Trần Lê tổng hợp
I.
Cách đây gần 64 năm, vào mờ sáng một ngày cuối tháng 6-1941, phát-xít Đức đã mở cuộc tấn công ồ ạt trên toàn tuyến biên giới của Liên bang Xô-viết.
Cố sử gia Nga Dmitri Volkogonov, người từng giữ chức giám đốc kho lưu trữ các tài liệu mật của Đảng Cộng sản Liên Xô, trong tác phẩm lớn “Thắng lợi và tấn thảm kịch” (Moscow, 1989), đã tái họa một cách sinh động hình ảnh Stalin, “người cha của các dân tộc“, trong khoảnh khắc sinh tử ấy:
“Stalin ngả lưng trên chiếc ghế dài trong phòng làm việc ở nhà nghỉ của ông. Tại đó, ông thường làm việc và nghỉ ngơi, và ông đã hơi chợp mắt khi có người rón rén gõ cửa. Nghe tiếng gõ cửa, Stalin đau nhói nơi trái tim: chưa bao giờ ông bị đánh thức như thế. Hay điều xấu nhất đã xảy ra? Chẳng lẽ ông đã tính nhầm ư?
Stalin sửa lại bộ quần áo ngủ và ra ngoài phòng. Người chỉ huy đội cảnh vệ báo cáo:
– Thưa đồng chí Stalin, đại tướng Zhukov xin đồng chí ra nghe điện thoại vì một việc không thể trì hoãn.
Vị tổng bí thư tiến đến máy nghe.
– Tôi đây…
Zhukov – như lời ông thuật lại sau cuộc chiến – đã báo cáo với Stalin: không lực kẻ thù đang oanh tạc Kyev, Minsk, Sevastopol, Vilnius và nhiều thành phố khác. Sau khi dứt lời, tổng tham mưu trưởng quân đội Xô-viết hỏi lại:
– Đồng chí Stalin, đồng chí có hiểu những gì tôi vừa nói không?
Vị tổng bí thư thở dài thật to trong ống nghe và không trả lời. Ông cảm thấy một gánh nặng khổng lồ đang đè trên vai ông, khiến ông tê liệt, và câu hỏi của Zhukov không ngấm được mấy vào tâm khảm ông. Có lẽ ông đang nhớ lại trong óc bức điện tín Hitler gửi ông nhân sinh nhật 60 tuổi:
“Gửi ngài Joseph Stalin,
Nhân kỷ niệm 60 năm ngày sinh, xin ngài nhận ở nơi tôi lời chúc mừng chân thành nhất, và kèm đó, những lời chúc lành. Xin chúc ngài luôn mạnh giỏi, chúc nhân dân Xô-viết có một tương lai hạnh phúc…”
Stalin lặng thinh.
– Đồng chí Stalin, đồng chí có hiểu những gì tôi vừa nói không?
Rốt cục, ông đã hiểu. Những thiên thần hạ giới cũng có thể phạm sai lầm, và cái giá phải trả cho những sai lầm của họ là vô cùng lớn.
Đó là hồi 4 giờ sáng ngày 22-6-1941“.
*
Trong nhiều năm liền, song song với huyền thoại về một Stalin hiền từ, nhân hậu, bao dung độ lượng kiểu “Ông Stalin bên cạnh nhi đồng – Áo Ông trắng giữa mây hồng – Mặt ông hiền hậu, miệng ông mỉm cười” (“Đời đời nhớ ông” – Tố Hữu, 5-1953), là một huyền thoại về Stalin “thiên tài quân sự”.
Một thời, trí thức thiên tả phương Tây đã nhất loạt coi Stalin là người “cứu rỗi nhân loại“: mặc dù biết đến những tội ác khủng khiếp của nhà độc tài đỏ, vẫn không ít người cho rằng nếu không có Stalin, ắt Liên Xô đã thua phát-xít Đức trong Đệ nhị Thế chiến và loài người đã không tránh khỏi “bệnh dịch hạch nâu” trên phạm vi toàn thế giới.
Để bác lại lập luận đó, giới sử học quốc tế đã đưa ra nhiều bằng chứng không thể chối cãi về “tài” cầm quân của Stalin. Cố nhiên, những người không đồng ý có thể cho rằng giới sử học phương Tây đã không khách quan khi họ vạch ra những bất cập trong sự lãnh đạo quân sự của Stalin.
Nhưng, chỉ cần đọc lại một số tư liệu, văn kiện của chính các đồng sự của Stalin, những người đã cùng Stalin lãnh đạo Hồng quân trong Đệ nhị Thế chiến, cũng có thể thấy cái “sở trường quân sự” của nhà độc tài chỉ là một huyền thoại.
Trong những ngày này, khi cả thế giới kỷ niệm 60 năm chiến thắng phát-xít Đức, vai trò của Stalin trong cuộc Đệ nhị Thế chiến một lần nữa được coi là một đề tài chính trị nóng bỏng. Tượng của ông lại được dựng lên ở rất nhiều nơi trên lãnh thổ Liên bang Nga.
Những hành động quân sự của Stalin trong thời gian trước khi Liên Xô bị Đức tấn công (tháng 6-1941) – như ký Hiệp ước bất tương xâm với Đức để chia đôi Ba Lan và giúp Liên Xô chiếm ba nước Baltic; khởi binh đánh chiếm Phần Lan, v.v… – mới đây đã được tổng thống Nga Vladimir Putin coi là hợp pháp, bởi lẽ, theo ông, Liên bang Xô-viết hoàn toàn có quyền thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm “an ninh biên giới phía Tây của mình”, như thể việc xâm lược các nước có chủ quyền là một trong những biện pháp bảo vệ biên giới hợp pháp (*)
Trong bối cảnh ấy, thì việc xem xét lại cái gọi là “thiên tài quân sự” của Stalin cũng là một vấn đề cấp thời. Chẳng hạn, thông qua những hồi tưởng của của một số cộng sự gần gũi, trước hết là nguyên soái huyền thoại Zhukov, người được phương Tây mệnh danh là “vị thống chế vĩ đại nhất của Thế chiến thứ Hai”. Trên cương vị ấy, hẳn ông có thẩm quyền để nói về “tài cầm quân” của Stalin.
(*) “Sự thật lịch sử hay tôn vinh chiến thắng?” – Anne Applebaum, Phạm Minh Ngọc dịch (talawas ngày 9-5-2005).
II.
Trong số các tướng lĩnh Xô-viết có công lao hàng đầu trong cuộc chiến tranh, phải kể đến Nguyên soái Zhukov, người từng được coi là “vị thống chế vĩ đại nhất của Thế chiến thứ Hai“.
Diễn tiến của Đệ nhị Thế chiến đã được Zhukov thuật lại một cách tỉ mỉ và xác thực trong cuốn hồi ký nổi tiếng “Hồi tưởng và suy nghĩ”. Đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt, đây là một cuốn sách đồ sộ, dày đến tám, chín trăm trang, khá nặng nề và khô khan vì chứa chất nhiều sự kiện quân sự thuần túy. Tuy nhiên, những ai quan tâm đến lịch sử Liên Xô và biết rõ mối quan hệ đầy sóng gió và mâu thuẫn giữa Stalin và Zhukov, đều phải tự đặt câu hỏi: trong “Hồi tưởng và suy nghĩ”, Zhukov nhận định ra sao về “thiên tài quân sự” của “đại nguyên soái” Stalin?
Lần giở những trang có cái tên Stalin, độc giả có thể ngạc nhiên vì nhìn chung, Zhukov rất khen ngợi Stalin về mặt quân sự. Không phải ngẫu nhiên mà trong một thời gian dài dưới triều đại Brezhnev, người ta đã viện dẫn rất nhiều vào cuốn hồi ký để tiếp tục tung hô Stalin. Cần biết rằng Zhukov viết “Hồi tưởng và suy nghĩ” trong thời gian 1963-67 và sách được ấn hành lần đầu năm 1969, nghĩa là sau khi vị tổng bí thư (có tư tưởng cởi mở và do đó, bị coi là “xét lại”) Khrushchev bị hạ bệ trong một cuộc “đảo chính cung đình” và Liên Xô sa vào tình trạng đình trệ toàn diện.
Phe nhóm của Brezhnev tìm mọi cách để “phục hồi” từng bước Stalin về mặt chính trị, khiến ít ai dám phê bình ông ta một cách mạnh mẽ như một thập niên trước đó. Và Zhukov cũng không thuộc ngoại lệ: bằng không, cuốn hồi tưởng sẽ không bao giờ được ra đời. Nhiều đoạn trong bản thảo của “Hồi tưởng và suy nghĩ” đã bị cơ quan kiểm duyệt gạch bỏ thẳng thừng và bản thân Zhukov cũng có ý “tự kiểm duyệt” khi ông không nói thẳng mọi ý kiến “có vấn đề” của mình về Stalin.
Tuy nhiên, một số đoạn mấu chốt trong bản thảo cuốn sách đã được sử gia – viện sĩ hàn lâm Aleksander Samsonov công bố trên tờ “Sovietskaya Kultura” (Văn hóa Xô-viết) năm 1988. Nhiều năm về trước, chính Samsonov là người đã chép lại những lời bình luận của Zhukov. Cần nói thêm, viện sĩ Samsonov là thành viên Phân ban Lịch sử của Viện Hàn lâm Khoa học Xô-viết. Vào thời “cải tổ” cuối thập niên 80, phân ban này được giao nhiệm vụ khởi thảo một bộ sử gồm 10 tập nhằm “bạch hóa” những sự kiện vốn bị xuyên tạc, giấu giếm trong quá khứ. Theo kế hoạch, bộ sách phải được ra mắt vào năm 1995. Không rõ số phận của công trình này ra sao sau khi Liên Xô sụp đổ.
Sử gia Samsonov đã có một bài viết mang tựa đề “Cần biết và cần nhớ lại” cho thấy một phần sự thực “thiên tài quân sự” của Stalin, thông qua đánh giá thực sự của nguyên soái Zhukov. Ông cho biết:
“Trong tác phẩm “Hồi tưởng và suy nghĩ”, nguyên soái Zhukov đã nói nhiều điều, nhưng lẽ ra ông còn có thể nói thêm nhiều điều nữa. Khi cuốn sách được ấn hành lần đầu tiên, một phong trào làm sống lại sự sùng bái cá nhân Stalin được khởi động một cách có ý thức từ trên xuống, chủ nghĩa giáo điều được áp dụng rộng rãi, việc phê bình những hiện tượng tiêu cực của quá khứ bị bóp nghẹt. Cá nhân Brezhnev, vốn không có công lao gì thật đáng kể, cũng được phóng đại lên: chẳng những được nhận danh hiệu “Anh hùng Lao động Xã hội Chủ nghĩa”, ông ta còn được phong danh hiệu “Anh hùng Liên Xô” bốn lần trong thời bình (1) và được nhận huân chương “Chiến thắng”, phần thưởng lớn nhất ở Liên Xô dành cho quân đội (2).
Trong hồi ký, Zhukov ghi lại một mẩu chuyển nhỏ: ngày 18 tháng Tư 1943, ông đến mặt trận phía Bắc Caucasus, thay thế vị trí của tướng K.N.Lesidze, chỉ huy quân đoàn thứ 18. Sau đó ông viết: “… Chúng tôi muốn bàn bạc với L.I.Brezhnev, trưởng phòng chính trị quân đoàn 18, nhưng lúc đó ông đang ở Đất nhỏ (3), nơi xảy ra chiến sự ác liệt”… Phải chăng giai thoại mang tính tiếu lâm sau đây đã xuất phát từ đó: Zhukov xin phép Stalin cho tấn công Berlin, nhưng Stalin đáp: “Tôi còn phải bàn bạc với đại tá Brezhnev đã”?“
Những nhận định về “tài năng” của Stalin trong quân sự đã được sử gia Aleksander Samsonov ghi lại, trong cuộc gặp mặt nguyên soái Zhukov tại nhà điều dưỡng mang tên Frunze tại Krym, ngày 18-9-1966:
“Trên phương diện quân sự, cố nhiên Stalin không đến nỗi ngu dốt như về sau này Khrushchev nói. Nhưng ông không có hiểu biết đúng mức trong việc lập kế hoạch cho những chiến dịch mang tính chiến lược, ông không hiểu biết đầy đủ một số nhân tố trong đó. Những phác họa của ông về chiến lược đa phần xuất phát từ những kinh nghiệm thời nội chiến. Sự can thiệp của Stalin vào công việc chỉ đạo chiến tranh vũ trang thường là sai lầm và gây thiệt hại. Ông không chịu được khi người khác dám có ý kiến trái ngược với ông.
Chẳng hạn, tôi bị truất khỏi chức tổng tham mưu trưởng chính vì tôi phản đối những sự can thiệp như thế. Mặt khác, đối với những chỉ huy quân sự không có đủ khả năng quyết định một mình, những chỉ thị dứt khoát của Stalin lại rất phù hợp với họ. Stalin là người thông minh, từng bước ông tự tìm cho mình những kiến thức và kinh nghiệm quân sự cần thiết. Như vậy, sau trận Stalingrad và đặc biệt là sau trận Kursk, tầm lãnh đạo tác chiến của Stalin tăng tiến rõ rệt“.
Theo Samsonov, chúng ta có thể đánh giá được sự phức tạp trong mối quan hệ giữa Stalin và Zhukov không chỉ qua tập hồi ký của Zhukov. Tập bản thảo đánh máy của Georghi Konstantinovich (4), mang tựa đề “Nói ngắn gọn về Stalin” (có thể đọc tư liệu này tại Kho lưu trữ Học viện Lịch sử trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô…), tuy không có chữ ký, nhưng những đoạn sửa chữa bằng tay của Zhukov đã chứng tỏ tính xác thực của văn bản.
“Tôi cố gắng một cách kiên trì để thấu hiểu con người Stalin. Nhưng rất khó đoán được tính khí của ông. Stalin ít nói và ông thể hiện những suy nghĩ của mình một cách ngắn ngủi. Tôi có cảm giác Stalin, do không có quan hệ trực tiếp với nhân dân, với công việc thường ngày, với hoàn cảnh sống, với suy tư và tình cảm của họ, nên ông chỉ biết đời sống nhân dân thông qua các báo cáo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Người ta thường “tô hồng” các vấn đề khi báo cáo cho Stalin, vì thế, lẽ dĩ nhiên là ông không thấu hiểu tình thế thực sự diễn ra trong đất nước, cũng như ông không thể biết rõ hoàn cảnh sống của nhân dân.
Khi chiến tranh lên đến cực điểm, Stalin cảm thấy việc tổ chức các chiến dịch không phải là sở trường của ông, hơn nữa, dưới tác động những thất bại lớn ở vùng phía Nam đất nước năm 1942, Stalin đề nghị tôi giữ chức vụ phó tổng tư lệnh tối cao. Và tôi phải nói rằng từ giờ phút đó trở đi, hầu như Stalin không tự đưa ra một quyết định gì liên quan đến vấn đề tổ chức các chiến dịch, bao giờ ông cũng thảo luận với tôi. Hầu như trong suốt chiến tranh, tôi được hưởng sự tôn trọng và thiện cảm của Stalin và điều này đã khiến chúng tôi có được những thành công trong việc tổ chức và tiến hành các chiến dịch. Thời gian cuối chiến tranh và đặc biệt là sau cuộc đụng độ ở lòng chảo Kursk, Stalin đã hoàn toàn thông thạo trong các vấn đề quân sự.
Tuy nhiên, tôi phải nhấn mạnh rằng khi các chiến dịch lớn được tiến hành và đạt thắng lợi, Stalin thường tìm cách đẩy những người tổ chức [thực sự] vào sau hậu trường và đưa cá nhân ông lên vị trí hàng đầu. Để làm việc đó, ông hay dùng “mẹo” sau đây. Khi nhận được những báo cáo đầu tiên về tiến trình của chiến dịch đã mở màn, Stalin bắt đầu gọi điện thoại cho Bộ Tham mưu và ban chỉ huy mặt trận, cho Bộ Tư lệnh tập đoàn quân, đôi khi ông còn liên lạc với hạ cấp như Bộ Tư lệnh quân đoàn, và lợi dụng những dữ liệu cuối cùng – về tình hình chiến sự – nhận được từ Bộ Tổng tham mưu, ông hỏi han các thuộc hạ về chiến dịch, ông đưa ra những chỉ dẫn, ông hỏi quân đội cần gì và hứa hẹn, tóm lại Stalin làm ra vẻ như vị tổng tư lệnh tối cao vẫn đứng vững trên vị trí của mình và nắm chắc trong tay quyền điều khiển chiến sự.
Tôi và [nguyên soái] A.M. Vasilyevsky chỉ được biết về những cú điện thoại của vị tổng tư lệnh (5) khi chúng tôi bắt liên lạc với các Bộ Tham mưu mặt trận; Stalin không cho chúng tôi biết và như thế ông đã với tay qua đầu chúng tôi. Và khi chúng tôi đã đánh đuổi quân thù khỏi lãnh thổ đất nước và các chiến dịch được mở ra tại Ba Lan, Hung, phần Đông nước Phổ, Tiệp Khắc và vùng Bessarabia, Stalin ra lệnh giải tán Hội đồng Đại biểu Quân sự, một cơ quan hoạt động ở Đại bản doanh Bộ Tư lệnh Tối cao, tại đó chúng tôi thống nhất việc thực hiện các chiến dịch ở từng trận tuyến. Rồi Stalin hạ lệnh phải chuyển ngay việc chỉ đạo của tất cả các mặt trận vào tay Đại bản doanh.
… Ý định ấy rất rõ ràng. Stalin chủ định chiến thắng vẻ vang trước quân thù phải là chiến thắng của Bộ Tư lệnh do chính ông chỉ đạo. Nghĩa là Stalin muốn lặp lại điều mà Nga hoàng đã làm năm 1813 đối với Kutuzov: vị tướng bị cách chức tổng chỉ huy và Nga hoàng tự lên nắm chức tổng tư lệnh tối cao để có thể phóng ngựa vào Paris, đứng đầu đạo quân chiến thắng đã đập tan quân đội của Napoleon“…
Chú thích – Tham khảo:
(1) Tức là không thua kém gì nguyên soái Zhukov!
(2) Chưa hết, Brezhnev còn là hội viên Hội Nhà văn Liên Xô, mặc dù như nhiều người biết, ông không thể nói mấy câu chúc tụng các đồng sự nhân ngày lễ, ngày sinh nhật… nếu không được thư ký viết sẵn cho trên giấy. Thậm chí, Brezhnev còn được tặng Giải thưởng Lenin (1979) (giải thưởng cao quý nhất về văn học, nghệ thuật ở Liên Xô ngày trước) cho ba cuốn sách “Malaya Zemlia” (Đất nhỏ), “Vozrozh-deniye” (Phục sinh) và “Tselia” (Đất hoang), dĩ nhiên không phải do ông ta viết, trong đó chứa chất đầy rẫy những giả mạo lịch sử (Việt Nam đã dịch và ấn hành bộ sách này).
(3) Đất nhỏ (Malaya Zemlia) là nơi xảy ra một trận đánh ác liệt thời kỳ Thế chiến thứ Hai. Brezhnev là chính trị viên đơn vị quân đội Xô-viết ở đây.
(4) Tức nguyên soái Zhukov.
(5) Trong thời gian chiến tranh, Stalin giữ chức tổng tư lệnh tối cao của quân đội Liên Xô.
III.
Stalin đã có vai trò như thế nào trong cuộc chiến Vệ quốc, dưới cái nhìn của Khrushchev, trước hết là thời kỳ khi Đức chưa và mới tấn công Liên Xô?
Khrushchev bác bỏ huyền thoại mà giới tuyên truyền Liên Xô thời chiến tranh – chiều theo tệ “sùng bái cá nhân” – cho rằng Stalin có vai trò quyết định trong chiến thắng của Hồng quân Liên Xô: Stalin đã tiên đoán trước tất cả, đã vạch ra chiến lược chống Đức theo kiểu “phòng ngự tác chiến” (cho phép lính Đức tràn vào tận Moscow và Stalingrad rồi chuyển thế thủ thành thế công và đánh bại quân thù).
Sự thực, sau khi ký Hiệp ước bất tương xâm với Đức (năm 1939) để chia vùng ảnh hưởng, mặc dù phát-xít Đức đã không giấu giếm ý đồ bá quyền và thôn tính Châu Âu, nhưng Stalin vẫn tỏ ra rất chủ quan, “mũ ni che tai” và sau này, ông ta lại làm như thể Liên Xô đã bị tấn công bất ngờ một cách bội tín.
Stalin đã không hề cảnh giác khi:
– Hitler thiết lập đủ các loại hiệp ước và khối trục, chuẩn bị ráo riết cuộc tấn công chống Liên Xô và tập trung những lực lượng quân sự lớn (trong đó có các quân đoàn thiết giáp) ở dọc biên giới Liên bang Xô-viết.
– Từ đầu tháng 4-1941, thủ tướng Anh Churchill đã cảnh báo Stalin về việc nước Đức Quốc xã chuẩn bị tấn công Liên Xô. sau đó, Churchill còn gửi nhiều điện tín cho Stalin để nhấn mạnh hiểm họa này, nhưng Stalin không hề để ý, thậm chí còn hạ lệnh cho mọi người đừng tin vào những thông tin kiểu ấy để tránh “gây ra những cuộc hành quân”.
– Ngay trước khi quân Đức xâm chiếm lãnh thổ Liên Xô, một công dân Đức đã vượt biên giới và báo tin Đức được lệnh tấn công Liên Xô vào lúc 3 giờ sáng ngày 22-6. Tin này được thông báo ngay cho Stalin nhưng Stalin vẫn hoàn toàn bỏ qua!
– Nhiều nguồn tin quân sự và ngoại giao của Liên Xô (chẳng hạn, từ Berlin, London) cũng đã đưa ra những thông tin tương tự, nhưng ban lãnh đạo đã nhận được lệnh… không được tin vào những nguồn tin đó.
Khrushchev thừa nhận rằng trong những ngày đầu chiến tranh, quân lực Liên Xô được vũ trang tồi tệ, không đủ đại bác, chiến xa và phi cơ để đẩy lùi quân Đức, cho dù trước Đệ nhị Thế chiến, Liên Xô đã có các loại chiến xa và đại bác tuyệt diệu. Có điều, trong thời gian ngắn ngủi, kỹ thuật quân sự Đức đã tiến bộ vượt bậc và Liên Xô thì ở vào trạng thái “ù lỳ” do Stalin chủ trương án binh bất động: vũ khí cũ đã bị loại bỏ, nhưng vũ khí loại mới lại chưa được sản xuất.
Đến nỗi, thời kỳ đầu Thế chiến, chẳng những Liên Xô thiếu chiến xa, pháo binh và phi cơ, mà còn không đủ cả súng trường để cung cấp cho số binh lính mới được điều động.
Chẳng những thế, trước nguy cơ rõ ràng từ phía phát-xít Đức, Stalin còn bỏ qua đề nghị của các tướng lĩnh quân sự Liên Xô – như thiết lập hệ thống đại phòng thủ, di tản cư dân sự khỏi các vùng giáp biên giới, xây dựng những đầu mối phòng ngự… – vì cho rằng những biện pháp như thế chẳng khác gì khiêu khích Đức, khiến quân Đức có cớ tấn công Liên bang Xô-viết.
Ngay cả khi phát-xít Đức thực sự xâm lấn lãnh thổ Xô-viết (qua những tuyến biên giới hầu như bỏ ngỏ), Stalin vẫn ra lệnh không được bắn trả vì tưởng chiến tranh chưa xảy ra, và đây chỉ là hành động khiêu khích của vài đơn vị vô kỷ luật của quân đội Đức, nhằm kiếm cớ tấn công Liên Xô nếu Liên Xô chống trả!
“Thái độ thản nhiên, coi thường những sự kiện rành rành ấy” của Stalin, theo Khrushchev, đã đem lại hậu quả thảm khốc: ngay trong những ngày giờ đầu cuộc chiến, ở các vùng biên giới, quân Đức đã phá hủy phần lớn không quân, pháo binh và các trang bị quân sự khác của Liên Xô, đã sát hại một phần đáng kể các cán bộ quân sự và phá hoại Bộ Tham mưu Quân sự của ta.
Liên Xô đã không ngăn nổi quân thù tiến sâu vào nội địa đất nước, chứ không hề có chuyện là Stalin “sáng suốt” theo chiến thuật “tiêu thổ kháng chiến” mà Kutuzov đã dùng để đánh bại quân Napoleon ngày xưa, để nhử Đức vào sâu trong lãnh thổ Liên Xô rồi mới tiêu diệt.
Đặc biệt, trong văn kiện này, Đảng Cộng sản Liên Xô – thông qua Khrushchev – đã chính thức thú nhận về những vụ thanh trừng đẫm máu trong quân đội vào cuối thập niên 30, khiến Hồng quân suy yếu tột độ và không còn sức chiến đấu khi phát-xít Đức tấn công Liên Xô. Khrushchev cho rằng thời kỳ 1937-1941, do bản tính đa nghi và dựa trên những lời buộc tội bịa đặt, Stalin đã thủ tiêu nhiều cán bộ lãnh đạo quân sự và chính trị: các cuộc đàn áp đã triệt hạ nhiều tầng lớp cán bộ quân sự từ cấp đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng đến những lãnh đạo quân sự cấp cao nhất.
Các nhà lãnh đạo quân sự từng kinh qua chiến trận ở Tây Ban Nha và Viễn Đông đã bị thủ tiêu gần hết; người ta đã gợi ý sĩ quan các cấp, thậm chí cả binh lính trong đảng và trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Komsomol phải “vạch mặt’’ chỉ huy của họ như kẻ thù giấu mặt, khiến kỷ luật quân đội hoàn toàn tan vỡ. Nhiều tướng lĩnh lỗi lạc đã bị giết hại hoặc thiệt mạng trong nhà tù hoặc các trại lao động khổ sai; nhiều người khác, sau này đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến, như các nguyên soái Rokossovky, Maretskov, đại tướng Gorbatov… thì bị tù tội và tra tấn dã man.
Khrushchev kết luận: “Tình trạng ấy đã diễn ra vào đầu cuộc chiến và tạo nên mối hiểm họa lớn cho tổ quốc chúng ta!”.
Ghi chú:
(1) “Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó” (bản tiếng Hung được NXB Kossuth ấn hành năm 1988).
(2) Hiệp ước này, trong thực tế, chia đôi Ba Lan với Đức và nghiễm nhiên cho phép Liên Xô thôn tính Phần Lan, ba nước vùng vịnh Baltic và vùng Bessarabia của Romania; ngược lại, phát-xít Đức được rảnh tay ở phía Tây. Dạo đó, Dân ủy Ngoại giao Liên Xô Molotov từng công khai chào mừng những chiến thắng của Hitler ở Pháp.
(2) Trong hai năm 1937-1038, ba nguyên soái Tukhachevsky, Blucher, Egorov (trên tổng số 5 nguyên soái của Liên Xô); các đại tướng Yakir, Alksnis, Belov, Kachirine, Kork, Uborevich, Eideman, Feldman, Primakov, Putna; các thủy sư đô đốc Orlov, Victorov, Sivkov… đã bị thanh trừng.
Trong năm 1938, tới 98 (trên tổng số 108) thành viên Hội đồng Quân sự (thành lập năm 1934) và nhiều tướng tá khác bị giết hại. Ước tính, có tới 30.000 thượng và hạ sĩ quan bị xử bắn, khoảng 70.000 tư lệnh quân đội bị sa thải và tù đày.
IV.
Ngay ở đoạn mở đầu, Khrushchev đã cải chính huyền thoại cho rằng Stalin cũng quyết tâm chiến đấu đến cùng và do đó, đã củng cố được tinh thần quân đội và nhân dân (Huyền thoại này cũng đã được chính con gái Stalin cải chính và về sau, để không ai biết đến việc mình mất lòng tin, Stalin đã tìm cách thủ tiêu tất cả những nhân chứng từng chứng kiến sự thật ngày đó).
Như lời Khrushchev, sau những thất bại và những tổn thất khốc hại đầu tiên ở chiến trường, Stalin đã mất lòng tin và tưởng rằng Liên Xô đã lâm vào đường cùng: “Trong một bài diễn văn hồi đó, Stalin tuyên bố: “Chúng ta đã đánh mất vĩnh viễn tất cả những gì Lenin tạo ra”. Cũng theo Khrushchev, “trong một thời gian dài, trong thực tế Stalin không điều khiển các cuộc hành quân, nói chung đồng chí ấy không làm gì cả.
Stalin chỉ nắm lại quyền chỉ huy quân sự sau khi một số Ủy viên Bộ Chính trị tới gặp đồng chí ấy, yêu cầu thi hành cấp tốc một số biện pháp để cải thiện tình hình ngoài trận tuyến. Như thế, mối nguy hiểm khôn lường đe dọa tổ quốc chúng ta trong thời kỳ đầu chiến tranh, phần lớn bởi Stalin đã thực hiện những phương pháp sai lầm trong việc điều khiển đảng và nhà nước”.
Tuy nhiên, Khrushchev cho rằng cá nhân Stalin không chỉ “phá hủy trầm trọng quân đội và gây ra nhiều thiệt hại nặng nề” khi cuộc chiến tranh mới nổ ra: theo ông, về sau này, “sự mất bình tĩnh và chuyện Stalin can thiệp loạn xạ vào công việc chỉ đạo quân sự cũng làm quân đội ta bị thiệt hại nhiều”. Một số yếu kém của Stalin trong quân sự được Khrushchev nêu ra, như sau:
– Stalin hoàn toàn không hiểu những sự kiện diễn ra ở trận tuyến vì một lý do đơn giản: “trong suốt thời kỳ chiến tranh vệ quốc, Stalin không hề đi kinh lý một trận tuyến nào, hay một thành phố nào vừa được giải phóng, ngoại trừ một cuộc thăm viếng đoạn đường ngắn trên quốc lộ Mojaisk, khi tình thế đã ổn định trên trận tuyến”. (Khrushchev còn phê phán giới văn nghệ sĩ “cung đình” Liên Xô thời ấy, đã “thêm thắt mọi thứ chuyện bịa đặt” và tốn nhiều giấy mực để “tụng ca” cho chuyến đi duy nhất ấy).
– Stalin can thiệp vào việc thực hiện những cuộc hành quân, đưa ra các mệnh lệnh không căn cứ vào tình hình thực tế của trận tuyến, đem lại rất nhiều tổn thất không thể tránh khỏi cho quân đội Liên Xô. (Trong phiên họp, Khrushchev đã kể lại một trường hợp – với sự chứng thực của các nguyên soái lừng danh như Nguyên soái Bagramian (chỉ huy các cuộc hành quân ở Tổng hành dinh mặt trận phía Tây Nam) và Vasilyevsky (một yếu nhân của Bộ tổng chỉ huy quân đội Xô-viết trong chiến tranh) – mà sự can thiệp vô lý của Stalin (không cho phép quân đội Liên Xô, khi đó đang bị đe dọa bao vây và tiêu diệt, được rút quân), bất chấp sự can ngăn của các lãnh đạo quân sự, đã khiến hàng ngàn người lính thiệt mạng oan uổng).
– Stalin “vốn không hề để tâm đến những vấn đề căn bản của nghệ thuật lãnh đạo quân sự”, nên các sách lược của ông đã khiến Liên Xô “hao tổn nhiều xương máu, cho đến lúc chúng ta ngăn chặn được quân thù và chuyển sang phản công”. Khrushchev đưa ví dụ: ngay từ cuối năm 1941, đáng lý phải đẩy mạnh cuộc tổng hành quân đánh chặn ngang quân địch để tiến vào hậu tuyến của chúng, Stalin lại ra lệnh đánh trực diện để chiếm từ vùng này sang vùng nọ, khiến quân đội Liên Xô chịu nhiều tổn hại nặng nề, “cho đến khi các đại tướng của ta – hai vai mang mọi gánh nặng của chiến tranh – đã biến đổi tình hình và chuyển sang những cuộc hành quân mềm dẻo hơn, mang lại những thay đổi lớn tức thì, có lợi cho chúng ta”.
– Stalin, với bản tính đố kỵ và ghen ghét người tài, “sau những chiến thắng lớn, phải trả bằng giá rất đắt”, “lại đặt dấu hỏi về công trạng của nhiều nhà chỉ huy quân sự, những người đã có công đánh bại quân thù” vì ông “không thể chấp nhận việc những công lao ở mặt trận lại có thể do người khác làm nên”, theo lời Khrushchev.
Chẳng hạn, như về Nguyên soái Zhkov, vị thống chế vĩ đại nhất của Đệ nhị Thế chiến, Stalin luôn đố kỵ và gieo tắc những tiếng xấu nực cười, như bảo Zhukov, trước mỗi cuộc hành quân, lại vớ một nắm đất, đưa lên mũi ngửi rồi nói: “Chúng ta có thể tấn công” hoặc ngược lại: “Chưa thể thực hiện kế hoạch dự định!”. Khruschev cho rằng “có thể chính Stalin đã bịa đặt ra những chuyện kiểu ấy để hạ thấp vai trò và tài năng quân sự của Nguyên soái Zhukov”.
– Đồng thời, theo Khrushchev, Stalin đã chủ tâm tăng cường sự sùng bái cá nhân ông ta bằng cách “rất sốt sắng tự tỏ ra mình là một tướng lĩnh giỏi”: “Bằng những phương cách khác nhau, Stalin đã gieo rắc trong đầu óc quần chúng ý nghĩ rằng mọi chiến thắng của đất nước Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đều do lòng quả cảm, sự can đảm và thiên tài lỗi lạc của Stalin”.
Một lần nữa, Khrushchev phê phán thái độ xu nịnh của một số văn nghệ sĩ Xô-viết, đã sáng tác vô số phim ảnh lịch sử và quân sự, cũng như các tác phẩm văn học, để tụng ca thiên tài quân sự của Stalin. Điển hình của “thể loại” “nghệ thuật” cung đình ấy là bộ phim “Berlin thất thủ” (*) mà trong đó, “không thèm để tâm đến thực tế và sự thực lịch sử, người ta muốn bao bọc Stalin trong vầng hào quang”.
Khrushchev châm biếm: “Trong đó, Stalin là nhân vật duy nhất hành động; đồng chí ấy ra lệnh trong một gian phòng có nhiều ghế bỏ trống, chỉ có một người đến gần Stalin và báo cáo gì đó. Người đó là Poskrebyshev, kẻ hầu cận trung thành của Stalin (**)”.
Kết luận, Khrushchev nhấn mạnh: “Trong cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại, chiến thắng không phải là sản phẩm của Stalin, nó thuộc về toàn đảng, toàn chính phủ Liên Xô, thuộc về quân đội anh hùng, thuộc những tướng lĩnh tài ba và những người lính quả cảm, thuộc về toàn thể nhân dân Xô-viết”.
*
Qua bốn kỳ báo, chúng tôi đã tổng hợp những ý kiến của hai cộng sự của Stalin, là Nguyên soái Zhukov và người kế nghiệp ông, Nikita Khrushchev về “thiên tài quân sự” của vị “đại nguyên soái” (danh hiệu Stalin tự tấn phong cho mình).
Sau khi Liên Xô chủ trương cải tổ vào giữa thập niên 80 thế kỷ trước, và nhất là sau những biến cố 1991-1993, các kho lưu trữ mật ở Moscow được phần nào rộng mở, chúng ta đã có thể tiếp cận những nguồn thông tin chính xác và khả tín hơn về nhân vật lèo lái Liên bang Xô-viết trong vòng 30 năm.
Là một gương mặt lớn của lịch sử nước Nga – Xô-viết, nhưng sinh thời, Stalin đã phạm phải vô số sai lầm khủng khiếp mà việc đánh giá chúng một cách toàn diện và rốt ráo, hơn 50 năm sau ngày ông mất, vẫn là nhiệm vụ của giới sử học thế giới.
Ghi chú:
(*) Của đạo diễn Michel Chiaureli, quay năm 1949. Trong phim, Nguyên soái Zhukov – người lãnh đạo Hồng quân chinh phục Berlin – chỉ xuất hiện một vài phút để nhận mệnh lệnh của Stalin.
(**) Poskrebyshev là thư ký riêng của Stalin.
Trần Lê – Tổng hợp theo các tài liệu tiếng Hung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét