Kim Âu
Máu và tính mạng của những người lính Mỹ tham chiến ở
Việt Nam chúng còn không tiếc. Hà cớ gì chúng thương vay, khóc mướn cho
dân Việt Nam?!!
Kim Âu
40 năm đã trôi qua, hồi tưởng lại những ngày tháng xa xăm trong quá khứ
tràn đầy hy vọng và tuyệt vọng lẫn lộn. Từ buổi sáng ôm mớ hành trang tù
nhếch nhác ra xe, rời trại Tân Lập chuyển về Bình Đà, Hà Tây qua
Phủ Lý, Chin nê, Ba Sao, Kim Bảng, Nam Hà rồi những ngày bị đưa đi “cách ly”, nằm trong cấm phòng
biệt giam ngăn cách hoàn toàn với những người tù của miền Nam VNCH đang
ngóng đợi lọt vào danh sách trao đổi, trao trả theo như các bên ký kết
trong
“Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
27/1/1973”.
Thoáng đó mà đã 40 năm, nay nhớ lại những cảm giác, ấn tượng đầu tiên
của chúng tôi khi được đọc những điều khoản của hiệp định trên báo Việt
Cộng vẫn không có gì thay đổi về cơ bản. Xét về nội dung
“Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
27/1/1973” là một bản hiệp định đình chiến tồi tệ nhất trong lịch sử
nhân loại mà một bên tham gia thương thảo bị cả ba phía còn lại dồn ép
ký vào một bản văn tự sát.
Thời gian đó, sau những đợt học tập để trao đổi, trao trả đã được bọn
Công An Việt Cộng tổ chức từ cuối thu 1972. Những tiêu chuẩn sống cơ bản
của chúng tôi được nâng lên nhằm cho những người tù binh có cơ hội sống
còn, hồi phục sức khỏe để giữ thể diện cho Việt cộng một khi bị buộc
phải giải quyết vấn đề tù binh theo hiệp định sẽ ký kết.
Nằm trong bốn vòng tường vây của nhà tù cộng sản, trước những hiện tượng
thay đổi các chế độ giam giữ; chúng tôi vẫn lờ mờ thấy đây chỉ là những
mưu mô dự phòng của bọn Việt Cộng nhằm cho chúng tôi yên tâm chờ đợi
ngày về, tránh tình trạng tù binh nổi loạn vì tuyệt vọng.
Vào
những
ngày cuối năm dương lịch 1972, còn ở trại sơ tán vùng Tân Lập, Vĩnh Phú,
chúng tôi đã nghe tiếng phi cơ B52 ầm ỳ bay qua bầu trời suốt mười mấy
ngày đêm, những tưởng rằng đại quân Việt Nam Cộng Hòa bắc tiến. Nhưng
sau đó đài Tiếng Nói Việt Nam phát qua loa phóng thanh và tin tức từ
những tờ báo cho chúng tôi biết, Không Quân Chiến Lược Hoa Kỳ đã dùng
B52 oanh tạc Hà Nội. Phố cô đầu Khâm Thiên là nơi bị tổn hại nặng nề
nhất, báo chí ra sức tố cáo tội ác của bọn “Hung nô thời đại” là đế quốc
Mỹ và kêu gọi nhân dân Việt Nam ghi tâm, khắc cốt mối thù này nhưng vài
ngày sau; luận điệu sắt máu, hoảng hốt, căm thù được thay bằng những
lời lẽ rất là ngoại giao khi tại Paris, hiệp định đình chiến đã được
bối thư, chờ ký chính thức. Cái tên Henry Kissinger được nhắc đến kèm
theo học vị Tiến Sĩ một cách trang trọng trên mặt báo Nhân Dân, Quân Đội
Nhân Dân, loa đài và lần đầu tiên sau khi ký kết
“Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
27/1/1973”, ông ta, Tiến sĩ Henry Kissinger ghé qua Hà Nội và
chuyến đi này được “bonus” bằng một nhóm vài mươi phi công Mỹ bệnh gần
chết được cho về sớm trước khi tiến hành trao đổi, trao trả chính thức.
Hơn tuần sau, chúng tôi từ trại Tân Lập xuôi xuống Bình Đà, Khúc Thủy,
Hà Tây rồi sau đó chuyển vào trại Ba Sao, Kim Bảng, Nam hà.Tại đây khi
được đọc một số văn bản của
“Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
27-1-1973”, chúng tôi vẫn linh cảm không có ngày về dù
điều 8a của
hiệp định có đề cập đến việc trao đổi, trao trả những tù binh và nhân
viên dân sự của các bên bị bắt trong thời kỳ tiền hiệp định.
Chúng tôi cũng đã nhận thấy bản hiệp định sẽ bị phá vỡ vì hơn 150,000
quân BắcViệt vẫn nằm lại trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa để chuẩn bị xé
hiệp định, thôn tính miền Nam bằng sức mạnh quân sự, khi các lực lượng
Hoa Kỳ và đồng minh hoàn toàn rút khỏi miền Nam Việt Nam, không giống
như cuộc đình chiến Bàn Môn Điếm ở Cao Ly.
Thực tế cho thấy những chữ ký trong bản hiệp định chưa ráo mực,
súng đã lại nổ vang. Miền Nam đã nảy sinh nhóm chữ “đình chiến da beo”,
“cắm cờ giữ đất, giành dân”. Các phía tham gia hiệp định đều tố cáo đối
phương vi phạm hiệp định và những cuộc tranh cãi giữa các Ủy ban bốn
bên, Uỷ ban Quốc tề tràn đầy mặt báo. Khi chúng tôi đang hưởng chút
thoải mái trong nhà tù Ba Sao, ở miền Nam thân yêu, những người lính Việt Nam Cộng Hòa
tiếp tục đổ máu và hy sinh tính mạng chỉ để giành giật lãnh thổ nhưng
không nhìn thấy chiến thắng chung cuộc vì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
không bao giờ ngừng chuyển quân viện và vũ khí vào miền Nam và Việt Nam
Cộng Hòa hầu như không đủ sức Bắc Tiến.
Nếu
cuộc
chiến cứ kéo dài như thế liệu những cam kết của Hoa Kỳ với Việt Nam Cộng
Hòa có vững bền không khi trong bản hiệp định đã cho thấy Việt Nam Cộng
Hòa sẽ không tồn tại mà tình hình miền Nam sẽ được giải quyết bằng một
cuộc hiệp thương giữa ba thành phần theo như ngôn ngữ của Chương IV,
“Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
27/1/1973”.
Thấy được những hiểm họa đó, có nghĩa chúng tôi đã thấy được thể chế
Việt Nam Cộng Hòa trên đường sụp đổ, bại vong. Trừ phi có một phép lạ,
miền Nam nảy sinh một nhân vật kiệt xuất như Napoléon, De Gaulle có khả
năng đưa mảnh đất cuối cùng của người Việt yêu tự do ra khỏi vòng nguy
biến.
Chúng tôi trích dẫn toàn văn CHƯƠNG IV dưới đây để quý độc giả tham
khảo, nhận định tại sao chúng tôi kết luận rằng Hoa Kỳ đã có ý xóa sổ
Việt Nam Cộng Hòa:
TRÍCH:
Chương IV: VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM
Điều 9:
Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cam kết tôn
trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam
Việt Nam dưới đây:
a) Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, bất
khả xâm phạm và phải được tất cả các nước tôn trọng.
b) Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của miền
Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ, có giám
sát quốc tế.
c) Các nước ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị hoăc cá
nhân nào đối với nhân dân miền Nam Việt Nam.
Điều 10:
Hai bên miền Nam Việt Nam cam kết tôn trọng ngừng bắn và giữ vững hòa
bình ở miền Nam Việt Nam; giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương
lượng và tránh mọi xung đột bằng vũ lực.
Điều 11:
Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ:
– Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành
động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp
tác với bên này hoặc bên kia;
– Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động
chính trị, tự do tín nguỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn
sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
Điều 12:
a) Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên
tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn
tính nhau để thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm
ba thành phần ngang nhau. Hội đồng sẽ làm việc theo nguyên tắc nhất trí.
Sau khi Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc nhậm chức, hai bên
miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương để thành lập các hội đồng cấp dưới. Hai
bên miền Nam Việt Nam sẽ ký một hiệp định về các vấn đề nội bộ của miền
Nam Việt Nam càng sớm càng tốt, và sẽ làm hết sức mình để thực hiện việc
này trong vòng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam là hòa bình, độc lập và dân
chủ.
b) Hội
đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc có
nhiệm vụ đôn đốc hai bên miền Nam Việt Nam thi hành Hiệp định này, thực
hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ. Hội đồng quốc
gia hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do và dân
chủ như đã nói trong Điều 9(b) và quy định thủ tục và thể thức của cuộc
tổng tuyển cử này. Các cơ quan quyền lực mà cuộc tổng tuyển cử đó sẽ bầu
ra sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam thông qua hiệp thuơng mà thỏa thuận.
Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng sẽ quy định thủ tục
và thể thức tuyển cử địa phuơng theo như hai bên miền Nam Việt Nam thỏa
thuận.
Điều 13:
Vấn đề lực luợng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam sẽ do hai bên
miền Nam Việt Nam giải quyết trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc,
bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài,
phù hợp với tình hình sau chiến tranh. Trong số những vấn đề hai bên
miền Nam Việt Nam thảo luận có các biện pháp giảm số quân của họ và phục
viên số quân đã giảm. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hoàn thành việc đó
càng sớm càng tốt.
Điều 14:
Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập. Miền
Nam Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ với tất cả các nước không phân
biệt chế độ chính trị và xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền
của nhau và nhận viện trợ kinh tế, kỹ thuật của bất cứ nước nào không
kèm theo điều kiện chính trị. Vấn
đề nhận viện trợ quân sự sau này cho miền Nam Việt Nam sẽ thuộc thẩm
quyền của chính phủ được thành lập sau tổng tuyển cử ở miền Nam nói
trong Điều 9(b).
HẾT TRÍCH
Theo như điều khoản thượng dẫn, sau khi ký kết hiệp định miền Nam Việt
Nam trở thành một vùng sôi đậu, da beo giữa hai
chính quyền trong
khi trước đây sau Hiệp Định Geneve 20 – 7 – 1954 từ vĩ tuyến 17 trở vào
Nam là vùng tập kết của những người quốc gia, là lãnh thổ của Quốc gia
Việt Nam, sau này chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thừa kế, tiếp nối.
Như vậy rõ ràng
Hoa Kỳ đã thỏa hiệp với Việt Cộng để biến hành động xâm lăng, phá hoại
miền Nam của chúng qua cánh tay nối dài là MTDTGPMNVN trở thành tranh
chấp nội bộ của miền Nam. Thật là một sự phản bội trắng trợn khi mấy năm
trước Hoa Kỳ tự nguyện đến Việt Nam để giúp Việt Nam Cộng Hòa dẹp bọn
phiến loạn cộng phỉ nhưng đến khi cần kết thúc cuộc chiến,
Hoa Kỳ thừa
nhận bọn ăn cướp và bắt gia chủ phải bàn bạc chia gia sản với chúng.
Không những thế, Hoa Kỳ lại còn gài thêm điều khoản về “Hội
đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc” để
giúp bọn Việt Cộng lấy hai chống một trong khi bàn bạc, dàn xếp phương
cách giải quyết công việc ở miền Nam. Với những nội dung như vậy, về
chính trị Việt Nam Cộng Hòa xem như đã bị loại ra ngoài vòng chiến.
Những ngày tháng ngắn ngủi gặp lại bác Nguyễn văn Đãi, Đại Biểu Chính
Phủ vùng I và anh Bảo Lộc, Phó Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, chúng tôi đã bộc
lộ suy nghĩ về mối hiểm họa này và các vị cũng biểu đồng tình, riêng vấn
đề trao trả về miền Nam xem như một “tabou” (cấm kỵ) không người
nào muốn bàn tới.
Cho đến ngày…..
Tôi không bao giờ quên khi anh chàng công an trại Ba Sao vào mời tôi ra
gặp trưởng phái đoàn phụ trách việc trao đổi, trao trả ngay buổi trưa
ngày 30 Tết.
Lúc đó, tôi vừa từ trong nhà bước ra sân, định đi đánh bóng bàn, gã
thiếu úy công an tên Chung gọi tôi:
-Anh Sơn định đi đâu đấy.
- Qua chỗ đánh bóng bàn, chơi vài hiệp.
- Thôi để lúc khác, tôi sang mời anh lên văn phòng gặp Thủ trưởng Phái
Đoàn Bộ.”
Tôi hơi ngạc nhiên thầm nghĩ “tết đến nơi rồi, gặp mấy thằng công an
hãm tài này thêm bực mình.” tuy nghĩ vậy nhưng cũng phải làm ra cách
vui vẻ đi cùng hắn.
Khi tên Chung đưa tôi vào hội trường, tôi hơi ngạc nhiên thấy hầu như
toàn bộ những người cán bộ trong phái đoàn đều có mặt. Hình như họ vừa
kết thúc một cuộc họp. Thấy tôi bước vào, tất cả đều đứng dậy tản đi,
còn lại ba người ngồi trước cái bàn lớn. Một người lên tiếng và chỉ vào
chiếc ghế đối diện với họ:
- Anh Hà Văn Sơn! Mời anh ngồi đây. Năm hết tết đến, chúng tôi có vài
câu chuyện muốn trao đổi với anh.
Tôi gật đầu lên tiếng :”Chào các ông” rồi chẳng chút e dè, đủng đỉnh
tiến tới ngồi vào chiếc ghế đối diện, định thần nhìn thẳng vào mặt đối
phương qua cái bàn hội họp. Mấy hôm nay đã có nhiều anh em đi gặp phái
đoàn nhưng cuộc gặp của tôi xảy ra ngay giữa trưa 30 tết quả là một điều
hơi khác lạ, không bình thường. Rồi lại gặp một lúc đến ba người đứng
đầu của phái đoàn với sắc diện "lựu đạn" cho thấy tình thế của “cuộc gặp
gỡ nói chuyện” này không khác gì một buổi thẩm cung tại trại giam Thanh
Liệt trước đây.
Tên trưởng đoàn ngồi quan sát kỹ thái độ và cử chỉ của tôi rồi lên
tiếng:
- Anh Sơn hút thuốc đi, rồi chúng ta nói chuyện.
Tôi bình thản cầm gói thuốc Điện Biên bao bạc trên bàn, rút một điếu
châm lửa hút, rồi nhìn những người đối diện qua khói thuốc. Giác quan
thứ sáu đã cho tôi thấy có một mối hiểm nguy nào đó đang tiềm ẩn.
Một câu hỏi vang lên:
- Sức khỏe của anh thế nào?
Tôi bình thản nhìn vào gã trưởng phái đoàn:
-Cảm ơn ông!Tôi không bệnh tật gì.
- Các anh trong nhóm vẫn khỏe và có tư tưởng tốt chứ?
Tôi thực sự cảm thấy khó chịu nên phản ứng:
- Tôi chỉ biết phần tôi chứ những người khác sức khỏe và tinh thần tư
tưởng ra sao làm thế nào mà tôi biết được.
- Ấy! Anh không biết về người khác nhưng một số người trong các anh lại
biết rất rõ về tư tưởng của anh.
Tôi muốn cười phá lên trước cái trò "tâm lý nhái"| kinh điển “cổ lổ sỉ” này
nhưng phải cố nhịn để xem cuộc nói chuyện đi theo hướng nào.
- Tư tưởng con người thì thiên hình vạn trạng lúc vững vàng, khi giao
động. Làm sao mà ai biết được kể cũng lạ.
- Anh không tin điều tôi nói ra hay sao. Đây nhé! Chúng tôi được biết
rằng anh là người khuyên bảo họ cần phải thể hiện sự trung thành với chế
độ bù nhìn, tay sai Thiệu Khiêm ở Sài Gòn và đế quốc Mỹ. Anh lầm rồi…
Không để cho hắn nói tiếp, tôi lập tức chặn lại :
-Thưa... ông không nên nặng lời vô lý như vậy. Dù tôi không hề tham gia
bầu phiếu cho Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm
nhưng họ là nguyên thủ của chúng tôi. Đề nghị ông trọng thị trong phát
biểu nếu ông không muốn chúng tôi đáp trả bằng cách gọi ông Hồ Chí Minh
là Cáo già, tay sai cộng sản Nga Hoa và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa là bọn ngụy quyền đánh thuê cho Cộng Sản Quốc Tế.”
- Sinh mạng của anh còn nằm trong tay chúng tôi mà anh dám ăn nói như
vậy sao?
- Trường hợp của tôi cũng không khác gì những người cán binh đồng chí
của các ông đang nằm trong tay chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
-Anh còn trẻ quá, đừng ngang bướng không có lợi cho anh. Chúng tôi đang
nhận nhiệm vụ tìm mọi cách giúp các anh sau này về trong Nam trở thành
người tốt, có thể giúp đỡ cho cách mạng khi cần thiết.
-Tôi là một tù binh chứ không phải là cán binh, cũng không là thuộc cấp
của ông nên khỏi phiền ông có hảo ý. Còn trường hợp nếu như tôi được trả
về với chính quyền Sài Gòn, đối với những người cách mạng gặp tôi sau
này, tôi sẽ rất vui lòng giúp đỡ bằng cách đưa họ vào các Trung Tâm
Chiêu Hồi để họ mau chóng giác ngộ trở về với chính nghĩa quốc gia, học
tập nghề nghiệp và trở thành người công dân lương thiện.
-Anh nói với tôi như thế này! Anh có hiểu rằng vô cùng nguy hại cho bản
thân anh không? Anh không muốn về với gia đình hay sao?
-Tôi đã nói, tôi và những người cán binh Việt Cộng bị giam giữ ở miền
Nam đều là tù binh giống nhau. Người nào cũng mong mỏi sớm gặp lại gia
đình nhưng quyết định cho những người tù gặp lại gia đình hay không, lại
tùy thuộc ở tinh thần tôn trọng hiệp định của đối phương và sự đòi hỏi
của chế độ mà mình phục vụ. Thể chế VNCH là một thể chế quốc gia tôn
trọng công pháp quốc tế nên cư xử tốt với tù binh và chắc chắn sẽ tôn
trọng hiệp định về khỏan trao trả.
-Anh đánh giá thế nào về phía cách mạng chúng tôi?
-Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy các ông đưa việc học tập chính sách của các
ông làm tiêu chuẩn để xem xét việc trao đổi trao trả. Các ông cố tình
tạo áp lực để cưỡng ép người tù binh phải làm những chuyện không theo
nguyên tắc nào cả.
- Anh cố tình không hiểu ý câu hỏi của tôi. Tôi muốn hỏi, anh có nghĩ
rằng chúng tôi sẽ trả các anh cho phía chính quyền Sài Gòn hay không?
Tôi
trả lời bốp chát:
- Theo suy nghĩ của tôi là không?
- Dựa trên điều gì mà anh nghĩ như vậy.
- Tại tôi đang nói mà ông chận lại nên tôi chưa nói hết. Tôi đã tự kết
luận như thế để khi bị giữ lại cũng không tuyệt vọng vì tôi biết rõ câu
chuyện về những người tù binh Đức Quốc Xã ở Siberia, những tù binh Pháp
ở Mộc Châu, Sơn La nên chuyện trở về với gia đình của chúng tôi chỉ là
hãn hữu.
Tên trưởng phái đoàn cười nham hiểm, mỉa mai:
-Anh giỏi thật cả những chuyện như thế mà anh cũng biết.. Nhưng thôi!
Buổi nói chuyện hôm nay, thật tâm chúng tôi muốn tạo cho anh một cơ hội
để sớm gặp lại gia đình… Anh nghĩ thế nào?
Tôi cười khinh bỉ, giọng riễu cợt:
-Tôi đang lắng nghe đây.
Tiếng của tên trưởng đoàn trầm xuống:
-Tôi chỉ yêu cầu anh làm hai điều rất dễ vì việc của anh làm không
phương hại đến ai cả.
Hắn nói tới đó và ngừng lại một cách rất thủ đoạn, chờ sự chú ý của tôi.
Tôi bình thản châm điếu thuốc thứ tư hay thứ năm gì đó, nhả khói lên
trời. Cả hai phía đều im lặng, dọ xét lẫn nhau. Cuối cùng, tên ngồi bên
tay phải gã trưởng đoàn lên tiếng:
-Anh Sơn nghĩ sao?
Tôi
giả vờ thắc mắc:
- Tôi đã biết mình phải làm chuyện gì mà nghĩ hay không nghĩ.
Gã bên phải nói tiếp:
-Chúng tôi muốn anh viết hai văn bản thủ tục; trước đây trong khi học
tập trao đổi trao trả những người khác đã viết nhưng anh từ chối không
chịu viết.
- Các ông muốn tôi viết bản “Tố Cáo Tội Ác Đế Quốc Mỹ và Ngụy Quyền Sài
Gòn” và “Đơn Xin Khoan Hồng”?
- Đúng thế! Chỉ có vậy thôi! Không hơn, không kém.
Tôi bực bội:
-Con người tôi không thể làm những chuyện phi lý như vậy được. Tôi là
một tù binh chiến tranh không có lý gì phải làm đơn …..
Gã trưởng đoàn sẵng giọng:
- Hôm nay, không phải là lúc đấu lý. Đây là yêu cầu của chúng tôi đặt
ra. Anh có đáp ứng, tuân phục hay không mà thôi. Chúng tôi sẽ tạo điều
kiện cho anh ở “cách ly” để suy nghĩ cẩn thận.
Nói xong, hắn đứng dậy. Tôi cũng đứng dậy, quay lại đã thấy anh chàng
Chung cùng hai tên cảnh vệ đợi sẵn ở cửa phòng họp. Chung nói với
tôi:”Anh Sơn đi với chúng tôi”.
Thấy hắn hướng về phía trại giam, tôi làm bộ hỏi: Tôi còn hành lý cá
nhân .
-Khỏi cần, tôi sẽ lấy và đem lên tận chỗ anh ở.
Tôi bình thản móc túi bật diêm, châm thuốc hút vì biết bọn chó đẻ này đã
quyết định có biện pháp xử trí tôi vì thái độ, chủ trương chống đối
trong học tập trước đây. Buổi gặp gỡ hôm nay đã có quyết định từ trước
và việc đưa tôi đi cách ly chỉ là đòn phủ đầu tung ra đúng thời điểm
nhằm trấn áp tư tưởng phản kháng của tất cả những người còn lại. Vậy là
định mệnh đã lên tiếng gọi.
Tôi bỗng thấy hình ảnh của chính mình qua con sói già bị thương của
Alfred de Vigny:
“Gémir, pleurer, prier est également lâche. - Fais énergiquement ta
longue et lourde tâche - Dans la voie où le Sort a voulu t'appeler -
Puis après comme moi souffre et meurs sans parler.”
Đêm giao thừa năm đó, tôi đón xuân trong khu biệt giam trại Ba Sao. Bọn
công an trại gài một tên tù hình sự ở chung phòng để kiểm soát an ninh
đồng thời báo cáo mọi hành động và suy nghĩ của tôi trong giai đoạn này.
Chúng tôi tự hào đã giữ được khí phách và liêm sỉ của người lính qua
việc bác bỏ không làm bản “Tố Cáo Tội Ác Đế Quốc Mỹ và Ngụy Quyền Sài
Gòn”, không chấp nhận đầu hàng viết ”Đơn Xin Khoan Hồng” để làm điều
kiện tiên quyết cho chúng cứu xét trao đổi, trao trả. Chúng tôi giữ được
quốc thể vì đã dám có thái độ dứt khoát khi đối phương có lời lẽ không
tôn trọng thể chế và nguyên thủ của Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không
thừa nhận đảng Cộng Sản và cái gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là nhà
nước cách mạng, đồng nghĩa với tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Suốt thời gian sau đó nằm trong khu vực biệt giam, hoàn toàn đứt liên
lạc với số người cùng đến Ba Sao. Tôi khắc khoải đợi chờ phép lạ xảy
ra.. cho đến ngày 19 – 5 – 1973, tôi bị tước bỏ mọi điều kiện sinh hoạt
nhỏ nhoi của một tù binh, đưa thẳng lên cùm tại trại Cổng Trời để trả
giá cho việc biết giữ gìn liêm sỉ và quốc sỉ.
Nằm trong xà lim như chôn sống trong huyệt mộ hơn hai năm. Tin cộng sản
cưỡng chiếm miền Nam khiến tâm hồn tôi tan nát, tuyệt vọng nhưng không
làm cho tôi phải ngạc nhiên. Hai năm ngắc ngoải của tôi ở xà lim trại
Cổng Trời là định mệnh của một con người nhỏ bé; trong bốn bức tường xà
lim lạnh lẽo, hai chân bị cùm, tôi không thể làm gì hơn ngoài việc
kiên trì chịu đựng sự hành hạ của đói rét, nhìn cái chết đến chầm chậm.
Hai năm chuẩn bị lâm chung của Việt Nam Cộng Hòa là vận mệnh của cả một
dân tộc và đất nước nhưng không có nhân tài nào xuất lộ, tìm ra một kế
sách cứu quốc hay phương cách vận động khắp năm châu bốn biển để cứu vãn
tình thế, mà chỉ biết ôm chặt lấy bầu sữa của một mụ đồng minh phản bội.
Bọn chính khứa xôi thịt và lũ cầm quyền "chó nhảy bàn độc" lót đường
vinh hoa, phú quý bằng xương máu người lính đã chuẩn bị ra đi từ lâu.
Quả là vận nước đã đi vào thời quốc mạt.
Với một thế hệ lãnh đạo như vậy, chẳng trách nào đến ngày hôm nay, sau
40 năm vẫn có những bộ óc điên rồ, hoang tưởng đòi khôi phục lại “Hiệp
định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
27/1/1973”.
Những người này đều thuộc loại “học nhi bất thức” đến nỗi không hiểu
được một nguyên tắc sơ đẳng: “Tất
cả mọi hiệp định, hòa ước chỉ có giá trị thực tế khi các bên duy trì
được sự thăng bằng trong cán cân quân sự. Nếu vì một lý do nào đó tương
quan lực lượng mất thăng bằng, hiệp định lập tức không còn giá trị.”
Lịch sử thế giới cho thấy trong đệ nhị thế chiến, Hitler đã xé bỏ bao
nhiêu hiệp ước để vẽ lại bản đồ châu Âu khi lực lượng quân sự Đức có sức
mạnh vượt trội.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam trên giải đất hình chữ S sau đệ nhị thế
chiến đã có hai
bản hiệp định có giá trị lịch sử nhưng đến nay không còn giá trị thực tế.
Đó là
“Hiệp Định Geneve 20-7-1954” cắt đứt Việt Nam thành hai miền và
“Hiệp
định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
27/1/1973” do chính Hoa Kỳ chủ trương để bàn giao toàn bán đảo Đông
Dương cho Việt Cộng.
Trong cuộc chiến
tranh Đông Dương từ năm 1945 cho đến năm 1975, tài phiệt Hoa Kỳ đã đạt
được mọi yêu cầu. Hoa Kỳ đã tiêu thụ hết những kho bom đạn thặng dư sau
đệ nhị thế chiến ở cả hai phe Cộng Sản và Tư Bản. Vì tất cả những nhà
máy vũ khí của Liên Xô cũng đều do tài phiệt ở Wall Street đầu tư. Bất
nhân nhất là những phát minh khoa học kỹ thuật tân tiến của Hoa Kỳ đã
được chuyển giao cho những nhà máy ở Liên Xô để chế tạo các loại vũ khí
đặc biệt viện trợ cho Việt Cộng bắn vào các phi cơ và quân đội Hoa Kỳ
chiến đấu ở Việt Nam.
Việc Hoa Kỳ bỏ tiền
đồn Việt Nam Cộng Hòa cho Việt Cộng được bù lại bằng việc Hoa Kỳ chính
thức bước vào thị trường Hoa Lục. Và cho đến nay, sau 40 năm, không
chừng cả giải đất hình chữ S có thể sẽ trở thành tiền đồn chống Trung
Hoa….
(trích Hận Cùng Trời Đất)
Kim Âu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét