếu Dĩnh dẫn đầu sứ bộ sang
tạ ơn việc nhà Minh phong Trần Cảo làm An Nam quốc vương và tiễn đội
quân Vương Thông về nước)(33). Lần thứ hai là năm 1428 (Chánh
sứ Hà Lật dẫn đầu sứ bộ sang báo tin Trần Cảo đã mất, họ Trần đã tuyệt,
xin cho Lê Lợi quản lí đất nước)(34). Như vậy là liên tiếp
trong 2 năm (1427, 1428), đã có 2 sứ đoàn sang tiến cống người vàng.
Điều này sử nhà Minh đều có ghi nhưng thời gian chậm hơn 1 năm do việc
bên ghi năm đi, bên ghi năm đến. Riêng việc tiến cống người vàng năm
1434 dưới thời Lê Thái Tông thì không được sử Việt nhắc đến(35). Tuy nhiên, sách Bang giao lục 邦
交 錄 của Lê Thống 黎 統 (biên soạn năm 1819) có nhắc đến một chi tiết là
năm Thuận Thiên thứ 6 (1433), Lê Thái Tổ sai sứ thần sang tuế cống và
“giải việc người vàng”(36). Phải chăng, trước đó nhà Minh vẫn tiếp tục yêu sách cống người vàng nên nhà Lê phải có động thái này(37)?
Nhưng việc chưa xong thì Lê Thái Tổ mất, Lê Thái Tông lên thay. Trong
tình trạng “non nớt”, lúng túng về chính trị, phải chăng ông đã chấp
nhận dâng người vàng thêm một lần nữa. Có lẽ đây là một việc vạn bất đắc
dĩ, một “sai lầm” của Lê Thái Tông nên không được công khai trong sử
Việt? Hay một lần nữa, sử nhà Minh lại dựng nên chuyện này? Điều đó khó
mà xác quyết được. Chỉ có điều, rõ ràng đây lại là một ví dụ điển hình
cho thấy cách tiếp cận vấn đề người vàng của mỗi bên là rất khác nhau.
Và cũng ở đây, tính chất của việc cống người vàng để đạt được sự công
nhận của “thiên triều” cho (vốn cũng có sức nặng rất lớn cả về “đối
ngoại” lẫn “đối nội”, đặc biệt là về tính chính thống của triều đại đó)
đã hiện rõ và có ảnh hưởng lâu dài về sau (không phải ngẫu nhiên mà nhà
Lê sơ chấp nhận cống người vàng đến 3 lần!).
Thời
Mạc và Lê Trung hưng, về cơ bản sử Việt tương ứng với sử Trung Hoa. Tuy
nhiên có những sự khác biệt nhất định về thời điểm và tình tiết. Sự
kiện nhà Mạc cống người vàng được Toàn thư ghi nhận vào năm 1528(38), nhưng Lịch triều hiến chương loại chí 歷 朝 憲 章 類 志 (Loại chí) lại ghi nhận trùng với thời điểm nhà Minh ghi nhận (1540)(39).
Vậy sự thể thế nào? Liệu đó có phải là hai lần tiến cống người vàng
khác nhau của nhà Mạc? Theo chúng tôi, có lẽ không phải như vậy. Năm
1528, nhà Mạc chưa thể tiến cống cho nhà Minh (vì nhà Minh không dễ chấp
nhận ngay, việc giao thiệp giữa hai bên cũng rất khó khăn như sử liệu
hai bên đều ghi nhận). Có hai khả năng xảy ra. Một là, Toàn thư chép
như vậy là nhằm cố ý hạ thấp, bôi nhọ nhà Mạc đã “nhanh nhảu” cống
người vàng (lễ vật, cắt đất,…) cho nhà Minh. Việc cố ý hạ thấp này không
phải là hiếm trong Toàn thư (chẳng hạn chép việc nhà Mạc cắt
đất biên giới cho nhà Minh mà sau này sử gia nhà Nguyễn và các nhà
nghiên cứu hiện đại đã đính chính). Cũng có thể lúc bấy giờ
loạn lạc, sử gia nhà Lê không nắm được tình hình thực tế, nên phán đoán
sai lầm (mà đời sau dù có điều kiện cũng không sửa). Thứ hai, cũng có thể điều này phản ánh một quá trình thương thuyết lâu dài giữa nhà Mạc và nhà Minh. Theo khảo sát Minh sử và
các tư liệu liên quan, có thể dựng lại diễn biến một cách khái quát như
sau: nhà Mạc chủ trương tiếp xúc với nhà Minh từ sớm (1528) để ngăn
chặn trước việc nhũng nhiễu từ phương Bắc (nhằm toàn lực củng cố nội
bộ), nhưng con đường bang giao rất khó khăn(40) (và ngay từ đầu không phải nhà Mạc đã có chủ trương cống người vàng như Toàn thư chép).
Sự tiếp xúc thực sự giữa hai bên diễn ra vào khoảng năm 1537 và phải
đến năm 1540, nhà Minh mới chấp nhận lễ cống sau rất nhiều sự rục rịch
chuẩn bị động binh rồi lại bãi bỏ để thương thuyết, “hội khám” (do nhà
Minh cảm thấy cũng không dễ xâm chiến lại Đại Việt, và một trong những
yêu sách để công nhận tính “chính danh” của nhà Mạc là việc cống người
vàng). Về sau, nhà Mạc cũng không tiến cống người vàng nữa mà thay bằng
các đồ vật thông thường nhưng có giá trị vật chất thậm chí hơn trước(41). Về việc tiến cống người vàng của triều Lê Trung hưng, sử Việt ghi
chép rất cẩn thận và khá chi tiết. Lúc bấy giờ (1595-1597), nhà Lê
Trung hưng cơ bản đã đánh đuổi được Mạc khỏi Thăng Long, đề nghị sang
Minh cầu phong (dâng 100 lạng vàng, 1000 lạng bạc và sản vật), tuy nhiên
nhà Minh dây dưa không thuận và đòi cống người vàng(42). Hai bên trải qua một số lần chuẩn bị, thương thảo căng thẳng, giằng co kéo dài khoảng 2 năm(43). Mãi đến năm 1597, việc hội khám mới được tiến hành(44) và chuyến đi sứ của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 đã kết thúc câu chuyện cống người vàng(45). Qua ghi chép của Toàn thư, Cương mục,… có thể thấy rõ sự sách nhiễu, hách dịch, ngang ngược của nhà Minh và sự đấu tranh của triều Lê Trung hưng. Việc sử Việt ghi
chép chi tiết như vậy (so với các lần trước), ngoài nguyên nhân thuận
lợi về thông tin tiếp cận, dường như còn có ý tố cáo sự “quá đáng” của
“thiên triều” chứ không đơn giản chỉ là tường thuật sự việc. Việc ghi
chép chi tiết đó (so với việc ghi chép có phần sơ sài và thiếu chính xác
về việc cống người vàng của nhà Mạc) dường như cũng nhằm đề cao tinh
thần “phản kháng” của nhà Lê Trung hưng (so với sự thần phục nhanh chóng
triều Minh của nhà Mạc). Kể từ đây về sau sử Việt không ghi nhận lần
tiến cống người vàng nào khác.
Sang
thời Tây Sơn, sau chiến thắng năm Kỷ Dậu (1789), một lần nữa, yêu sách
người vàng lại được nhà Thanh đặt ra với triều Tây Sơn. Tờ Bẩm Phúc đại nhân xác
nhận nhà Thanh đòi 1 người vàng thế thân với cái cớ: trước đây, mỗi khi
có sự thay đổi triều đại đều phải cống người vàng. Tờ bẩm là nỗ lực bác
bỏ yêu sách này. Không rõ diễn biến của sự tranh biện giữa hai bên ra
sao (sử liệu hai bên đều không chép)(46), nhưng vấn đề đã trở
nên đơn giản hơn rất nhiều (thậm chí vô nghĩa) khi hai bên đã “dàn xếp”
được chuyến triều cận của Quang Trung Nguyễn Huệ (không rõ là giả hay
thật) năm 1790(47). Việc Càn Long làm 2 bài thơ tặng Quang
Trung trong đó chê bai việc cống người vàng của các triều đại trước đã
xác nhận chuyến “triều cận” này đã có sức nặng hơn nhiều việc cống
“người vàng thế thân” và khiến cho ông ta hết sức tự phụ theo kiểu “phép
thắng lợi tinh thần” trước các triều Nguyên, Minh. Lời chú bài thơ điếu
Quang Trung cho thấy rõ điều đó(48). Lời chú viết: “Nước An
Nam thời Nguyên Minh, có đám Trần Nhật Huyên, Mạc Đăng Dung, Lê Duy Đàm,
đều vì hoài nghi mà không dám tự mình vào triều cận, đều dâng người
vàng thế thân, có lẽ là do triều đình Trung Nguyên đã không có đủ uy tín
để thu phục lòng họ, lại chuốc lấy câu chuyện cười về việc tham tiền
mưu vật, rất là đáng chê bai. Như Nguyễn Quang Bình tự mình đến sơn
trang để triều cận, cái tình yêu mến nâng niu, chẳng khác gì cha con
trong nhà, quả là trong sử sách chưa từng có. Lễ đãi ngộ của trẫm, cũng
chẳng nỡ mà không thêm ưu ái khác biệt vậy”(49). Lời Càn Long
châm biếm các triều đại trước đòi cống người vàng đã tạo nên tình thế
“há miệng mắc quai” cho các vua nhà Thanh sau này nếu muốn yêu sách cống
người vàng (vả lại, lúc bấy giờ thế lực nhà Thanh bấy giờ cũng đã suy
yếu) khiến cho việc đòi cống người vàng về sau không còn cơ hội tái
diễn.
Xét
lại toàn bộ diễn biến của lệ cống người vàng, ta thấy đây không phải
một định lệ, có tính chất thường xuyên như kiểu tuế cống. Nhưng nó cũng
không phải không có quy luật. Điều này được chính quan lại triều Thanh
thừa nhận. Trong tờ Bẩm Phúc đại nhân, tác giả đã cho chúng ta
thấy quan niệm của triều đình quân chủ Trung Hoa khi thuật lại quan niệm
của họ: “Được nghe chỉ dạy rằng: Theo lệ, buổi đầu thay đổi các triều
đại, phải có người vàng thế thân để tạ [tội]”(50). Trần Văn Nguyên cho rằng điều này không đúng vì triều Lê sơ nhiều lần tiến cống người vàng (1427, 1428, 1434)(51).
Tuy nhiên, theo chúng tôi, đó chỉ là một ngoại lệ. Hơn nữa, cần lưu ý
đến tình thế lịch sử lúc bấy giờ: đầu triều Lê vì nhà Minh trước phong
cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương, sau dùng dằng không chịu phong cho
Lê Lợi, rồi Lê Nguyên Long làm An Nam quốc vương (chỉ phong chức Quyền
thự An Nam quốc sự, cho đến năm 1437), rồi hàng loạt những vấn đề phức
tạp khác đặt ra sau chiến tranh (về chiến phí, nhân mạng,…), nên nhà Lê
phải sang cống người vàng tổng cộng tới 3 lần (nếu ghi chép của 2 bên là
đúng) và cũng phải cử sứ thần sang đấu tranh để “giải lệ người vàng”,
đổi lại lệ tuế cống thông thường. Vì thế, đúng là trong những dịp hệ
trọng (theo quan niệm của các triều đại phương Bắc là sự thay đổi dòng
họ ở Đại Việt), các triều này đều “yêu sách” người vàng thế thân. Vấn đề
không nằm ở giá trị vật chất của người vàng (vì thực sự trọng lượng của
nó không phải là lớn, so với những cống phẩm bằng vàng khác, ở những
lần cống khác) mà nằm ở tính chất biểu trưng của nó (nhất là ở hình
trạng của người vàng) trong mắt triều đình phương Bắc (biểu thị sự thần
phục, cung thuận của người đứng đầu, dẫu thường nó chỉ là sự “thần phục
giả vờ”). Cũng vì tính chất đó mà các triều đại Đại Việt vừa miễn cưỡng
chấp nhận nghi thức này để đổi lấy sự công nhận của Trung Hoa vừa đấu
tranh để không cho nó thành thường lệ. Do đó, ngoài lần tiến cống của
nhà Trần để “tạ tội” tự tiện lên ngôi và bất thần phục, các lần tiến
cống sau còn liên quan đến việc một dòng họ, một triều đại mới lên thay
triều đại cũ hoặc nối lại dòng chính thống đã đứt (mà thực chất là một
dòng họ mới) như: họ Hồ thay Trần, nhà Hậu Trần đòi lại ngôi chính
thống, Trần Cảo lấy lại ngôi chính thống, nhà Lê thay nhà Trần, nhà Mạc
thay nhà Lê, nhà Lê Trung hưng lấy lại ngôi chính thống của họ Lê, nhà
Tây Sơn thay nhà Lê,v.v… Vì vậy, việc tiến cống người vàng còn liên quan
đến vấn đề tính chính thống của các triều đại Đại Việt trong mắt Trung
Hoa. Điều này có tác động nhất định đến việc ghi chép về việc cống người
vàng trong sử sách hai bên. Nói tóm lại, từ Trần đến Lê Trung hưng,
tổng cộng có khoảng 7 lần việc cống người vàng thế thân đã được thực
hiện. Quy luật này phủ nhận quan niệm cho rằng, việc cống người vàng thế
thân là định lệ thường xuyên, liên tục (thậm chí “hàng năm”). Nó chỉ
đúng ở trường hợp nhà Lê sơ khi “đến giữa đời nhà Lê [sơ], việc hiến
người vàng đã bãi bỏ, rồi từ năm ấy trở đi, lễ vật cống nạp hàng năm chỉ
dùng vàng để chiết đã thành điển lệ cũ” mà tờ Bẩm Phúc đại nhân khẳng định và sau đó được Phan Huy Chú 潘 輝 注 tái xác nhận(52).
Việc cống người vàng là trường hợp tiêu biểu cho tư tưởng bá quyền,
thực dân và sự phản kháng lại tư tưởng đó trong quan hệ bang giao Việt -
Trung thời trung đại. Và điều đó được thể hiện rõ nhất qua “hình trạng”
người vàng được tiến cống.
1.3. Hình trạng người vàng
Hình
trạng người vàng thời Nguyên không được sử Trung Hoa miêu tả chi tiết.
Theo sử nhà Nguyên ta chỉ biết rằng người vàng được làm bằng vàng ròng,
có đôi mắt được làm bằng 2 hạt châu(53). Đến thời Minh, hình
trạng người vàng được miêu tả chi tiết hơn và cũng trải qua những biến
thiên nhất định. Người vàng Lê Lợi, Lê Thái Tông và Mạc Đăng Dung tiến
cống được Minh sử miêu tả có dạng: “đầu tóc rũ rượi như người tù, hai tay trói quặt đằng sau”, nặng chừng 100 lạng(54). Sách Minh triều tiểu sử
明 朝 小 史 cung cấp một hình trạng người vàng do Mạc Đăng Dung tiến cống
có khác đôi chút là “trang phục người tù, hai tay trói quặt đằng sau”(55). Nó còn gọi người vàng là “phạm” (kẻ có tội), cho thấy quan niệm “người vàng” mang hình dạng người tù binh ra hàng. Bài Hịch Giao Nam quốc Lê Duy Đàm 檄 交 南 國 黎 維 潭 của
viên quan nhà Minh Dương Dần Thu 楊 寅 秋 lại cung cấp hình trạng người
vàng thời Mạc như sau: “đầu tóc rũ rượi như người tù, bị trói quỳ, dâng
biểu tấu”(56). Điều này tương ứng với ghi chép của sử Trung
Hoa (và cả sử Việt) về việc Mạc Đăng Dung phải lên biên giới để “xét
khám” với bộ dạng “đầu tóc rũ rượu, đi chân không, bò mà khấu đầu trên
đàn, dâng biểu xin hàng”(57). Đến khi nhà Lê Trung hưng tiến
người vàng, hình trạng có sự thay đổi nhất định. Khởi đầu, nhà Lê trung
hưng dự định đúc người vàng “đứng tự do, mặt nghiêm trang”. Nhưng nhà
Minh cho rằng như vậy là có ý “kiêu ngạo” nên bắt phải đổi về hình dạng
cũ. Tuy nhiên, nhà Lê Trung hưng đã tranh biện lại, trong đó có ý đại
khái rằng: không thể đồng nhất người vàng của họ Lê (Trung hưng) với họ
Mạc được (một bên là chính thống, một bên là tiếm nghịch). Cuối cùng,
hai bên đồng ý ở hình trạng “cúi đầu” như là một cách để phân biệt người
vàng của họ Lê [Trung hưng] với người vàng của họ Mạc mà vẫn đảm bảo
được ý “thần phục” như nhà Minh mong muốn. Bên cạnh đó, sau lưng (hoặc
trên mặt) pho tượng phải khắc 26 chữ: “An Nam Lê thị thế tôn, thần Lê
Duy Đàm bất đắc bồ phục thiên môn, cung tiến đại thân kim nhân, hối tội
khất ân”(58). Bài Hịch Giao Nam quốc Lê Duy Đàm cũng cung cấp hình trạng người vàng nhà Lê Trung hưng tương tự: “cúi đầu xin ơn”(59).
Có thể nói, dù có nhiều dị bản khác nhau về hình trạng, cân nặng, chữ
khắc của người vàng cống phẩm trong sử sách Trung Quốc và có sự thay đổi
nhất định qua các triều đại, nhưng thâm ý cơ bản của các triều đại
Trung Hoa (đặc biệt là triều Minh) thể hiện qua hình trạng người vàng là
tượng trưng cho việc vua Đại Việt là tội nhân quy thuận, hàng phục, qua
đó phản ánh thái độ trịch thượng, bá quyền của “thiên triều” đối với
các triều đại mà chúng gọi là “di quốc”.
Với hình
trạng người vàng như vậy được ghi nhận trong sử Trung Hoa, thật không
khó lí giải vì sao sử sách Việt Nam (dẫu có tham khảo sử Trung Hoa) hiếm
khi đề cập đến. Mặt khác, cũng có thể truyền thống chép sử theo kiểu
“đại cương” của sử Việt đã góp phần làm mờ đi chi tiết đó. Sử Việt chỉ
ghi chép đôi chút về kích thước và trọng lượng người vàng. Về trọng
lượng, thường mỗi người vàng (hoặc bạc) thời Lê sơ nặng 100 lạng. Về
kích thước, Toàn thư, Loại chí có chép người vàng, người bạc thời Lê trung hưng “cao 1 thước 2 tấc, nặng 10 cân”(60).
Như vậy, tượng người vàng, người bạc thời Lê trung hưng nặng hơn tượng
người vàng, người bạc thời Lê sơ. Điều này cho thấy đòi hỏi của nhà Minh
ngày một thực dụng, quá quắt do sự yếu thế của một vài triều đại Đại
Việt. Hãn hữu, tờ Bẩm Phúc đại nhân - một sử liệu có tính chất
“đối ngoại” của triều Tây Sơn (văn bản này cũng mang tính chất truyền
thuyết, sử tư gia) đẫ đề cập đến vấn đề này, nhưng hình trạng được miêu
tả cũng có sự khác biệt nhất định với sử liệu Trung Hoa. Hình trạng của
người vàng thời Mạc là “đầu tóc rũ rượi như người tù, mặt mày lấm lem,
mình cúi xuống”(61). Còn người vàng thời Lê Trung hưng được
miêu tả “mặc áo chầu, đội mũ chầu, mặt ngửa lên là hình dạng của vua Lê,
để cầu ơn ở thượng quốc”(62). So với sự mô tả hình trạng người vàng trong sử liệu Trung Hoa, ta thấy có mấy điểm đáng chú ý sau:
-
Tờ bẩm không miêu tả hình trạng người vàng thời Trần và Lê sơ. Điều này
có thể do nguyên nhân khách quan (không có thông tin, tư liệu về hình
trạng người vàng, đặc biệt là người vàng thời Trần); nhưng cũng có thể
có nguyên nhân chủ quan (tư tưởng đề cao thời Trần, không muốn đánh đồng
người vàng thời Lê sơ với thời Mạc: một hình ảnh không lấy gì làm đẹp
qua đó thể hiện ngầm ý phò chính thống và thiện cảm với nhà Lê sơ của
tác giả tờ bẩm). Khả năng bởi nguyên nhân chủ quan là có cơ sở vì lúc
bấy giờ không khó tiếp cận các sử liệu Trung Hoa như Nguyên sử, Minh sử,v.v… để tham khảo và truy xét (mà ở những chỗ khác ta thấy rõ ràng tác giả tờ bẩm hẳn có tham khảo sử liệu Việt - Trung).
-
Tờ bẩm đề cập đến hình trạng người vàng thời Mạc gần giống sử liệu
Trung Quốc mà không hề kiêng hèm, giảm nhẹ. Vì sao? Vì người viết có
thông tin, tư liệu hay chắc chắn còn bởi nhà Mạc vốn bị xem là “nguỵ
triều”, bị mang nhiều tiếng xấu (bán nước, hàng giặc, cắt đất, tự trói
mình,…). Lưu ý rằng người viết tờ bẩm hẳn là cựu thần nhà Lê (kẻ thù
không đội trời chung với nhà Mạc). Tờ bẩm cũng thể hiện ý định kiến quen
thuộc với nhà Mạc khi gọi triều đại này là: “cướp ngôi của họ Lê, là
bầy tôi cướp ngôi vua”, “bọn thoán đoạt”, “nguỵ Mạc”,v.v… Ở đây, người
viết đã coi trọng tính chất chính thống/ phi chính thống nên không coi
nhà Mạc có tư cách chính thống để đại diện cho dân tộc trong giao thiệp
với nhà Minh. Và vì vậy, tác giả không hề nương tay với nhà Mạc khi mô
tả hình trạng người vàng nhà Mạc đem tiến cống (trong khi so về hình
trạng thì hình trạng người vàng thời Mạc cũng không khác mấy người vàng
thời Lê sơ theo ghi chép của sử Trung Hoa).
-
Tờ bẩm miêu tả hình trạng người vàng thời Lê trung hưng gần giống với
hình dạng ban đầu khi nhà Lê Trung hưng dự định mang tiến cống và có
phần trang trọng (mặc áo chầu, đội mũ chầu, mặt ngửa lên), khác với hình
trạng người vàng đã được “hội khám” và thống nhất mang đi tiến cống như
sử liệu Trung Quốc miêu tả (cúi mặt, khắc chữ vào lưng). Điều đó thể
hiện thiện cảm nhất định của tác giả với nhà Lê Trung hưng (dù sao vẫn
là triều đại “chính thống”) và trên hết là ý thức tự tôn dân tộc được
truyền cảm hứng từ chính thực tế hình trạng người vàng lúc ban đầu nhà
Lê Trung hưng dự định mang tiến cống với thâm ý rõ ràng (và nhà Minh vốn
cũng đầy “thâm ý” cũng đã nhận ra) mà không chấp nhận sự hình trạng
người vàng do nhà Minh ép nhà Lê Trung hưng phải làm (người vàng cúi
mặt). Ghi chép này có lẽ sẽ gợi cảm hứng cho Phan Huy Chú tạo nên truyền
thuyết về sứ thần Phùng Khắc Khoan trong những trang viết vừa có tính
sử học vừa có tính văn học của ông (Nhân vật chí 人 物 志 trong Loại chí).
Vậy
là, riêng về mặt hình trạng người vàng, ta thấy trong sử liệu của hai
nước đã diễn ra một cuộc đấu tranh ngầm (và kể cả sự đấu tranh “nội bộ”)
dưới sự chi phối bởi những quan niệm khác nhau: về uy thế đất nước, về
quốc thể, về tính chính thống của các triều đại,… Dù là sự thực (nhiều
khi nghiệt ngã) hay là mong muốn (phần nhiều lí tưởng) thì nó đều phản
ánh đường lối, tư tưởng chính trị của mỗi bên, mỗi phe nhóm.
Chú thích:
(1) “Dân gian” (民間,
folk), nghĩa nguyên gốc là trong dân, quần chúng nhân dân. Từ đó, chúng
tôi hiểu “dân gian” là nhóm người, cộng đồng người nằm bên ngoài, bên
dưới, có khoảng cách nhất định với hệ thống chính quyền trung ương hay
hệ thống cai trị (chính thống). Sự phân biệt này thực ra chỉ là tương
đối.
(2) Nguyên văn: “一, 君 長 親 朝; 二, 子 弟 入 貭; 三, 編 民 數; 四, 出 軍 役; 五, 輸 納 税 賦; 六, 仍 置 達 鲁 花 赤 統 治 之” [Nguyên sử 元 史, Liệt truyện 列 傳, Quyển 209, Ngoại di 2 外 夷 二: An Nam 安 南]. Nguyên sử do nhóm Tống Liêm 宋 濂 (1310 - 1381) soạn. Tân nguyên sử 新 元 史 của Kha Thiệu Mẫn 柯 劭 愍 (thời Thanh mạt) cũng chép tương tự.
(3) Nguyên văn: “若 果 不 能 自 覲, 則 積 金 以 代 其 身, 两 珠 以 代 其 目, 副 以 贒 士, 方 技, 子 女, 工 匠 各 二, 以 代 其 土 民. 不 然, 修 爾 城 池, 以 待 其 審 處 焉” [Nguyên sử, Liệt truyện, Quyển 209, Ngoại di 2: An Nam].
(4) Nguyên sử (Bản kỷ, Quyển 15). Lê Mạnh Thát trong Trần Nhân Tông toàn tập cũng đã đề cập đến tư liệu này [Lê Mạnh Thát (biên soạn), Trần Nhân Tông toàn tập, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000].
(5) Nguyên văn “日 烜 尋 遣 使 来 謝, 進 金 人 代 己 罪” [Nguyên sử, Liệt truyện, Quyển 209, Ngoại di 2: An Nam]. Tân nguyên sử nói
rõ hơn: “日 烜 随 遣 近 侍 官 李 修, 段 可 容 貢 方 物, 且 進 代 身 金 人 贖 罪, 并 歸 所 獲 俘 愁,
悉 黥 其 額 曰: “天 子 兵”, 或 黥 曰: “投 南 朝” 云. 此 至 元 二 十 五 年 之 再 敗 也” (Nhật
Huyên bèn sai quan Cận thị là Lý Tu, Đoàn Khả Dung cống phương vật, lại
tiến người vàng thế thân để chuộc tội; kèm theo đó là thả các tù binh
bắt được về, đều thích vào trán mấy chữ “Thiên tử binh” hoặc “Đầu Nam
triều”. Đây là lần thất bại thứ hai vào năm Chí Nguyên thứ 25 vậy)
[Quyển 151, Ngoại quốc 3 外 國 三: An Nam]. Nguyên sử (An Nam truyện) còn chép: “元兵凡三破国,杀获几十万,然终不可久,而日烜亦进代身金人赎罪,诏止不伐”
(6) Về việc cống người vàng thời Nguyên (và Minh) xin xem: Lưu Minh Thứ 劉 銘 恕 (1948), Nguyên đại An Nam tiến cống đại thân kim nhân 元 代 安 南 進 貢 之 代 身 金 人 (Người vàng thế thân do An Nam tiến cống thời Nguyên), Tập san Nghiên cứu Văn hoá Trung Quốc 中 國 文 化 研 究 汇 刊, quyển 8, Trung Hoa dân quốc, tr.93-98; Trần Văn Nguyên (2006), Nguyên Minh thời kì An Nam cống vật “đại thân kim nhân” khảo thuật 元 明 时 期 安 南 贡 物 “代 身 金 人” 考 述 (Khảo thuật về cống vật ‘người vàng thay thế người thật’ của An Nam thời Nguyên Minh), Tạp chí Khoa học xã hội 社 会 科 学, số 6, Thượng Hải, tr.174-177;v.v…
(7) Xem Liam Kelley, “Lời giới thiệu” cuốn Đi qua cột đồng Mã Viện (Beyond The Bronze Pillars, Honolulu: University of Hawiian Press, 2005, trang 9 - 23), Lê Quỳnh dịch [URL: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=5266&rb=0301].
(8) Điều thú vị nữa là ngay các sách này cũng không chép việc nhà Nguyên yêu sách “6 việc”. Toàn thư (Bản kỷ quyển 5, tờ 30a) không chép việc này [Từ đây trích dẫn Toàn thư đều lấy từ: Ngô Sĩ Liên,… (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội]. Tiền biên (Bản kỷ, quyển 5, tờ 42b) cũng không chép về “lục sự” [Từ đây trích dẫn Tiền biên đều lấy từ: Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm (1997), Đại Việt sử kýtiền biên, Bản dịch của Lê Văn Bẩy, Nguyễn Thị Thảo, Dương Thị The, Phạm Thị Thoa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội]. Phải đến Cương mục (Chính biên, quyển 7, tờ 8a) mới thấy chép về yêu sách “6 việc” [Quốc sử quán triều Nguyễn, Cương mục, Chính biên, quyển 7, tờ 8a]. Từ đây, trích dẫn Cương mục đều từ bản dịch của Viện sử học (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007).
(9) Lê Tắc, An Nam chí lược
(Quyển 15, tờ 140) chép: “Mùa xuân năm Mậu Tý (1288) niên hiệu Chí
Nguyên, Trấn Nam Vương thoái quân về, Thế tử [tức Trần Nhân Tông] sai
quan Cận thị Lý Tu và Đoàn Khả Dung sang cống phương vật tạ tội”. Ghi
chép về tên sứ thần An Nam như vậy là trùng với ghi chép của Tân Nguyên sử (đã
dẫn). Trong các tư liệu bang giao Việt Trung, từ “phương vật” chỉ các
loại thổ sản, nó được dùng độc lập với từ “kim nhân” hoặc “đại thân kim
nhân”. Như vậy, trong “phương vật” không bao hàm “kim nhân”. Cương mục (Chính biên, Quyển 14, tờ 22-23) quan niệm “phương vật” bao hàm cả “kim nhân” là không chuẩn xác.
(10) Nguyên văn: “按 北 史: 初 元 帝 累 遣 使 諭 帝 入 朝, 皆 不 從. 復 使 使 諭 曰: 若 果 不 身 至, 當 具 金 珠 爲 代, 以 賢 士, 工 匠, 方 技 各 二 副 之” [Tiền biên, Bản kỷ, Quyển 5]. Cương mục chép
cụ thể hơn: “Trước đây, nhà Nguyên nhiều lần sai sứ sang dụ nhà vua vào
chầu, nhà vua đều không theo. Sau nhà Nguyên lại sai Thượng thư là
Lương Tăng sang dụ rằng: ‘Nếu thật vua không thân sang chầu được thì
phải đem đủ vàng ngọc sang để thay mình. Lại nộp người hiền tài, người
làm thợ và người phương kỹ, mỗi hạng hai người để phụ bên” (初 元 人 數 遣 使 來
諭 以 入 覲, 帝 不 從. 元 復 遣 尙 書 梁 曾 來 諭 曰: 若 果 不 身 至, 當 具 金 珠 爲 代, 賢 士, 工 匠, 方
士 各二, 以 副 之) [Chính biên, quyển 7, tờ 24-25].
(11) Nguyên văn:
“竊 照: 此 例 自 元 人 伐 陳 之 歲. 陳 君 向 順 求 封, 中 國 令 該 國 王 入 覲. 陳 君 以 疾 辭. 故 飭 備 金
人 爲 國 王 形 狀, 以 代 朝 見, 陳 君 以 其 事 非 古 獲 免” [Bang giao hảo thoại, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: VHv.1831, tờ 23-24.]. Bản dịch trong Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3, Lâm Giang, Nguyễn Công Việt (chủ biên, 2004), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội) hoặc Ngô Thì Nhậm tác phẩm (tập
1, Mai Quốc Liên (chủ biên, 2001), Nxb Văn học - Trung tâm nghiên cứu
Quốc học, Tp Hồ Chí Minh) dịch ngược lại: “Trộm nghĩ lệ ấy, có từ triều
Nguyên đánh nhà Trần, vì vua Trần muốn thuận lợi trong việc cầu phong,
nên Trung Quốc nhân cơ hội đó xuống lệnh sai vua nước ấy vào chầu. Vua
Trần từ chối vì có bệnh, cho nên sức đúc người vàng giống như hình Quốc
vương để triều kiến thay. Vua Trần cho rằng việc ấy có từ xưa, không thể không làm” [Toàn tập, tr.486; Tác phẩm, tr.348].
(12) Nguyên văn: “較 與 越 史 所 載, 互 有 詳 畧” [Khuyết danh, Cổ kim giao thiệp sự nghi thông khảo, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: A.260, tờ 36b]. Sách (tờ 31b) có dẫn Nguyên sử loại biên chép
rõ lời chiếu của Nguyên Thế Tổ như sau: “若 果 不 能 身 至, 則 積 金 以 代 其 身, 两 珠
以 代 其 目, 副 以 贒 士, 方 技, 子 女, 工 匠 各 二, 以 代 其 民. 不 如, 修 爾 城 池, 以 待 天 兵 之
至”; Sách này (tờ 36a) cũng dẫn Nguyên sử loại biên chép, sau
khi Thoát Hoan chạy về nước: “日 烜 随 遣 使 入 謝, 且 進 代 身 金 人 贖 罪, 并 歸 所 獲 俘
愁, 悉 點 其 額 曰: “天 子 兵”, 或 曰: “投 南 朝” 云. 此 至 元 二 十 五 年 之 再 敗 也”. Sách
không ghi tác giả, niên đại, nhưng nó cứu xét cả Toàn thư và Cương mục (kết hợp với tên gọi và cách hành văn của nó) cho thấy vậy nó phải phải được viết từ cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
(13) Chẳng hạn, việc Trần Quốc Toản hi sinh như thế nào, ở đâu, sử Việt không ghi chép được, nhưng sử Trung Hoa (Nguyên sử) có ghi chép khá rõ.
(14) Chẳng hạn, họ đã đính chính việc Sài Thung sang Đại Việt năm 1278 (thay vì 1281) dựa vào việc tham khảo các sách như: Thiên Nam hành kỷ 天 南 行 紀 của Từ Minh Thiện 徐 明 善 (thời Nguyên), Nguyên sử loại biên của Thiệu Viễn Bình 邵 遠 平 (thời Thanh),v.v…
(15) Cả Tiền biên và Cương mục đều có tham khảo và trích dẫn Nguyên sử loại biên. Do đó, các soạn giả 2 công trình này không thể không biết đến chi tiết của yêu sách trên. Cũng có thể, cách diễn đạt của Nguyên sử loại biên không đủ rõ ràng để họ hiểu vàng và ngọc châu ở đây là để nói về “người vàng thế thân”.
(16) Hoa Bằng (1943), Trở lại vấn đề cống người vàng (1): Triều đại nào đã làm việc cống ấy trước, Tạp chí Tri Tân, số 101, 1er-Juillet, tr.20.
(17) Trần Nho Thìn
đã phân tích trường hợp Lê Lợi cống người vàng trong sự đối thoại với
tác giả Trần Văn Nguyên như sau: “Trong một bài viết gần đây về hiện
tượng cống vật “đại thân kim nhân” (lấy người vàng thay thế người thực),
một nhà nghiên cứu Trung Quốc đã tỏ ra không hiểu được sự tinh tế của
đường lối đối ngoại “trong xưng đế ngoài xưng vương” của các triều đại
Việt Nam trong lịch sử. Tác giả Trần Văn Nguyên đã dẫn tư liệu sử học
Trung Quốc (Tuyên Tông thực lục, Tuyên Đức tam niên nhị nguyệt điều), cho
biết năm 1426, Tuyên Đức nguyên niên, Lê Lợi đã chủ động đề nghị làm
biểu trần tình tạ tội, cống vật người vàng , người bạc thay thế người
thật để người Minh bãi binh, sau đó, quân Minh bãi binh rút về nước, Lê
Lợi thực hiện triều cống như đã định ước. Tác giả phản bác Phan Huy Chú
là sử gia Việt Nam thế kỉ XIX, người đã giải thích việc triều cống này
nhằm đền tội việc quân khởi nghĩa của Lê Lợi chém chết Liễu Thăng. Nhưng
tiếc là tác giả này không tham khảo Đại Việt sử kýtoàn thư là
bộ sử viết gần sự kiện chống Minh hơn để thấy sử gia Việt Nam Ngô Sĩ
Liên đã phản ánh đúng sự thực. Hành động cống người vàng của Lê Lợi
không thể được xem là “biểu thị nguyện ý của tập đoàn Lê Lợi đối với
việc cống vật xưng thần, hi vọng triều Minh bãi quân” như tác giả này
viết. Sự thật là quân Minh rút về nước vì đã thất bại trên chiến trường
chứ không vì Lê Lợi dâng cống vật tỏ sự thần phục” [Trần Nho Thìn, Văn học trung đại dưới góc nhìn văn hoá, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.243-244].
(18) Theo Thù vực chu tư lục 殊 域 周 咨 錄, Năm
thứ 4 niên hiệu Vĩnh Lạc (1405), nhà Minh “sai Hành nhân Chu Khuyến
sang dụ cha con Hồ Quý Ly hứa hãy đem vàng đúc thành người thế thân, nộp
cống thì được chuộc tội. [Cha con Quý Ly] không theo” (遣 行 人 朱 勸 往 諭 季 犛
父 子 許 其 以 金 燾 身 納 款 贖 罪, 不 從) [Nghiêm Tòng Giản 嚴 從 簡, Thù Vực chu tư lục, Quyển 5, An Nam]. Theo Minh sử do do nhóm Trương Đình Ngọc 張 廷 玉 (1672 - 1755) biên soạn, đây
là năm nhà Minh cho hộ tống Trần Thiêm Bình về nước làm An Nam quốc
vương. Nhà Hồ đã phản kháng lại, giết chết Thiêm Bình. Nhà Minh tức giận
sai Chu Năng và Trương Phụ đem quân xuống đánh. Quân Minh đến Long Châu
dừng lại, sai Chu Khuyến xuống dụ. Như thế đủ thấy yêu cầu của nhà Minh
là không thành thực và chỉ là một thủ đoạn khiêu khích, thăm dò Đại
Việt.
(19) Nguyên văn: “遣 人 奉 表 陳 情 謝 罪, 貢 代 身 金 人 銀 人 等 物” [Sử thần nhà Minh, Minh thực lục, Quyển 36]. Xem thêm: Hồ Bạch Thảo, Phạm Hoàng Quân (biên dịch, 2010), Minh thực lục: quan hệ Trung Quốc Việt Nam thế kỉ XIV-XVII, tập 2, Nxb Hà Nội.
(20) Minh sử
chép: “[Năm thứ 3 niên hiệu Tuyên Đức - 1428], Bọn Kỳ trở về triều, Lợi
sai sứ dâng biểu tạ ơn, nói dối rằng vào tháng Giêng, con cháu họ Trần
đã tuyệt, người trong nước suy tôn Lợi giữ nước, kính cẩn đợi lệnh. Đế
biết là nói dối, không muốn phong ngay, lại sai Nhữ Kính và Vĩnh Đạt dụ
Lợi và bề tôi, lệnh tìm họ Trần, cho đến quan lại nhân dân quyến thuộc.
Mùa xuân năm sau [1429], bọn Nhữ Kính trở về triều. Lê Lợi vẫn nói hậu
duệ họ Trần không còn một ai nữa, xin truyền mệnh lệnh khác. Nhân đó tiến cống phương vật và tượng người vàng thế thân. Lại
nói rằng: Đứa con gái mới chín tuổi của thần gặp loạn lạc, sau đó biết
tin là nó được Mã Kỳ mang về sung làm tì nữ trong cung. Thần không ngăn
được nỗi nhớ con, đành phải mạo muội mà tâu xin. Hoàng đế trong lòng
biết nếu họ Trần có còn thì Lợi cũng không nói, mà phong Lợi thì không
có danh nghĩa gì, nên lại sai Kì và Nhữ Kính lệnh cho tìm lại. Vả lại
báo cho Lợi biết là con gái đã bị bệnh chết” ([三 年] 琦 等 還 朝, 利 遣 使 奉 表 謝
恩, 詭 言 暠 于 正 月 物 故, 陳 氏 子 孫 絶, 國 人 推 利 守 其 國, 謹 俟 朝 命. 帝 亦 知 其 詐, 不 欲 遽
封, 復 遣 汝 敬, 永 達 諭 利 及 其 下, 令 訪 陳 氏, 并 盡 還 官 吏 人 民 及 其 眷 属. 明 年 春, 汝 敬 等
還, 利 復 言 陳 氏 無 遺 種, 請 别 命. 因 貢 方 物 及 代 身 金 人. 又 言: “臣 九 歲 女 遭 亂 離 散, 後 知
馬 騏 携 歸 充 宫 婢, 臣 不 勝 兒 女 私, 冒 昧 以 請”. 帝 心 知 陳 氏 即 有 後, 利 必 不 言, 然 以 封 利
無 名, 復 命 琦, 汝 敬 敕 諭 再 訪, 且 以 利 女 病 死 告 之” [Liệt truyện, Quyển 321, Ngoại quốc 2: An Nam]. Xem thêm: Nguyễn Văn Nguyên, Tấu biểu đấu tranh ngoại giao của Nguyễn Trãi, Nxb Thế giới, 2003, tr.41. Minh thực lục chép sự kiện này vào ngày 11 tháng 2 năm Tuyên Đức thứ thứ 4 [15/03/1429] [Xem Hồ Bạch Thảo, Phạm Hoàng Quân (biên dịch, 2010), Minh thực lục…, tập 2, Tlđd, tr.208].
(21) Minh thực lục
(Quyển 110) chép: “Quyền Thự An Nam quốc sự là Lê Lợi chết. Con Lợi là
Lân [tức Thái Tông] sai Đầu mục Lê Truyền theo bọn Kì sang báo tang, lại
dâng người vàng và phương vật” (其 權 署 安 南 國 事 黎 利 死, 利子麟 遣 頭 目 黎 傅 隨 琦 等
來 吿 喪 且 獻 金 人 及 方 物) [Xem Hồ Bạch Thảo, Phạm Hoàng Quân (biên dịch,
2010), Minh thực lục…, tập 2, Tlđd, tr.232]. Minh sử
có chép: “Năm Tuyên Đức thứ 8 (1433), Hoàng đế do việc thuế cống của An
Nam không đúng ngạch, sai Từ Kì quay lại An Nam. Lúc bấy giờ, Lê Lợi đã
mất, con Lợi là Lân còn phân vân chưa quyết. Kì lấy hoạ phúc mà giảng,
Lân sợ, đúc người vàng thay mình và cống phương vật để tạ. Hoàng đế vui
mừng…” (八 年, 帝 以 安 南 貢 賦 不 如 額, 南 征 士 卒 未 盡 返, 命 琦 復 往. 時 黎 利 已 死, 其 子 麟
疑 未 决. 琦 曉 以 祸 福, 麟 惧, 鑄 代 身 金 人, 貢 方 物 以 謝. 帝悦…) [Minh sử, Liệt truyện, Quyển 158: Từ Kỳ truyện 徐 琦 傳].
(22) Minh sử (Liệt truyện, Quyển 321, Ngoại quốc 2:
An Nam) ghi việc Mạc Đăng Dung lên biên giới để khám duyệt (người mặc
như tù để chịu tội) vào năm Gia Tĩnh thứ 19 (1540), vậy người vàng hẳn
cũng phải được cống vào năm này. An Nam truyện 安 南 傳 (Quyển 2) của Vương Thế Trinh 王 世 貞 (1526 - 1590), Vạn Lịch dã hoạch biên
萬 曆 野 獲 編 (Quyển 17) của Thẩm Đức Phù 沈 德 符 (1578 - 1642) chép sự việc
diễn ra vào năm Gia Tĩnh thứ 16 (1537). Có lẽ việc cống người vàng là cả
một quá trình, cho nên mỗi sách chép mỗi khác. Tuy nhiên, năm chính
thức tiến cống người vàng phải là năm 1540 (năm cầu phong cho Mạc Phúc
Hải). Minh thực lục chép việc Trịnh Duy Liêu mang biểu của nhà
Lê sang tố cáo Mạc Đăng Dung làm phản, dẫn đến việc nhà Minh bàn định
đánh An Nam (diễn ra từ năm 1537) [Xem Hồ Bạch Thảo, Phạm Hoàng Quân
(biên dịch, 2010), Minh thực lục: quan hệ Trung Quốc Việt Nam thế kỉ XIV-XVII, tập 3, Nxb Hà Nội].
(23) Minh sử (Liệt truyện, Quyển 321, Ngoại quốc 2: An Nam).
(24) Bài thơ như
sau: “Vào chầu vừa gặp buổi thời tuần/ Mới thấy mà như kẻ vẫn thân/ Thuở
trước có đâu chầu Tượng quốc/ Đời xưa đáng bỉ việc kim nhân/ Kẻ xa
không quản bao đường trạm/ Hội tốt từ nay gắng việc nhân/ Nghỉ võ sửa
văn là phải lối/ Nhà Thanh lâu mãi vạn nghìn xuân” (Hoàng Văn Hoè dịch)
(瀛 藩 入 祝 值 辰 巡, 初 見 渾 如 舊 識 親. 伊 古 未 聞 来 象 國, 勝 朝 往 事 鄙 金 人. 九 經 柔 遠 衹 重
驛, 嘉 會 于 今 勉 体 仁. 武 偃 文 修 順 天 道, 大 清 祚 永 萬 千 春) [Đại Thanh thực lục,
Quyển 1357, tờ 17b - 18a] [Nguyễn Trọng Hợp 阮 仲 合, Bùi Ân Niên 裴 殷 年,
Trương Quang Đản 張 光 亶, Đoàn Văn Bình 段 文 評, Hoàng Hữu Xứng 黃 有 稱 (cuối
thế kỉ XIX), Đại Nam chính biên liệt truyện 大 南 正 編 列 傳, R.615, quyển 30, tờ 39b]. Xem thêm: Khuyết danh. Đại Việt quốc thư, Đình Thụ Hoàng Văn Hoè dịch, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1967, tr.325.
(25) Bài thơ viếng
như sau: “Nước ngoài có lễ sai bồi thần đến/ Còn việc triều cận thì xưa
nay chưa từng có ai tự đi/ Nộp cống quý nhất là mang đến cửa ngọc/ Còn
nghi ngờ thì đáng cười việc nộp người vàng thay mình/ Giữa thu hãy còn
nhớ là nhìn thấy mũ mão nghiêm trang/ Dưới gối chân thành như mối quan
hệ cha con/ Thơ bảy chữ không thể tả hết nỗi ai oán/ Thương vì lòng
trung ái xuất phát từ lòng chân thành” (外 邦 例 以 遣 陪 臣, 展 覲 從 無 至 己 身. 納 款
最 嘉 来 玉 闕, 懷 疑 堪 笑 代 金 人. 秋 中 尚 憶見 冠 肅, 膝 下 誠 如 父 子 親. 七 字 不 能 罢 哀 述, 憐
其 忠 悃 出 衷 真) [Ngự chế thi tập 御 製 詩 集, quyển 78, Văn uyên các tứ khố toàn thư 文 淵 閣 四 庫 全 書, trang 169] (Dẫn theo Trần Văn Nguyên (2006), Nguyên Minh thời kì…, Tlđd, tr.176); [Đại Nam chính biên liệt truyện, Quyển 30, tờ 43a].
(26) Toàn thư (Bản
kỷ, Quyển 9, tờ 17a-b chép): “[Tháng 9 năm Tân Mão, 1411] Sai Hành
khiển Hồ Ngạn Thần làm sứ giả cầu phong, Thẩm hình là Bùi Nột Ngôn làm
phó, mang biểu văn, phương vật và hai tượng người bằng vàng và bằng bạc
thay thân mình. Trước đó, vua đã sai hành khiển Nguyễn Nhật Tư và thẩm
hình Lê Ngân sang cầu phong. Vua Minh nổi giận, bắt giam rồi giết cả.
Đến đây lại sai bọn Ngạn Thần đi. Đến Yên Kinh, vua Minh sai Hồ Trừng
giả vờ lấy ân tình cũ hỏi thăm quốc chủ khoẻ hay yếu, tìnhhình trong
nước thế nào, Ngạn Thần nóu hết cả với Trừng. Nột Ngôn thì không chịu
khuất phục. Nhà Minh giả cách cho vua làm Giao Chỉ Bố chính sứ, Ngạn
Thần làm Tri phủ Nghệ An. Sứ về nước, Nột Ngôn tâu hết [17b] việc Ngạn
Thần tiết lộ việc nước và nhận lệnh của giặc. [Vua sai] bắt Ngạn Thần
giam ngục rồi giết”. Xem thêm: Tiền biên (Bản kỷ, Quyển 10, tờ 19a); Xem thêm Cương mục (Chính biên, Quyển 12, tờ 34a-b). Minh thực lục (Thái
Tông, quyển 111, tờ 6a) chỉ chép: “Ngày 26 tháng Chạp năm Vĩnh Lạc thứ 8
[20/1/1411], đầu đảng giặc là Trần Quý Khoáng sai bọn Hồ Ngạn Thần dâng
biểu xin hàng. Thiên tử cho rằng có thể chuyển biến chúng sang con
đường thiện nên chấp thuận, ban chức Bố chính sứ Giao Chỉ,…” [Hồ Bạch
Thảo, Phạm Hoàng Quân (biên dịch, 2010), Minh thực lục: quan hệ Trung Quốc Việt Nam thế kỉ XIV-XVII, tập 1, Nxb Hà Nội, tr.342].
(27) Điểm qua tình
hình lịch sử thời Trần, Lê sơ (và cả về sau) thì thấy chỉ khi nào Đại
Việt thắng lợi (hoặc triều đại phương Bắc cảm thấy bất lợi trong việc
xâm chiếm Đại Việt), thì chúng mới chịu nhận lễ cống người vàng như một
sự “thoả hiệp”, còn không thì khăng khăng đòi vua ta vào chầu để lấy cớ
xâm chiếm nước Nam. Ở đây, dù một vài triều đại Đại Việt có “chủ động”
tiến cống người vàng đi chăng nữa thì nguyên nhân sâu xa vẫn từ sức ép,
“yêu sách” và sự gây khó dễ của các vương triều phương Bắc.
(28) Tháng 12 năm 1426, trong tờ Biểu cầu phong 求 封 表 của Trần Cảo gửi nhà Minh ta chưa thấy có đề xuất tiến cống người vàng [Xem Nguyễn Văn Nguyên, Tấu, biểu đấu tranh…, Tlđd, tr.265-70]. Tuy nhiên, Minh thực lục không chép việc Trần Cảo cầu phong [Hồ Bạch Thảo, Phạm Hoàng Quân (biên dịch, 2010), Minh thực lục…, tập
2, Tlđd]. Có thể suy đoán rằng, biểu này gửi qua quan lại nhà Minh ở
Đại Việt chứ không gửi trực tiếp cho nhà Minh, hẳn quan lại nhà Minh đã
không dâng về mà ỉm đi. Cương mục (Chính biên, Quyển 14, tờ
22-23) cũng chép việc này và cho rằng “nhà Minh không trả lời”. Đến năm
1427, mới có 1 loạt những bức thư gửi tướng tá nhà Minh đề nghị được đúc
người vàng tiến cống, chẳng hạn: bức An Nam quốc Đầu mục Lê Lợi thư phúc Tổng binh quan Vương đại nhân, Thái giám Sơn Mã nhị vị đại nhân liệt vị quân toạ tiền 安
南 國 頭 目 黎 利 書 復 總 兵 官 王 大 人 太 監 山 馬 二 位 大 人 列 位 鈞 座 前 (đầu năm 1427 khi
đang nghị hoà với Vương Thông) có chép: “tôi nay muốn lặn lội vượt
đường xa muôn dặm, đúc người vàng làm người, dâng tờ tâu tạ tội, xưng
thần xin nộp cống…” [Mai Quốc Liên chủ biên, Nguyễn Trãi toàn tập tân biên , tập 1, Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, 2001, tr.739]; bức Dữ Liễu Thăng thư [Theo Minh thực lục, Lê
Lợi gửi thư cho Liễu Thăng vào tháng 10 năm 1427, Thăng không mở ra xem
mà sai người tâu về kinh] có đoạn: “Khoảng tháng 11 năm ngoái [1426],
quan quân đóng giữ thành trì các xứ đều đã mở cổng thành, cởi giáp binh
ra hoà giải với chúng tôi (…) Nay tôi nghe nói Tướng quân đem đại quân
đến sát bờ cõi nước tôi (…) Các ông ví bằng xét rõ sự tình thời thế thì
hãy đóng đại quân lại (…) tôi cũng lập tức cho đúc tượng người vàng, mang tờ biểu và thổ sản địa phương sang tiến cống” [Mai Quốc Liên chủ biên, Nguyễn Trãi toàn tập…, Tlđd, tr.665], bức thư này được chép lược lại trong Minh thực lục nhưng không có chi tiết người vàng; trong bức An Nam quốc thư phụng thiên triều tì tướng liệt vị huy hạ 安 南 國 書 奉 天 朝 裨 将 列 位 麾 下 (chú đề ngày 5 tháng 10 [1527]) lại
chép: “Rồi sẽ đúc người vàng sai người mang đi theo sau dâng biểu nộp
cống, để cho nước nhỏ chúng tôi được trọn lễ thờ nước lớn” [Mai Quốc
Liên chủ biên, Nguyễn Trãi toàn tập…, Tlđd, tr.700]. Như vậy,
cho đến tháng 10/1527, Lê Lợi vẫn chưa đúc người vàng. Đến tháng 11 mới
đúc người vàng và dâng biểu và đưa sang nhà Minh.
(29) Trần Văn Nguyên (2006), Nguyên Minh thời kì…, Tlđd, tr.177.
(30) Bức thư có
viết: “Tháng 11 năm nay, nước tôi cho đúc hai pho tượng người vàng, sắm
đủ đồ sản vật địa phương để tiến cống, sai người về kinh tâu bày. May
được triều đình nghị bàn, lại tuân theo đường lối của Thái Tổ cùng chiếu
thư của Thái Tông Hoàng đế, thì đó là may cho nước Giao Chỉ chúng tôi,
mà cũng là may lớn cho cả thiên hạ” [Mai Quốc Liên chủ biên, Nguyễn Trãi toàn tập…,
Tlđd, tr.681]. Chúng tôi ngờ rằng, bức thư này không phải gửi cho Liễu
Thăng mà gửi cho Vương Thông,… vì mấy lí do: 1) Bức thư viết “tháng 11
năm nay”, “cho đúc hai pho tượng người vàng” vậy bức thư chỉ có thể viết
vào tháng 12 năm 1427 khi sứ đoàn Lê Thiếu Dĩnh đã lên đường sang Yên
Kinh (khi đó Liễu Thăng đã tử trận); 2) Đầu bức thư có viết: “Thư bảo
cho các vị Tổng binh của “Thiên triều” (Thư thị thiên triều Tổng binh liệt vị 書 示 天 朝 總 兵 列 位- có lẽ đây mới đúng là tên gốc của bức thư này); 3) Trong một bức Dữ Liễu Thăng thư khác
(đã dẫn ở trên) có nói “sẽ đúc người vàng”, thì đó mới đích thực là thư
gửi Liễu Thăng. Trần Văn Nguyên dựa vào bức thư “gửi các vị Tổng binh
thiên triều” này để khẳng định rằng Lê Lợi chủ động đề xuất đúc người
vàng vào năm 1426 là chưa chuẩn xác. Sau đó, đến các bức thư gửi Liễu
Thăng, Vương Thông, Trần Trí, Sơn Thọ,v.v… năm 1427 mới thấy việc Lê Lợi
nói đến chuyện “sẽ đúc người vàng”, “lập tức đúc người vàng”,… Minh thực lục chép
việc Vương Thông hoà giải với Lê Lợi vào tháng 05/1427, vậy nếu có ý
tưởng cống người vàng thì nó cũng phải xuất hiện từ thời điểm này trở đi
[Xem Hồ Bạch Thảo, Phạm Hoàng Quân (biên dịch, 2010), Minh thực lục…, tập 2, Tlđd].
(31) Sử nhà Minh không chép việc này có
lẽ muốn qua đó nhấn mạnh việc Lê Lợi “chủ động” dâng cống người vàng;
thực tế cho thấy, việc dâng cống người vàng đều xuất phát từ sự đòi hỏi,
vặn vẹo của các triều đại Trung Hoa (dù trực tiếp hay gián tiếp).
(32) Tiền biên (Bản kỷ, quyển 10) [Bản dịch, Tlđd, tr.561]. Toàn thư, Cương mục không chép chi tiết này. Tuy nhiên, Cương mục , Chính
biên, Quyển 14 có trích một đoạn thư Lê Lợi gửi cho các tướng ở thành
Bắc giang [thành Bắc Giang bị hạ tháng 05/1427], trong đó có câu: “Trước
đây, quan Tổng binh Thành Sơn hầu sau khi thua trận ở Ninh Kiều [tháng
11/1426], sai người đưa thư đến ta ước hẹn hoà giải” [Dụ Bắc giang thành thư]. Xem thêm các bức thư Lê Lợi gửi cho Vương Thông trong Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi [Xem: Nguyễn Văn Nguyên, Tấu, biểu đấu tranh…, Tlđd; Mai Quốc Liên chủ biên, Nguyễn Trãi toàn tập, Tlđd].
(33) Toàn thư
(Bản kỷ, Quyển 10, tờ 45b-46a) chép: “Ngày 29 [tháng 11], sai sứ sang
trình bày với nhà Minh. Trước đó, vua đã lập Trần Cảo. Hồi tháng 8, đã
sai sứ sang cầu phong. Đến đây, lấy Hàn lâm đãi chế Lê Thiếu Dĩnh (người
làng Khả Mộ, nay là Mộ Trạch, huyện Đường An), Chủ thư sứ Lê Cảnh Quang
đều làm Thẩm hình viện sứ. Quốc tử bác [46a] sĩ Lê Đức Huy, Kim ngô vị
tướng quân Đặng Hiếu Lộc làm Thẩm hình viện phó sứ (bốn người này đều là
đầu mục), nội lệnh sử Đặng Lục và Lê Trạc, Vũ vệ tướng quân Đỗ Lãnh và
Trần Nghiễm đều làm An phủ sứ (bốn người này đều là tòng nhân) đem tờ
biểu và phương vật (hai pho tượng người bằng vàng thay cho mình, một
chiếc lư hương bạc, một đôi bình hoa bạc, 300 tấm lụa thổ, 14 đôi ngà
voi, 20 lọ xông hương áo, 2 vạn nén hương, 24 khối trầm hương và tốc
hương) cùng với bọn chỉ huy do Vương Thông sai về, đều lên đường đưa về
[Yên] Kinh”. Xem thêm: Bài Tấu tiến cống tâu trình tạ tội (chép trong Bang giao bị lãm 邦 交 備 覧, Ức Trai di tập 抑 齋 遺 集,…) [Xem Nguyễn Văn Nguyên. Tấu biểu đấu tranh…, Tlđd]; Cương mục (Chính biên, Quyển 14, tờ 22-23); [Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Tổ phiên dịch Viện sử học dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.577]; Mộ Trạch Lê thị phổ 慕 澤 黎 氏 譜 (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm kí hiệu A.658, dị bản của nó là sách Lê thị gia phả sự tích kí 黎 氏 家 譜 事跡 記 được lưu tàng tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu R.2442). Minh thực lục có
trích dẫn tò biểu của Lê Lợi cầu phong cho Trần Cảo, nhưng không nói
đến người vàng. Tờ tâu của Vương Thông dâng lên vua Minh xác nhận việc
Trần Cảo “cống người vàng, người bạc thay thân” [Hồ Bạch Thảo, Phạm
Hoàng Quân (biên dịch, 2010), Minh thực lục…, tập 2, Tlđd, tr.186]
(34) Toàn thư
(Bản kỷ, Quyển 10, tờ 61b) chép: “Ngày 19 [tháng 10, 1428], sứ nhà Minh
là bọn Nhữ Kính về nước. Vua sai bọn Hà Lật sang tạ ơn nhà Minh và nộp
lễ cống, tượng người vàng thế thân, và tâu rằng đã tìm hỏi con cháu họ
Trần nhưng không còn người nào, các quan quân ra thú cũng đã lục tục đưa
về rồi”. Xem thêm: Cương mục (Chính biên, Quyển 15, tờ 12-13).
(35) Toàn thư
(Bản kỷ, Quyển 11, tờ 1b-2a) chép: “Ngày mồng 4 [Tháng 1, năm Giáp Dần -
1434], sai Môn hạ ty hữu thị lang Nguyễn Phú (sau đổi là Nguyễn
Truyền), Hữu hình viện lang trung Phạm Thì Trung cùng đi với sứ Bắc là
bọn Từ Kỳ, Quách tế sang nhà Minh. Trước đó, nhà Minh sai bọn Từ Kỳ đem
thư sang hỏi về những người còn bị ta giam giữ và số vàng phải đem cống,
cho nên vua sa bọn Phú sang để trả lời. Ngày mồng 6, sai bọn Tuyên phủ
sứ Nguyễn Tông Trụ, Trung thư hoàng môn thị lang Thái Quân Thực, kỳ lão
Đái Lương Bật mang tờ biểu và lễ vật địa phương sang nhà Minh cầu
phong”. Xem thêm: Cương mục (Chính biên, Quyển 16, tờ 1a-b). Cương mục không chép về sứ đoàn sang Minh cầu phong. Bài Biểu cầu tập phong, Biểu tạ ơn điếu tế, Biểu tạ ơn tập phong của Lê Thái Tông và Biểu quốc dân tạ ơn tập phong dâng nhà Minh cũng không hề nhắc đến cống phẩm người vàng [Xem Nguyễn Văn Nguyên. Tấu biểu đấu tranh…, Tlđd, tr.297-303; Mai Quốc Liên chủ biên, Nguyễn Trãi toàn tập…, Tlđd].
(36) Nguyên văn “六 年
遣 陳 舜 俞, 阮 可 了, 裴 擒 虎 等 如 明 歲 貢 及 解 金 人 事” (năm [Thuận Thiên] thứ 6,
sai bọn Trần Thuấn Du, Nguyễn Khả Liễu, Bùi Cầm Hổ sang Minh tuế cống và
giải việc người vàng) [Lê Thống (1819). Bang giao lục, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: A.614, tờ 24a]. Bang giao lục (A.691/1)
cũng chép tương tự: “癸 丑 六 年 遣 陳 舜 俞, 阮 可 方, 裴 擒 虎 等 如 明 歲 貢 及 解 金 人 事”
(năm Quý Sửu, [Thuận Thiên] thứ 6, sai bọn Trần Thuấn Du, Nguyễn Khả
Liễu, Bùi Cầm Hổ sang Minh tuế cống và giải việc người vàng). Tuy nhiên
trong các tờ biểu đưa sang nhà Minh của Lê Thái Tông lại không đề cập
đến việc cống người vàng. Toàn thư (Bản kỉ, Quyển 10, tờ 74a)
cũng ghi chép về chuyến đi sứ này nhưng lại chép thành “giải thích về
việc cống vàng hàng năm”: “Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 8, sai bồi thần là
Trần Thuấn Du, Nguyễn Khả Chi, Bùi Cầm Hổ sang nhà Minh tiến cống: Vua
Minh 3 phần, hoàng thái hậu và hoàng thái tử đều 1 phần, đồng thời giải
thích việc cống vàng hàng năm” (夏 四 月 八 日, 遣 陪 臣 陳 舜 俞 阮 可 之 裴 擒 虎 往 明 國
進 貢 御 前 三 分 皇 太 后 皇 太 子 各 一 分 并 觧 歲 金 事). Mặc dù Toàn thư có trước Bang giao lục, nhưng có lẽ một lần nữa có thể Toàn thư lại cố ý xoá mờ dấu vết về việc cống người vàng bằng việc thay đổi văn từ.
(37) Chi tiết “giải việc người vàng” này có lẽ là cớ để sau này tài liệu như Bẩm Phúc đại nhân, Loại chí
khẳng định “đến giữa thời Lê xin bỏ lệ cống người vàng thay bằng đồ
cống khác”,... Lần này chưa giải được lệ cống người vàng, nhưng sau này
việc đó cũng được chấm dứt (ít nhất là sau năm 1434) và củng cố thêm cơ
sở cho nhận định trên của tờ Bẩm Phúc đại nhân và Loại chí.
(38) Toàn thư
(Bản kỷ, Quyển XV, tờ 72a-b) chép: “[Tháng 2, Mậu Tý - 1528] Đăng Dung
sai người sang Yên Kinh báo cho nhà Minh rằng: Con cháu họ Lê không còn
ai thừa tự nữa, dặn lại cho đại thần là họ Mạc tạm coi việc nước, cai
trị dân chúng. Vua Minh không tin, bí mật sai người sang dò thăm tin tức
trong nước, xét hỏi nguyên do, ngầm tìm con cháu họ Lê để lập lên. Họ
Mạc thường trả lời bằng những lời lẽ văn hoa, lại đem nhiều vàng bạc đút
lót. Đến khi sứ giả về, mật tâu là con cháu họ Lê đã hết, không ai nối
ngôi được, đã uỷ thác cho họ Mạc. Người trong nước đều tôn phục và theo
về họ Mạc cả, xin tha tội cho họ. Vua Minh mắng không nghe, Đăng Dung sợ
nhà Minh hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hay châu Quy, Thuận
và hai tượng người bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua
Minh thu nhận. Từ đấy Nam Bắc lại thông sứ đi lại”. Truyện Mạc Đăng Dung
của Lê Quý Đôn chép: “[Tháng 2, Mậu Tý - 1528] Đăng Dung do cướp ngôi
mà được nước, cho nên sợ nhà Minh hỏi tội, bèn sai sứ thần sang Yên Kinh
dâng biểu nói: Con cháu họ Lê không còn ai thừa tự, cho nên di chúc cho
đại thần họ Mạc tạm quản việc nước, để yên nhân dân. Người Minh biết đó
là giả dối, không tin, bèn mật sai người sang thăm dò tin tức, gạn hỏi
căn do. Đăng Dung cùng bọn bầy tôi thường bày đặt lời lẽ để đối đáp, lại
dùng vàng bạc đút lót những viên tướng nhà Minh giữ biên thuỳ, để nhờ
họ che chở” [Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, trong Lê Quý Đôn toàn tập, Ngô Thế Long dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.267]. Cương mục không chép sự kiện này. Như vậy, trừ Toàn thư, các sử liệu sau đều không thừa nhận việc Mạc Đăng Dung cống người vàng vào năm 1528 mà thay vào đó nghi ngờ ghi chép của Toàn thư.
Điều này là có lí bởi nhà Minh không dễ dàng nhận ngay người vàng của
họ Mạc (cũng như sau này đối với nhà Lê Trung hưng). Đối chiếu với các
tư liệu khác, ta sẽ thấy ghi chép này chưa chuẩn xác. Nhiều nhà nghiên
cứu lịch sử như Trần Quốc Vượng, Đinh Khắc Thuân,… cũng đã đặt vấn đề
nghi ngờ ghi chép này. Chi tiết cống người vàng ở đây được đem ra để
công kích triều đại đối nghịch. Ở thời hiện đại, có tác giả người họ Mạc
viết tiểu thuyết Mạc Đăng Dung lại hư cấu ra việc: nhà Mạc
không chịu tiến cống người vàng, còn nhà Lê Trung hưng thì nhanh nhảu
tiến cống, thậm chí còn hứa tiến cống người vàng có kích thước lớn hơn!
[Xem: http://mactoc.com/newsdetail/211/tieu-thuyet-mac-ang-dung.aspx]. Rõ ràng, chi tiết cống người vàng được 2 bên đem ra để “bôi nhọ” lẫn nhau!
(39) Bang giao chí của Phan Huy Chú dẫn
bài biểu của Mạc Đăng Dung gửi nhà Minh (sứ đoàn do Mạc Văn Minh dẫn
đầu cùng với Hứa Tam Tỉnh,… sang Minh xin cầu phong cho Mạc Phúc Hải
chép: “Năm Gia Tĩnh thứ 17 [1538], cha con thần đã sai bọn Nguyễn Văn
Thái dâng biểu xin hàng và xin xét x, thực do tấm lòng trung thành,
không dám man trá (…) ngày mồng 3 tháng 11 năm Gia Tĩnh thứ 19 [1540],
thần đem bọn tiểu mục Nguyễn Thạch Quế, Nguyễn Thế Khanh, bọn kì lão Lê
Thuyên, Nguyễn Tổng và bọn sĩ nhân Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi
Chí Vĩnh, kính đợi ở cửa Nam Quan, tự trói mà ra ngoài cõi, đến doanh
đại tướng, cúi đầu tỏ lòng trung thành để xin hàng (…) Thần lại muốn
chiếu theo việc cũ của triều trước, đúc người vàng thế thân, muốn dâng
lên ngay, lại sợ đường đột” [Phan Huy Chú (2007), Lịch triều…, tập 2, Tlđd, tr.556-557] [Hồ Bạch Thảo, Phạm Hoàng Quân (biên dịch, 2010), Minh thực lục…, tập 2, Tlđd, tr.216 cũng dẫn bài biểu này]. Toàn thư (Bản kỷ, Quyển 16, tờ 3a-b), chép sự kiện năm 1540, Mạc Đăng Dung lên Nam Quan “chịu tội”. Cương mục (Chính
biên, quyển 27, tờ 32-33) cũng chép tương tự. Đối chiếu với sử nhà Minh
thì thời gian Mạc Đăng Dung sang cống người vàng đúng là cuối năm 1540
để cầu phong cho Mạc Phúc Hải (năm 1542, đúng 3 năm sau, có đoàn tuế
cống sang Minh, nhưng không còn cống người vàng nữa. Vậy là theo định lệ
thời Lê, nhà Mạc 3 năm 1 lần tuế cống).
(40) Về việc này, Cương mục (Chính biên, Quyển 27, tờ 34) cho rằng: “Từ
năm Gia Tĩnh thứ 7 (1428) đến năm thứ 17 (1538), trải hàng 10 năm chưa
từng có sứ đi lại thông hiếu, thế mà sử cũ, ở năm Gia Tĩnh thứ 7 đã vội
chép rằng: Đăng Dung tính chuyện cắt đất,…”.
(41) Chẳng hạn, Bang giao chí chép:
“Trang Tông năm Nguyên Hòa thứ 10 (1542), Mạc Đăng Dung đã được phong
[1540], sai bọn Nguyễn Chiêu Huấn, Vũ Tuân và Tạ Đình Quang đem sản vật
sang tiến cống nhà Minh: lư hương và bình hoa bằng vàng 4 bộ (nặng 100
lạng), rùa vàng một con (nặng 90 lạng), hạc bạc 2 bộ (nặng 150 lạng),
mâm bạc (nặng 50 lạng), bình hoa và lư hương bằng bạc 2 bộ (nặng 150
lạng), mâm bạc 12 chiếc (nặng 641 lạng), trầm hương (60 cân), tốc hương
148 cân” [Phan Huy Chú (2007), Lịch triều…, Tlđd, tập 2,
tr.603]. Các sử gia đời sau đều nhận xét là lễ cống của nhà Mạc rất hậu
theo sách lược “đút lót” nhà Minh để tránh phải đối đầu quân sự.
(42) Toàn thư (Bản
kỷ, Quyển XVII, tờ 56a-b) chép: “Ngày mồng 5 [tháng 2, Bính Thân 1596]
vua đích thân đốc suất bọn Hữu tướng Hoàng Đình Ái, Thái uý Nguyễn
Hoàng, Nguyễn Hữu Liêu, Thái phó Trịnh Đỗ và các tướng sĩ, binh tướng
gồm hơn 1 vạn đến cửa Trấn Nam Giao hẹn ngày hội khám. Bấy giờ nhà Minh
dây dưa thoái thác, đòi lấy người vàng, ấn vàng theo lệ cũ, không chịu
đến khám, thành ra quá kỳ hạn”. Xem thêm Cương mục, quyển 30, tờ 15. Bang giao lục của Lê Thống cũng chép tờ dụ của vua Minh đòi An Nam cống phương vật và người vàng giống như đã yêu cầu với nhà Mạc.
(43) Toàn thư (Bản
kỷ, Quyển XVII, tờ 57b) chép: “Tháng 8 nhuận [Bính Thân, 1596], ngày
mồng 1, nhật thực. Bấy giờ sai thợ đúc 2 tượng người vàng và bạc, đều
cao 1 thước 2 tấc, nặng 10 cân, lại đúc 2 đôi bình hoa bạc, 5 chiếc bình
hương nhỏ bằng bạc, lại sắm sẵn lụa thổ quyến và các vật cống để phòng
sang sứ phương bắc; “Tháng 12 (Bính Thân, 1596)…, sai bọn Hộ bộ thượng
thư kiêm Đông các học sĩ Thông quận công Đỗ Uông làm quan hầu mệnh, cùng
với Quảng quận công Trịnh Vĩnh Lộc mang hai người vàng người bạc và các
vật cống tới thành Lạng Sơn để đợi nhà Minh hội khám. Bấy giờ viên thổ
quan Long Châu của nhà Minh nhận nhiều của đút lót của bọn họ Mạc, vì
thế vào bè với chúng mà thoái thác, nên việc không xong, lại vừa gặp tết
Nguyên đán, bọn Đỗ Uông, Vĩnh Lộc lại trở về Kinh [Toàn thư, Bản kỷ, quyển XVII, tờ 58a-b]. Xem thêm Cương mục (Quyển 30, tờ 18b-19a).
(44) Toàn thư
(Bản kỉ, Quyển XVII, tờ 58a-b) chép: “Tháng này [tức tháng 4 năm Đinh
Dậu - 1597 - NTT], nhà Minh lại sai viên quan uỷ nhiệm là Vương Kiến Lập
tới nước ta đòi lễ cống và giục hội khám. Điệp văn tới Kinh sư, triều
đình nghị bàn việc khởi hành. Ngày 28, vua đích thân đốc suất bọn Hữu
tướng Hoàng Đình Ái, Thái uý Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hữu Liêu, Thái phó
Trịnh Đỗ cùng 7, 8 viên tả hữu đô đốc và 5 vạn binh tướng, đem theo cả
viên quan uỷ nhiệm của nhà Minh Vương Kiến Lập cùng đi, lên cửa Trấn Nam
Quan ở Lạng Sơn. Tháng 4, ngày mồng 10, vua chỉnh đốn binh tượng, qua
cửa Trấn Nam Quan, cùng với quan nhà Minh là bọn Tả giang tuần đạo, Án
sát phó sứ Trần Đôn Lâm và quan các phủ Tư Minh, Thái Bình, các châu
Long Châu, Bằng Tường tỉnh Quảng Tây cử hành hội khám. Trong lễ giao
tiếp, hai bên đều vui vẻ mừng nhau. Từ đấy, hai nước Nam Bắc lại trao
đổi với nhau”. Xem thêm Cương mục (Chính biên, Quyển 30, tờ 18-19). Minh sử cũng chép sự kiện này. Bang giao lục có
chép 1 tư liệu (tờ tấu, không có tên) do một quan lại nhà Minh là Hoàng
Kỷ Hiền 黄 紀 賢 soạn, ghi lại rõ quá trình hội khám diễn ra vào ngày 20
tháng 4 ở trấn Nam Quan. Tuy tờ tấu không đi sâu vào chi tiết người vàng
nhưng cũng cho biết: ngày mùng 3 tháng tư bề tôi của vua Lê mang người
vàng và phương vật đến để khám nghiệm trước, rồi chỉ bảo cho nghi lễ để
về diễn tập trước; ngày mùng 10 cùng tháng vua Lê bắt đầu sang đài Chiêu
Đức để hội khám [xem Bang giao lục, tờ 165 - 190]. Mấy lần
quan lại nhà Minh không đến “hội khám” hẳn vì hai bên còn nhiều bất
đồng, trong đó có thể có sự bất đồng về hình trạng người vàng.
(45) Toàn thư (Bản
kỷ, Quyển XVII, tờ 70a-b) chép: “[1597] sứ thần là bọn Phùng Khắc Khoan
mang vật cống cùng người vàng thay thân mình, trầm hương, ngà voi đến
Yên Kinh, dâng biểu xin theo lễ cống. Vua Minh xem biểu rất mừng, lại
xuống chiếu phong vua làm An Nam đô thống sứ ty đô thống sứ, quản hạt
đất đai nhân dân nước Nam, và ban cho một quả ấn An Nam đô thống sứ ty
bằng bạc, sai bọn Phùng Khắc Khoan mang sắc thư về nước”. Xem thêm Cương mục, quyển
30, tờ 18b-19a. Biểu của nhà Lê trung hưng dâng nhà Minh có đoạn: “…Nay
xin tiến người vàng thay mình để chuộc tội trước…” [Phan Huy Chú
(2007), Lịch triều…, tập 2, Tlđd, tr.562]. Bang giao lục, Tlđd,
trang 218-219 cũng chép tờ biểu nhà Lê gửi nhà Minh nói rõ: “sai bọn kì
mục Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Nhân Thiệm dâng tấu cùng phương vật, kèm
dâng người vàng để xin được biểu hiện lòng trung thành” hoặc “cung tiến
người vàng thế thân để xin chuộc tội” (tr.221). Bang giao lục
bản A.691/1 (trang 50) chép tờ biểu của Lê Duy Đàm có kê rõ các cống
phẩm như sau: 2 bản tấu (1 bản của toàn quốc, 1 bản của kì mục); 1 người
vàng thế thân, cùng phương vật (1 lò hương bạc, 1 đôi bình hương bạc,
100 xấp lụa địa phương; 14 đôi ngà voi; 1 vạn thẻ hắc tuyến hương, 24
hộp hương xông áo; 28 cân bạc liền; 150 cân trầm tốc hương; kì mục là
Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Nhân Thiệm,…
(46) Sử liệu nhà
Thanh không chép việc đòi cống người vàng. Rất có thể đây là việc làm
“tự sáng tạo” của Phúc Khang An để giả bộ gây khó dễ với Tây Sơn, vì
trong các sắc dụ của Càn Long gửi Phúc Khang An khi Nguyễn Huệ mới xin
“tạ tội”, “đầu hàng đều có lời dặn dò Phúc Khang An phải làm thế nào để
Nguyễn Huệ phải sợ phục, khẩn nài nhiều lần thì mới chấp nhận (mặc dù
trong bụng Càn Long đã muốn dàn hoà lắm rồi). Trong những chỉ dụ của Càn
Long không thấy nói đến việc đòi cống người vàng. Một trong những yêu
sách của nhà Thanh là đòi Nguyễn Huệ vào “chiêm cận” Hoàng đế. Sử liệu
nhà Thanh cũng cho biết ngay khi mới thông hiếu Nguyễn Huệ đã cho Nguyễn
Quang Hiển đi chiêm cận thay mình đồng thời hứa hẹn đến Bát tuần đại
khánh của Càn Long sẽ trực tiếp sang chiêm cận. Việc này làm Càn Long
khá hài lòng nên đã nhanh chóng sắc phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc
vương [Xem Hồ Bạch Thảo (biên dịch, 2007), Thanh thực lục: Sử liệu chiến tranh Thanh - Tây Sơn, Nxb Hà Nội]. Điều này cũng giải thích vì sao sự việc này chỉ xuất hiện trong đúng 1 tờ Bẩm Phúc đại nhân. Thực
sự, nhà Thanh nói chung và Phúc Khang An nói riêng đều không muốn “già
néo đứt dây” trong việc này. Hai bài thơ của Càn Long làm nói về người
vàng cũng cho thấy, ông ta không dính dáng gì đến việc đòi cống người
vàng.
(47) Nhiều tư liệu đều nói Quang Trung sang triều cận là Quốc vương giả do Phạm Công Trị đóng vai [Hoàng Lê nhất thống chí 皇 黎 一 統 志, Đại Nam chính biên liệt truyện, A Voyage To Cochichina]. Riêng Nguyễn Duy Chính trong bài Bão kiến hay bão tất: biên khảo về thời đại Quang Trung lại
cho rằng có thể đây là Quốc vương thật (Phạm Công Trị cũng có mặt trong
chuyến đi này bên cạnh Quốc vương - đây là phát hiện của Hoàng Văn Hoè
trong khi dịch tập Đại Việt quốc thư). Tuy nhiên, theo Nguyễn
Duy Chính, giả hay thật chỉ là vấn đề chiến thuật giữ mình, còn về danh
nghĩa đó vẫn là Quốc vương của An Nam đương thời [URL:
gio-o.com/nguyenduychinh.html; http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n2n1n4nnn31n343tq83a3q3m3237nvn].
(48) Đó là cách
nhìn của nhà Thanh và những thế lực có thiên kiến với nhà Tây Sơn (chẳng
hạn, nhà Nguyễn). Còn ý nghĩa, tính chất của chuyến “nhập cận” này như
thế nào, hiện có nhiều ý kiến tranh luận khác nhau mà trong khuôn khổ
bài viết này chúng tôi không có điều kiện bàn luận. Có thểm xem các công
trình nghiên cứu về thời Tây Sơn của các học giả trong và ngoài nước,
như: Hoa Bằng, Nguyễn Lương Bích, Phan Huy Lê, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn
Duy Chính, Đỗ Bang,v.v…
(49) Nguyên văn: “安
南 在 元 明 時, 如 陳 日 煊, 莫 登 庸, 黎 維 潭, 俱 以 懷 疑, 不 敢 身 入 覲, 皆 進 代 身 金 人. 蓋 中 朝
威 信 既 不 能 服 其 心, 徒 貽 黷 貨 之 譏, 最 堪 鄙 笑. 若 阮 光 平, 身 至 山 莊 瞻 覲, 爱 戴 之 情, 不
啻 家 人 父 子, 爲 史 牒 所 未 有, 朕 之 禮 遇, 亦 不 忍 不 加 優 異 耳” [Ngự chế thi tập, tập 5, quyển 78, Tlđd, trang 169] (Dẫn theo Trần Văn Nguyên (2006), Nguyên Minh thời kì…, Tlđd, tr.176).
(50) Nguyên văn “蒙 教 示: 向 例 歷 代 遷 革 之 初, 須 有 金 人 代 謝” [Bang giao hảo thoại, VHv.1831, tờ 23].
(51)Trần Văn Nguyên (2006), Nguyên Minh thời kì…, Tlđd, tr.177.
(52) Bang giao chí chép: “Xét: Lệ cống người vàng triều trước đã thay đổi bằng thứ khác, đến đây nhà Minh lại yêu sách” [Phan Huy Chú (2007), Lịch triều…, tập 2, Tlđd, tr.602].
(53) Vạn Lịch dã hoạch biên, Quyển
17 của Thẩm Đức Phù chép rằng: “thời Nguyên [An Nam] dâng người vàng,
lấy vàng ròng làm toàn thân, lấy ngọc châu lớn làm 2 mắt” (元 時 獻 代 身 金
人, 以 精 金 爲 全 軀, 以 大 珠 为 两 目).
(54) Nguyên văn: “囚 首 面 縛” [Minh sử, Quyển 321, Ngoại quốc truyện: An Nam]. Theo giải thích của trang Hán điển (zdict.net)
thì “囚 首 面 縛” có nghĩa là: “头 不 梳 如 囚 犯”; “反 绑 着 手 面 向 胜 利 者 (…) 表 示 不 再
抵 抗, 自 请 受 刑. 这 是 古 代 君 主 战 败 投 降 的 仪 式” (đầu không chải như người tù,
tay trói ngược về phía sau, hướng đến kẻ thắng, biểu thị ý không phản
kháng nữa, tự xin được nhận hình phạt, đây là nghi thức đầu hàng của kẻ
chiến bại dưới thời quân chủ).
(55) Nguyên văn: “囚 服 面 縛” [Minh triều tiểu sử, Quyển 14, “Vạn Lịch kỉ” 萬 暦 紀].
(56) Nguyên văn: “囚 首 跪 縛 綁 獻 之 狀” [Dương Dần Thu, Lâm Cao văn tập, quyển 4, Tlđd].
(57) Nguyên văn: “囚 首 徒 跣, 匍 匐 叩 頭 壇 上, 進 降 表” [Minh sử, Quyển 321, Ngoại quốc 2, An Nam]. Bang giao lục (A.691/1,
trang 194-195) của Lê Thống chép một bài tấu của quan lại nhà Minh dâng
lên vua Minh cũng miêu tả diện mạo vua Lê lên biên giới hội khám như
sau: “面 縛 徒 跣, 匍 匐 龍 幄 請 死” (trói quặt tay, đi chân đất, bò trên nhà
rồng xin được chết).
(58) Minh sử chép:
“Năm thứ 25, sai sứ hỏi kì hẹn, Dần Thu báo rằng tháng Tư. Đến hẹn, Duy
Đàm đến ngoài cửa quan, người dịch hỏi về “sáu việc”. Đầu tiên là việc
tự ý giết Mậu Hợp. Đáp: “Vì việc phục thù gấp gáp, không kịp xin mệnh”.
Lại hỏi đến chi phái của Duy Đàm, đáp: “là cháu họ Lê, tổ là Huy, từng
thiên triều ban sắc mệnh”. Lại hỏi đến Trịnh Tùng, đáp: “Đó là bề tôi
nhiều đời của họ Lê, không phải kẻ làm loạn nhà Lê”. [Hỏi:] “Nếu đúng
vậy thì cớ gì lại lẩn trốn?” Đáp: “Vì nghi thức không cấm đoán, chứ
không dám trốn”. Hỏi: “Vì sao lại dùng ấn chương của vương hầu”. Đáp:
“Vì quyền nghi mà phỏng theo, tạo nên rồi quen đi vậy”. Dụ bảo rằng:
“Hãy cắt đất Cao Bằng cho họ Mạc, để nó còn duy trì không tuyệt”. Lại dụ
rằng: “Đều là cống thần cả. Ngày xưa họ Lê có thể ở sông Tất Mã, họ Mạc
không ở riêng Cao Bằng được sao?” Bèn theo mệnh. Trao cho nghi tiết nạp
khoản ở cửa quan, sai tập cho quen đi. Duy Đàm đốc suất bề dưới nhập
cửa quan bái yết ở nhà ngự, theo nghi lễ cũ như Đăng Dung. [Người dịch]
lui về báo cáo Dần Thu, xin dùng lễ chủ khách, không theo, bèn vái bốn
vái rồi lui ra. An Nam đã định, xuống chiếu nhận cho Duy Đàm làm Đô
thống sứ, ban lịch vào dâng cống, y như chuyện cũ của họ Mạc vậy. Ban
đầu, Lê Lợi và Mạc Đăng Dung dâng người vàng thế thân, đều là đầu tóc
như tù, tay trói quặt về sau. Duy Đàm cho rằng khôi phục chính thống,
đúc tượng người vàng tự do, mặt nghiêm trang. Việc này sợ rằng có sự
ngông ngạo, ra lệnh sửa đổi, bèn làm thành hình cúi đấu, khắc vào lưng
rằng: “Cháu họ Lê nước An Nam thần Lê Duy Đàm không được bò cúi ở cửa
trời, cung kính dâng người vàng thế thân, hối lỗi xin ban ơn”. Từ đó, An
Nam lại thuộc về nhà Lê, mà họ Mạc chỉ giữ được một quận Cao Bằng” (Tạm
dịch) (二 十 五 年, 遣 使 請 期, 寅 秋 示 以 四 月. 郕 期, 維 潭 至 關 外, 譯 者 詰 以 六 事. 首 擅 殺
茂 洽, 曰: “復 仇 急,不 遑 請 命 ”. 次 維 潭 宗 派, 曰: “世 孫 也, 祖 暉, 天 朝 曾 錫 命”. 次 鄭 松,
曰: “此 黎 氏 世 臣, 非 亂 黎 氏 也”. 然 則 何 宵 遁, 曰: “以 儀 物 之 不 戒, 非 遁 也”. 何 以 用 王
章, 曰: “權 仿 爲 之, 立 銷 矣”. 惟 割 高 平 居 莫 氏, 猶 相 持 不 絕. 復 諭 之 曰: “均 貢 臣 也, 黎 昔
可 栖 漆 馬 江, 莫 獨 不 可 栖 高 平 乎?” 乃 聴 命. 授 以 款 關 儀 節, 俾 習 之. 維 潭 率 其 下 入 關 謁
御 幄, 一 如 登 庸 舊 儀 . 退 謁 寅 秋, 請 用 賓 主 禮, 不 從, 四 拜 成 禮 而 退. 安 南 復 定. 詔 授 維
潭 都 統 使, 頒 暦 奉 貢. 一 如 莫 氏 故 事. 先 是, 黎 利 及 登 庸 進 代 身 金 人, 皆 囚 首 面 縳, 維 潭
以 恢 復 名 正, 獨 立 而 肅 容. 當 事 嫌 其 倨, 令 改 制, 乃 爲 俯 伏 状, 鐫 其 背 曰: “安 南 黎 氏 世
孫, 臣 黎 維 潭 不 得 匍 伏 天 門, 恭 進 代 身 金 人, 悔 罪 乞 恩”. 自是, 安 南 復 爲 黎 氏 有, 而 莫 氏 但
保 高 平 一 郡) [Minh sử, Quyển 321, Ngoại quốc truyện: An
Nam]. Dương Dần Thu (khoảng trước sau năm 1590): tự Nghĩa Thúc, hiệu
Lâm Cao, đỗ Tiến sĩ năm Vạn Lịch thứ 2 (1574), làm quan trải các chức
Quảng Tây Án sát sứ ti Phó sứ, Tả Giang binh bị đạo, Tả giám quân,… Tác
phẩm có Lâm Cao văn tập 4 quyển, nay vẫn còn. Bang giao chí
của Phan Huy Chú có chép: “Năm thứ 18 [1595] (ngang với năm Vạn Lịch
thứ 23 nhà Minh), vua đã diệt được họ Mạc, sai Lê Tảo Dụng theo đường
Yên Quảng đến Lưỡng Quảng, Tuần phủ Lưỡng Quảng là Đái Diệu xin [vua nhà
Minh] sai quan khám xét, lại gửi thư cho viên Binh tuần đạo Tả Giang là
Dương Dần Thu yêu cầu vua [Lê] ra cửa quan để khám” [Phan Huy Chú
(2007), Lịch triều…, tập 2, Tlđd, tr.602]. Xét chức tước, vai
trò của Dương Dần Thu trong lần “hội khám” này, nhiều khả năng Dương Dần
Thu chính là nhân vật Trần Đôn Lâm mà sử Việt chép.
(59) Nguyên văn “俯 伏 乞 恩 状” [Dương Dần Thu, Lâm Cao văn tập, quyển 4, Tlđd].
(60) Toàn thư (Bản kỷ, quyển XVII, tờ 57b). Phan Huy Chú (2007), Lịch triều…, tập
2, Tlđd, tr.604. Theo cách tính khối lượng, kích thước hiện nay: tượng
người vàng, người bạc thời Lê sơ nặng khoảng 3,78 kg tượng người vàng,
người bạc thời Lê Trung hưng cao khoảng 48cm và nặng khoảng 6,05 kg.
(61) Nguyên văn: “囚 首 喪 面, 其 容 俯” [Bang giao hảo thoại, VHv.1831, tờ 24]. Theo giải thích của trang Hán điển (zdict.net) thì “囚 首 喪 面” có nghĩa là: “头 不 梳 如 囚 犯, 脸 不 洗 如 居 丧” (đầu không chải như người tù, má không rửa như đang cư tang).
(62) Nguyên văn: “朝 衣 朝 冠, 其 容 仰, 爲 黎 君 之 形, 以 求 恩 上 國” [Bang giao hảo thoại, VHv.1831, tờ 24].
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)