Trong tinh thần kỷ niệm 35 năm ngày Quân
lực 19-6, thể theo yêu cầu của một số đông bạn đọc, chúng tôi sẽ lần
lượt trình bày một số sự kiện chiến trường đã đi vào quân sử, qua đó,
chúng ta thấy được tinh thần chiến đấu vì đại nghĩa của người lính VNCH
trong hoàn cảnh nghiệt ngã của lịch sử. Trong kỳ báo này, VB trân trọng
giới thiệu bài tường trình chi tiết về mặt trận Tân Cảnh và cố tư lệnh
Sư đoàn 22 BB Lê Đức Đạt, vị sĩ quan cao cấp đã tự sát để giữ tròn khí
tiết của một tư lệnh chiến trường. Phần này được biên soạn dựa theo tài
liệu của cựu đại tá Trịnh Tiếu, nguyên trưởng phòng 2 Quân đoàn 2, loạt
bài của trung tướng Ngô Quang Trưởng và một số sĩ quan cao cấp viết cho
Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, tài liệu của nhà nghiên cứu Trần Phan
Anh, một số bài viết trong tạp chí KBC, tài liệu riêng của VB.
* Tư lệnh Sư đoàn 22 BB Lê Đức Đạt và phòng tuyến Tân Cảnh
Từ tháng 2/1972, trước những tín hiệu báo động về các cuộc chuyển quân ồ ạt của CSBV, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã tăng cường lực lượng phòng thủ ở mặt trận phía Bắc tỉnh Kontum: trung đoàn 47 Bộ binh/Sư đoàn 22 BB (BB) cùng với bộ Tư lệnh Tiền phương Sư đoàn, và một thành phần Tiếp vận từ Bình Định lên khu vực Tân Cảnh-Dakto. Tại Tân Cảnh, bộ tư lệnh Tiền phương đóng chung với bộ chỉ huy trung đoàn 42 BB, một trong 4 trung đoàn cơ hữu của sư đoàn, đã đóng quân tại đây từ trước. Căn cứ này gần ngã ba Quốc lộ 14 và Tỉnh lộ 512. Toàn bộ cuộc chuyển quân hoàn tất vào ngày 8 tháng 2/1972. Ngày 1 tháng 3/1972, thiếu tướng Lê Ngọc Triển, tư lệnh Sư đoàn 22 BB, bàn giao chức vụ chỉ huy sư đoàn cho đại tá Lê Đức Đạt tư lệnh phó Sư đoàn để về bộ Tổng Tham Mưu nhận chức tham mưu phó Hành quân.
Đại tá Lê Đức Đạt nguyên là một sĩ quan
cao cấp của binh chủng Thiết giáp, khi còn ở cấp đại úy, vào thời gian
1954-1955, ông đã theo học tại trường Thiết giáp Ky binh Saumur Pháp. Ở
cấp bậc thiếu tá, ông đã có thời gian chỉ huy một trung đoàn Thiết giáp.
Trong thời gian từ 1965-1967, ông là trung tá tỉnh trưởng/kiêm tiểu
trưởng Phước Tuy.
Ngay sau khi nhận chức tư lệnh,
Đại tá Đạt đã điều động các phòng tham mưu chính lên Tân Cảnh, bộ Tư
lệnh Tiền phương trở thành bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn. Theo lời kể của
cựu đại tá Trịnh Tiếu, nguyên trưởng phòng 2 Quân đoàn 2 và của một số
sĩ quan cao cấp Sư đoàn 22 BB, khi đảm nhận chức vụ tư lệnh Sư đoàn, đại
tá Lê Đức Đạt đã không có được yểm trợ của cố vấn trưởng Quân đoàn 2
Paul Vann như ông ta đã dành cho đại tá Lý Tòng Bá, tân tư lệnh Sư đoàn
23 BB, lại còn bị vị cố vấn này gây nhiều khó khăn trong chỉ huy và điều
hợp các đơn vị. Do bất bình với trung tướng Ngô Du, tư lệnh Quân đoàn
2, đã không sắp xếp nhân sự giữ chức tư lệnh Sư đoàn 22 BB theo ý của cố
vấn trưởng, ông Paul Vann đã từ chối yêu cầu của tướng Du về kế hoạch
dội B 52 “dập nát” hai sư đoàn Cộng quân đang bao vây Sư đoàn 22 BB, dẫn
đến hậu quả là sư đoàn này đã bị bức tử.
Cố vấn
trưởng Quân đoàn 2 Paul Vann đã yêu cầu trung tướng Ngô Du làm đề nghị
cử đại tá Lý Tòng Bá thay thiếu tướng Lê Ngọc Triển trong chức vụ tư
lệnh Sư đoàn 22 BB, cử đại tá Lê Minh Đảo giữ chức tư lệnh Sư đoàn 23 BB
thay chuẩn tướng Võ Văn Cảnh (tướng Cảnh sau đó đã giữ chức chỉ thuy
trưởng Huấn khu Dục Mỹ, ông được thăng thiếu tướng vào tháng 4/1974 khi
giữ chức vụ phụ tá Tổng trưởng Nội vụ đặc trách Nhân dân Tự vệ). Lý do
cố vấn Paul Vann đưa ra là tướng Triển và Cảnh đã lớn tuổi, cần phải
thay thế bởi những đại tá mà ông ta đánh giá là có nhiều khả năng.
Sự
tiến cử của ông Paul Vann đã không được trung tướng Ngô Du đồng ý.
Tướng Du nói với ông Paul Vann rằng việc bổ nhiệm tư lệnh Sư đoàn là do
Tổng thống VNCH quyết định, hơn nữa tướng Triển và tướng Cảnh không phạm
lỗi gì, nên không thể đề nghị thay đổi được. Tuy nhiên ông Paul Vann
làm áp lực đòi trung tướng Du phải thay thế gấp hai vị tư lệnh Sư đoàn.
Tướng Ngô Du hỏi tại sao ông Paul Vann lại nằng nặc đề cử đại tá Bá và
đại tá Đảo mà ông đề cử một số đại tá trẻ và giỏi đang phục vụ tại Quân
đoàn 2, vị cố vấn trưởng này trả lời: Đại tá Lý Tòng Bá và đại tá Lê
Minh Đảo là các sĩ quan trẻ, năng động và kinh nghiệm chiến trường mà
tôi đã biết tại Quân đoàn 3. (Ông Paul Vann nguyên là trung tá Cố vấn
trưởng Sư đoàn 7 BB trong thời gian 1961-1962, thời kỳ tướng Huỳnh Văn
Cao còn là đại tá tư lệnh Sư đoàn, sau đó, ông giải ngũ và về Hoa Kỳ.
Năm 1966 ông trở lại Việt Nam, từ 1967-1969, với tư cách là quan chức
dân chính cao cấp của Hoa Kỳ, ông chỉ huy cơ quan CORDS tại Vùng 3 chiến
thuật, khi được bổ nhiệm làm cố vấn trưởng Quân đoàn 2, ông được hưởng
quyền lợi ngang hàng với một thiếu tướng Hoa Kỳ).
Cuối
cùng, do tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng, đòi hỏi sự yểm trợ
về Không quân của Hoa Kỳ qua trung gian của Cố vấn Quân đoàn, trung
tướng Ngô Du đành phải thỏa mãn gấp các điều kiện của ông Paul Vann, tuy
nhiên vị tư lệnh Quân đoàn 2 cũng chỉ thỏa mãn một nửa số điều kiện của
ông Paul Vann: ông đề ghị Tổng thống VNCH bổ nhiệm đại tá Lý Tòng Bá
giữ chức tư lệnh Sư đoàn 23 BB thay vì tư lệnh Sư đoàn 22 BB như ông
Paul yêu cầu, và đại tá Lê Đức Đạt, tư lệnh phó Sư đoàn 22 BB giữ chức
tư lệnh Sư đoàn này. Giải pháp 50% của trung tướng Ngô Du vẫn không làm
vừa lòng Paul Vann, nên ông ta đã trút tất cả sự bức tức lên đại tá Đạt.
Theo giải thích của cựu đại tá Trịnh Tiếu thì sở dĩ tướng Du cử đại tá Lê Đức Đạt vì đại tá đang là tư lệnh phó Sư đoàn lên thay tư lệnh Sư đoàn là điều hợp lý, hơn nữa đại tá đại tá Đạt rất thân với đại tướng Cao Văn Viên, nên tướng Du nghĩ rằng khi đại tá Đạt lên làm tư lệnh mặt trận thì đại tướng Viên sẽ yểm trợ tối đa cho đại tá Đạt. Cũng cần ghi nhận rằng trong năm 1965, khi đại tướng Cao Văn Viên còn là thiếu tướng tư lệnh Quân đoàn 3 & Vùng 3 chiến thuật thì đại tá Đạt là tỉnh trưởng/tiểu khu trưởng Phước Tuy với cấp bậc trung tá như đã trình bày ở trên.
* Ngày cuối của đại tá Lê Đức Đạt và bộ Tư lệnh Sư đoàn 22 BB:
Trở lại với chiến trường Tân Cảnh, trước khi Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào căn cứ này, lực lượng bố phòng tại đây gồm có trung đoàn 42 BB, hai pháo đội 105 và 155 ly, một chi đội M 41 và một chi đội M-113, một đại đội Công Binh chiến đấu. Ngày 21 tháng 4, 1972, cố vấn Quân đoàn 2 Paul Vann bay lên Tân Cảnh thăm đại tá Philip Kaolan, cố vấn trưởng Sư đoàn 22 BB. Tại hầm chỉ huy, mặc dù biết vị cố vấn Quân đoàn có ác với mình, đại tá Đạt vẫn trình bày đầy đủ tình hình chi tiết cho ông Paul Vann rõ, Vị cố vấn này đã có hành động thiếu lịch sự, ông ta chỉ mạnh vào bản đồ hành quân và nói cộc lốc: “Đại tá Đạt, ông sẽ là vị tư lệnh Sư đoàn VN đầu tiên làm mất sư đoàn và bại trận”. Đại tá Đạt rất giận, ông đã vứt điếu thuốc đang hút xuống đất, cười gằn và nói với cố vấn Paul Vann: Ồ, chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.
Trở lại với chiến trường Tân Cảnh, trước khi Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào căn cứ này, lực lượng bố phòng tại đây gồm có trung đoàn 42 BB, hai pháo đội 105 và 155 ly, một chi đội M 41 và một chi đội M-113, một đại đội Công Binh chiến đấu. Ngày 21 tháng 4, 1972, cố vấn Quân đoàn 2 Paul Vann bay lên Tân Cảnh thăm đại tá Philip Kaolan, cố vấn trưởng Sư đoàn 22 BB. Tại hầm chỉ huy, mặc dù biết vị cố vấn Quân đoàn có ác với mình, đại tá Đạt vẫn trình bày đầy đủ tình hình chi tiết cho ông Paul Vann rõ, Vị cố vấn này đã có hành động thiếu lịch sự, ông ta chỉ mạnh vào bản đồ hành quân và nói cộc lốc: “Đại tá Đạt, ông sẽ là vị tư lệnh Sư đoàn VN đầu tiên làm mất sư đoàn và bại trận”. Đại tá Đạt rất giận, ông đã vứt điếu thuốc đang hút xuống đất, cười gằn và nói với cố vấn Paul Vann: Ồ, chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.
Ngày
23 tháng 4/1972, lực lượng Cộng quân gồm các đơn vị của sư đoàn 2 CSBV
phối hợp với các đơn vị đặc công, thiết giáp CQ thuộc B 3 đã khởi động
cuộc tấn công ở vòng đai Tân Cảnh. Trong ngày 23 tháng 4/1972, Cộng quân
đã pháo kích dồn dập vào căn cứ. Địch quân mở một trận hỏa công bằng đủ
loại pháo, trong đó có hỏa tiễn-dây điều khiển Sagger 13 để làm tê liệt
các chiến xa và công sự chiến đấu của lực lượng trú phòng. Từng chiến
xa M 41 đang nằm trên các vị trí phòng ngự để bảo vệ Trung tâm Hành quân
Sư đoàn đều bị trúng đạn. Tiếp đó, vào 10 giờ 30, trung tâm Hành quân
cũng bị trúng đạn địch bắn trực xạ, hệ thống truyền tin bị hủy hoại, một
số quân nhân thương vong.
Buổi trưa, với sự giúp
đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ, một trung tâm Hành quân tạm thời đã được thiết
lập chung với trung tâm Hành quân Sư đoàn 22 BB với các máy móc truyền
tin lấy từ hệ thống dành cho các Cố vấn. Thế nhưng, đại tá Lê Đức Đạt,
tư lệnh Sư đoàn, đã từ chối cùng với các sĩ quan Hoa Kỳ trong ban Cố vấn
Sư đoàn đến làm việc tại trung tâm Hành quân mới, ông ở lại bộ chỉ huy
cũ đã bị tan hoang cùng với vị đại tá Tôn Thất Hùng, tư lệnh phó, vài sĩ
quan thân tín trong bộ Tham mưu cùng với một máy truyền tin liên lạc.
Buổi
chiều, đại tá Lê Đức Đạt cho lệnh các pháo đội của Sư đoàn phản pháo
vào các vị trí tình nghi là pháo binh của địch đặt súng, nhưng không có
kết quả. Cùng lúc đó, từ trung tâm Hành quân mới, các cố vấn Hoa Kỳ đã
hướng dẫn Không quân thực hiện phi vụ không yểm, oanh kích vào các mục
tiêu của Cộng quân-dựa theo báo cáo của các cố vấn trung đoàn. Nỗ lực
của các cố vấn Hoa Kỳ vẫn không có hiệu quả do thời tiết quá xấu đã hạn
chế phần quan sát, ngoài ra hệ thống phòng không dày dặc của địch đã bắn
chận các oanh tạc cơ và chiến đấu cơ của Không quân Việt-Mỹ.
Gần
tối, một thành phần đặc công CSBV đã xâm nhập vào vòng đai phi đạo của
căn cứ và đặt chất nổ phá hủy một bãi đổ đạn dược gần đường bay. Trong
khi đó, Cộng quân tiếp tục pháo kích dữ dội vào khu vực trung tâm của
căn cứ. Vào nửa đêm, các đơn vị của trung đoàn 42 phòng thủ quanh vòng
đai căn cứ quan sát thấy 15 chiến xa địch di chuyển theo hướng Nam đến
Tân Cảnh. Trong tình hình nguy kịch, nên Sư đoàn 22 BB khó tiến hành một
kế hoạch nào kịp thời để ngăn chận Cộng quân, ngoài trừ một trận pháo ở
mức độ nhỏ của Pháo binh và đợt phản pháo dữ dội nhưng không có kết quả
của đối phương, trong khi đó hai chiếc cầu trên Quốc lộ 14 ở hướng Nam
đến Tân Cảnh vẫn để nguyên vẹn nên chiến xa của địch đã di chuyển dễ
dàng trên lộ trình chuyển quân.
Khoảng 2 giờ sáng
ngày 24 tháng 4/1972, 15 chiến xa T 54 của Cộng quân bao vây căn cứ Tân
Cảnh, vào lúc này 10 chiến xa M 41 và M 113 bảo vệ bộ Tư lệnh đã bị địch
bắn cháy 8 chiếc, 2 chiếc còn lại đoàn 22 đã ở trong tình trạng bất
khiển dụng vì bị đứt dây xích. Nhận thấy tình hình vô vọng, đại tá
Kaplan, cố vấn trưởng Sư đoàn, đã liên lạc khẩn cấp yêu cầu cố vấn
trưởng Quân đoàn 2 bay lên cứu ông và toán cố vấn. Khoảng 4 giờ sáng,
ông Paul Vann lál trực thăng trinh sát OH-58 Kiowa-loại mới nhất của Hoa
Kỳ đáp xuống một bãi đáp rất nhỏ bên cạnh bãi mìn để bốc đại tá Kaplan.
Trước
khi trực thăng đáp xuống, đại tá Kaplan đã đến báo cho đại tá Lê Đức
Đạt và yêu cầu ông cùng lên trực thăng ứng cứu của ông Paul Vann nhưng
đại tá Đạt đã từ chối. Vị tư lệnh Sư đoàn 22 BB đã biết rõ tình hình rất
bi đát, thế nhưng ông vẫn không yêu cầu trung tướng Ngô Du cho trực
thăng bay lên cứu. Đại tá Đạt ra lệnh cho tất cả các quân nhân còn lại
trong căn cứ tìm cách thoát ra ngoài căn cứ trước khi trời sáng. Ông bắt
tay vĩnh biệt đại tá Hùng, tư lệnh phó, và các sĩ quan, ông nói với mọi
người: “Là một tư lệnh, tôi phải ở lại với Tân Cảnh.” Theo lời kể của
đại tá Kaplan và một số nhân chứng, đại tá Lê Đức Đạt đã tự sát sau khi
căn cứ bị Cộng quân tràn ngập.
Về các sĩ quan
trong bộ Tư lệnh Sư đoàn 22 BB vượt thoát ra ngoài căn cứ, một số đã bị
địch bắt. Còn đại tá Tôn Thất Hùng đã thoát được ra ngoài nhưng bị
thương, Ông đã cố chạy vào một buôn Thượng gần đó. Nhờ nói được tiếng
Thượng rất rành, nên đã được một gia đình người Thượng che dấu, chăm
sóc, sau đó dẫn đường đưa ông về đến tỉnh lỵ Kontum sau 15 ngày đi loanh
quanh trong rừng. (Ba tháng sau, đại tá Hùng cùng gia đình lên Pleiku
để đền ơn gia đình người Thượng này, vào lúc đó đang sống trong trại tỵ
nạn bằng một số tiền và vàng rất lớn). Riêng với đại gia đình Sư đoàn
Trấn Sơn Bình Hải 22 BB, ngày 24 tháng 4/1972 là ngày mà Tư lệnh Mặt
trận Tân Cảnh Hè 1972 đã vĩnh viễn ở lại với chiến trường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét