10 tháng 7, 2012

Vua Cảnh Thịnh chết thảm 'bị bốn voi xé xác, phanh thây'

Vua Cảnh Thịnh bị bắt giữ bởi một người điên

Vua Cảnh Thịnh tên thật là Nguyễn Quang Toản, con trưởng của vua Quang Trung. Đến giữa năm Nhâm Tuất (1802) liên tiếp thất bại trước các cuộc tấn công của quân Nguyễn Phúc Ánh, Quang Toản phải bỏ kinh đô Phú Xuân, chạy ra Bắc rồi bị bắt và bị xử tử thảm khốc.

Ít người biết rằng mặc dù truy lùng gắt gao nhưng quân Nguyễn Phúc Ánh không bắt được vua Cảnh Thịnh mà phải nhờ đến sự trợ giúp của một “người điên” cầm đầu một đám ăn mày ở Lạng Giang (nay thuộc huyện Lạng Giang, Bắc Giang). Sách Quốc Sử Di Biên viết: “Tổng trưởng An Mẫu là Vũ Thám và Trần Huy Dao ở Kinh Than đem hào mục hai huyện Phượng Nhãn, Lục Ngạn đến vây, 3 ngày không bắt được… Toản, Thiệu cưỡi voi vào ẩn trong rừng sâu. Lúc ấy có tên “thị cuồng” (kẻ điên ở chợ) hét voi đứng lại, tổng Thám sấn vào, bắt được Toản, Thiệu đem dâng đại quân … Tên “thị cuồng” trước trú ngụ ở chợ Thương, nuôi vài mươi kẻ ăn xin, sớm tối cầm canh, đánh kẻng sành để làm hiệu lệnh. Đến bây giờ được thưởng 3 mẫu ruộng, được ban tên là Trung Nghĩa”.
 
Vị hoàng đế phải chịu cái chết thảm khốc đó là Cảnh Thịnh, vua cuối cùng của nhà Tây Sơn.
Vua tên là Nguyễn Quang Toản, con thứ của vua Quang Trung, lên ngôi tháng 9 năm Nhâm Tý (1792), ở ngôi 10 năm, sau khi kinh đô Phú Xuân bị thất thủ, ông chạy ra Bắc nhưng bị Gia Long Nguyễn Phúc Ánh bắt và giết vào ngày 7 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1802).

Trước khi chết, vua Cảnh Thịnh phải chứng kiến cảnh thi thể của vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc), Quang Trung (Nguyễn Huệ) cùng vợ con và nhiều người khác bị quật lên, ghép xương cốt lại thành hình người rồi bỏ vào bồ lớn; quân lính nhà Nguyễn được lệnh đi tiểu vào đó rồi mang xương bỏ vào cối giã vụn.

Cuối cùng Cảnh Thịnh bị bịt mồm bằng rẻ rách để khỏi kêu la, tay chân cột căng bằng dây vào 4 con voi, voi bị thúc chạy về 4 phía xé nát thân thể vua làm 4 mảnh. Thịt da sau đó bị róc, xương bị chặt làm 5 phần đem phơi bày tại 5 chợ trong kinh thành vừa để trả thù, vừa để khủng bố tinh thần những người còn ủng hộ triều Tây Sơn. Các xương sọ của ba vua Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh sau đó bị bỏ vào ba cái vò sành đem giam vào nhà ngục phủ Thừa Thiên.

Tại sao vua Gia Long 'quá hiếu sát' nhà Tây Sơn?

Vua Gia Long (Nguyễn Ánh) không hề che đậy sự tàn bạo, hiếu sát nhà Tây Sơn, khi tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù".
Việc trả thù Tây Sơn của Nguyễn Ánh về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của ông.

Tận pháp trừng trị
Vua Gia Long (1762-1820) là vị hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh, trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
Sau khi tạm ổn định tình hình, ngày 2 tháng 5 Nhâm Tuất (1802), Nguyễn vương Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi (chưa chính thức), lấy niên hiệu Gia Long, nguyên niên ở Kinh Thành Phú Xuân và sau đó đưa đại quân ra Bắc để tiêu diệt vua Tây Sơn Bảo Hưng. Ngày 23 tháng 6 năm Nhâm Tuất, vua Gia Long vào thành Thăng Long, thanh toán xong triều Tây Sơn. Mùa đông năm Nhâm Tuất, sau khi bắt sống vua Bảo Hưng Nguyễn Quang Toản, xa giá vua Gia Long từ Thăng Long trở về Phú Xuân và “tận pháp trừng trị” vua quan Tây Sơn…

Vua Gia Long.

Sách Đại Nam thực lục chính biên chép: Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác, đầu bị bỏ vào vò và giam trong ngục. Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết ngay sau khi bị bắt; chưa kể 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì.

Lăng mộ nhà Tây Sơn như các lăng của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã nát quăng đi, đầu ba vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Cảnh Thịnh) và bài vị vợ chồng Nguyễn Huệ thì bị giam trong ngục tối.
Nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái bị voi giày, chồng bà là Trần Quang Diệu do trước đó đã có lần tỏ ra khoan thứ cho quân Nguyễn nên xin được Nguyễn Ánh tha cho mẹ già 80 tuổi trước khi bị xử chết... Các quan văn khác của Tây Sơn như: Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích ra hàng thì cho đánh đòn và được tha về. Riêng Ngô Thì Nhậm bị Đặng Trần Thường trước có thù riêng nên cho người đánh chết.

Chiếu Bộ luật Gia Long
Triều đại Gia Long được đánh dấu bằng việc chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam với cương thổ rộng lớn nhất cho đến thời đó, kéo dài từ biên giới với Trung Quốc tới vịnh Thái Lan; thay thế các cải cách có xu hướng tự do của triều Tây Sơn bằng nền giáo dục và điều hành xã hội theo Nho giáo khắc nghiệt hơn; định đô tại Phú Xuân. Ngoài ra, ông còn là người mở đường cho các ảnh hưởng của người Pháp ở Việt Nam qua việc mời họ giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo Cơ đốc. Dưới triều đại của ông, Việt Nam trở thành một thế lực quân sự hùng mạnh ở Đông Dương, cùng Xiêm La phân chia ảnh hưởng đối với Chân Lạp.
Bộ luật Gia Long thời Nguyễn có điều luật 223: Phàm kẻ mưu phản và đại nghịch và những kẻ cùng mưu, không phân biệt thủ phạm hay tòng phạm đều lăng trì xử tử (róc thịt, phanh thây, tùng xẻo)… Lăng trì là một trong những hình phạt dã man được dùng rộng rãi ở thời xưa, chính thức bỏ từ năm 1905. Phạm nhân vô cùng đau đớn vì bị xẻo từng miếng thịt trên người, đao phủ phải giữ cho tử tội không chết nhanh, để biết đớn đau theo từng nhát xẻo và đủ số nhát xẻo thì tội nhân mới được chết.
Điều 225 của Bộ luật Gia Long cũng quy định những ai viết câu yêu thư, yêu ngôn đều bị tru di tam tộc -là một hình phạt tàn bạo thời phong kiến. Tru và Di đều mang nghĩa giết sạch, tam tộc là ba họ gồm: họ cha, họ mẹ, họ vợ. Hình phạt tru di tam tộc được áp dụng cho những tội phạm khi quân, phản quốc. Khi bị kết án tru di tam tộc, những người trong cả 3 họ của người phạm tội, từ trẻ đến già đều bị diệt. Họ nhà mẹ và họ nhà vợ, bao gồm cả họ hàng của mẹ kế và vợ lẽ cũng bị tru di. Nếu mẹ kế và những người vợ lẽ của phạm nhân đã qua đời, trước khi kết án, thì họ hàng của họ vẫn phải thụ án.

Trong lịch sử phong kiến, khi xảy ra án tru di tam tộc, thường có nhiều người với họ khác nhau bị giết một lúc. Nhiều người có quan hệ họ hàng khá xa với phạm nhân cũng bị chết cùng. Những người cùng họ của phạm nhân, may mắn trốn thoát nơi xa, mai danh ẩn tích, đổi sang họ khác. Sự truy nã của triều đình phong kiến đối với những người này kéo dài nhiều năm và chỉ dừng lại khi có lệnh cải chính chính thức của triều đình. Vì thế có người sau nhiều năm trốn tránh vẫn bị bắt giết.
Cũng theo Bộ luật Gia Long, hình phạt voi giày áp dụng cho các tử tội, thường là phạm tội nặng với triều đình. Voi sử dụng để hành quyết thường là voi châu Á được huấn luyện thuần thục. Tội phạm thường bị voi dùng chân dẫm lên cơ thể, dùng vòi cuốn đưa lên cao và quật xuống đất. Người ta điều khiển voi làm cho nạn nhân chết nhanh hoặc chết từ từ để hành hạ...

Vua có lạm sát?

Minh chứng là với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm, nhưng khi đã lấy được thiên hạ năm 1802, vua vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh.

Theo Đại Nam thực lục chính biên, trước là khi đại giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai ai cũng sợ bị giết. Vua thấu rõ tâm tình, xuống chiếu dụ rằng: "Tiên đế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay, trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo cho nhau, họp chọn lấy một người trưởng họ, giữ việc thờ cúng để giữ tình nghĩa đời đời".

Tiếp đến, La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, được coi là Gia Cát Lượng của vua Quang Trung, được vua Gia Long tha mạng và ra chỉ dụ rằng: "Khanh là người tuổi tác, đạo đức, rất được người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo léo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta".

Năm 1803, phái đoàn do vua Cảnh Thịnh phái đi sứ Nhà Thanh (gồm Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và Vũ Duy Nghi) bị trả về nước, bị quan Bắc thành bắt giải về kinh, vua Gia Long tha hết cho về quê. Lại khi Bộ hình tâu xin vua định đoạt số phận của người vợ lẻ Nguyễn Nhạc cùng 2 người em họ tên Đại và Vạn bị bắt thì vua nói: “Vợ lẻ Nhạc là một người đàn bà thôi. Bọn Đại tuy là thân đảng của giặc Nhạc mà không dự binh quyền, nay Nhạc chết rồi, giết đi thì có ích gì?”.

Như vậy, vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Tùy theo từng người, từng trường hợp mà vua quyết định tha hay phạt... Vậy gốc rễ khiến vua ra tay cực kỳ tàn bạo với nhà Tây Sơn là bắt nguồn từ đâu? Theo nhiều nhà nghiên cứu hiện đại, cuộc báo thù này có hai mục đích: Thứ nhất, để trả thù cho những việc Tây Sơn gây ra với gia tộc và bản thân Nguyễn Ánh trước kia, vua cho phá lăng mộ các chúa nhà Nguyễn, giết chết người thân...; và thứ hai, dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê -Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mới.

Tại sao anh em nhà Tây Sơn 'nồi da xáo thịt'? (kỳ 1)

Ba anh em nhà Tây Sơn, từ nhỏ đến lớn, đối với nhau trọn niềm thương yêu. Vậy, nguyên nhân nào khiến Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rạn nứt tình cảm?
Kỳ 1: Tây Sơn tam kiệt

"Tây Sơn tam kiệt" là tên gọi dành cho ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Theo sử sách, tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ (sách Hoàng Lê nhất thống chí cho rằng, nhà Tây Sơn thuộc dòng dõi Hồ Quý Ly) ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Tổ quán ở dưới chân hòn Thái Sơn, một hòn núi nhỏ đứng bên cạnh hòn Ðại Hải, một danh sơn tỉnh Nghệ An.

Tây Sơn tam kiệt tại Nhà Bảo tàng Quang Trung - Tây Sơn. Ảnh: Báo Bình Định

PGS.TS sử học Đỗ Bang viết trong cuốn Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung: Đến đời ông Hồ Phi Phúc, người sinh thành ra anh em Tây Sơn vẫn là họ Hồ. Vậy, tại sao các con ông đều mang họ Nguyễn? Theo truyền miệng của người dân Bình Định, có một thuở, dân ở đây sinh con lấy họ mẹ là phổ biến để cắt nghĩa việc đổi thành họ Nguyễn của các anh em Tây Sơn cùng họ với thân mẫu là Nguyễn Thị Đồng.

Tuy nhiên, cũng có nguồn tài liệu sưu tầm ở địa phương và đã có lần được biên chép cho rằng: Thuở nhỏ, anh em Tây Sơn có học với một thầy giáo xứ Huế là Giáo Hiến. Do bị Trương Thúc Loan trù dập, hăm diệt, Giáo Hiến trốn vào phủ Quy Nhơn, mở trường dạy học ở đất An Thái. Giáo Hiến mang hoài bão, ý chí của mình truyền lại cho lớp môn sinh. Ông đã khám phá ra tài năng khác thường của anh em Tây Sơn nên hết lòng đầu tư cho sự nghiệp lớn về sau.

Chưa kể, vì quá tin vào lời sấm truyền: Tây khởi nghĩa, Bắc thu công/ Phụ nguyên phục thống, Giáo Hiến đã nói với anh em Nguyễn Huệ: “Các con là người của đất Tây Sơn, Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở miền Bắc và hết lòng giúp chúa Nguyễn để phục hồi nền nhất thống.... Các con nên đổi thành họ Nguyễn để có danh nghĩa lập công”. Từ đó, anh em Tây Sơn từ họ Hồ đổi ra họ Nguyễn.

Cây Me cổ thụ đã gắn bó với cuộc sống của Tây Sơn Tam kiệt từ lúc sinh ra đến khi dấy binh khởi nghĩa lập nên triều Tây Sơn. Ngày 28/11, cay Me đã chính thức được công nhận là "Cây di sản VN".

Mọi tài liệu đều cho thấy, trong Tây Sơn tam kiệt, Nguyễn Nhạc là anh cả, nhưng Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ ai là anh thì các tài liệu không thống nhất với nhau. Các sử sách của nhà Nguyễn và biên chép dưới thời Nguyễn cũng khác nhau. Các sách Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam chính biên liệt truyện, Tây Sơn thuỷ mạt khảo... đều thống nhất ngôi thứ trong ba anh em Tây Sơn và khẳng định: “Con trưởng là Nhạc, kế là Lữ, kế nữa là Huệ”, trong khi đó Khâm Định việt sử thông giám cương mục thì xếp theo thứ tự Nhạc - Huệ - Lữ.
Dân phủ Quy Nhơn xưa lưu truyền rằng, Nguyễn Nhạc thuở đi buôn trầu nên gọi là anh Hai Trầu, Nguyễn Huệ gọi là chú Ba Thơm và Nguyễn Lữ gọi là thầy tư Lữ, vì có thuở Lữ đi tu theo đạo Hồi Bani (Islam Bani). Thế nhưng, trong sách Tây Sơn tiềm long lục, Nguyễn Bá Huân lại ghi: xét công trạng của Nguyễn Huệ ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa thì Huệ phải là em kế Nguyễn Nhạc.

Các giáo sĩ phương Tây đương thời có mặt trên đất nước ta như Labartette chép: Anh cả là Thoi Đức (tức Thái Đức - Nguyễn Nhạc), còn hai ông hoàng là Đức ông Bai (Đức ông Bảy - Nguyễn Huệ) và Đức ông Tám (Nguyễn Lữ).

Lê Trọng Hàm trong sách Minh đô sử lại cho rằng, Hồ Phi Phúc sinh "Nhạc, Lữ đến hai cô con gái, rồi mới tới Huệ". Củng cố minh chứng này, Đại Nam chính biên liệt truyện viết: Một trong hai chị gái của Nguyễn Huệ được sách sử tiết lộ vào năm 1792. Khi hay tin vua Quang Trung chết, một đoàn gia nhân và quan lại hơn 300 người do Nguyễn Nhạc cầm đầu từ Quy Nhơn ra Phú Xuân để dự lễ quốc tang, đều bị quan quân Cảnh Thịnh chặn lại trên đất Quảng Ngãi, chỉ trừ một mình cô em gái Nguyễn Nhạc được phép ra Phú Xuân.

Theo một tài liệu được công bố tại Hội thảo về Tây Sơn, gia đình Nguyễn Nhạc có ít nhất 4 anh em trai, anh đầu là Nguyễn Quang Hoa. Quang Hoa có thể do bị chết sớm hoặc vì lý do nào đó không tham gia lãnh đạo phong trào Tây Sơn, nên không được sử sách ghi lại. Trong những năm đầu tiên, Nguyễn Nhạc đóng vai trò quan trọng nhất. Ông phất cờ nổi dậy vào năm 1771, lấy danh nghĩa chống lại Quốc phó Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương - cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát...

Sách Võ nhân Bình Định nêu rõ, trong thời gian chuẩn bị cho đại sự, Nguyễn Nhạc đã tỏ ra là một nhà lãnh đạo tài ba, đã biết phát triển kinh tế làm cơ sở; đoàn kết các sắc tộc làm liên minh và nhất là đối với các đồng chí rất có tình có nghĩa. Ông luôn tỏ rõ thái độ nhưng hòa, xử sự có tình nhưng không bỏ lý, nên mọi người rất mực tôn kính. Nhờ vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn, nhà Tây Sơn đã lập nên cơ sở vững chắc.

Tại sao anh em nhà Tây Sơn 'nồi da xáo thịt'? (kỳ 2)

Có rất nhiều giả thuyết về nguyên nhân gây ra xích mích giữa hai anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ. Thực hư chuyện này thế nào?

Kỳ 2: Huynh đệ tương tàn

Theo sách Nhà Tây Sơn, từ ngày cha tạ thế, Nguyễn Nhạc lo vẹn đạo làm anh. Ðối với hai em, chẳng những yêu thương vì ruột thịt, mà còn quý trọng đức tài. Còn Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ thì yêu kính anh như cha, nhất nhất đều tuân theo mệnh lệnh.

Thế nhưng, "cha mẹ sinh con, trời sinh tính", Nguyễn Lữ lấy việc sửa mình thương người làm gốc, còn giàu sang, thua được là chuyện ngoài thân. Nguyễn Nhạc tuy thiệp thế đa mưu, song có phần bảo thủ, cầu an. Khi chưa có thì xông Nam đột Bắc, đến khi có rồi thì bao nhiêu bo bo giữ bấy nhiêu và chấp vào những gì mình đã có. Trong khi đó, Nguyễn Huệ tài trí vượt hẳn anh; khi còn ở dưới quyền anh thì triệt để phục tùng. Khi con chim đã nuôi đủ sức gió để quạt cánh lên chín tầng mây thì không còn ai có thể kiềm chế...
Tại sao anh em nhà Tây Sơn 'nồi da xáo thịt'?

Như vậy, sách Nhà Tây Sơn đã chỉ rõ, tính cách của Nguyễn Nhạc là "tĩnh", còn Nguyễn Huệ là "động". Và đó là nguyên nhân gây ra cảnh "huynh đệ tương tàn". Cụ thể, sự rạn nứt bắt đầu từ ngày Tây Sơn chiếm được Phú Xuân, rồi đánh ra Thăng Long. Vào thời điểm đó, sau khi dẹp yên Gia Ðịnh, Nguyễn Huệ đề nghị đem quân đánh Phú Xuân. Vì không rõ quân chúa Trịnh mạnh yếu thế nào, nên Nguyễn Nhạc không ứng thuận. Sau Nguyễn Hữu Chỉnh cho biết rõ tình hình, Nguyễn Nhạc mới cho xuất chinh. Lấy được Phú Xuân, Nguyễn Huệ tự tiện đem quân ra đánh Bắc Hà. Nguyễn Nhạc không bằng lòng, song không lấy cớ gì để bắt tội em được, nên chỉ gọi em về.

Lại nói Nguyễn Huệ, về Phú Xuân, ông cho chở tất cả chiến lợi phẩm thu được ở Bắc Hà tới Quy Nhơn, còn mình thì lấy cớ Thuận Hóa mới lấy được, cần củng cố nhân tâm và sửa sang chính sự, nên xin ở lại Phú Xuân. Nguyễn Nhạc đành phải chấp nhận, tuy không lấy làm vừa lòng. Ðến khi Nguyễn Huệ được phong Bắc Bình Vương, nắm quyền quản thủ đất Thuận Hóa, thì tự ý sửa sang thành quách, phong thưởng võ tướng văn quan, mà không tấu trình theo phép nước. Chưa kể, nhiều lần, Nguyễn Nhạc gọi Huệ vào Quy Nhơn, nhưng ông luôn luôn tìm cớ thoái thác.

Vì nhận thấy quyền làm anh đối với em, quyền làm vua đối với bề tôi đã bị xem khinh, Nguyễn Nhạc cử binh ra Phú Xuân hỏi tội. Nghe tin, ông Huệ vỗ án nói: "Tội gì mà hỏi? Ðánh Nam dẹp Bắc để giữ vững ngôi báu cho anh, đó là tội à? Còn đất Thuận Hóa này là của ta lấy nơi tay Chúa Trịnh. Ta thọ phong chẳng qua vì tình anh em đó thôi. Chớ đâu phải anh ta cắt đất của mình phong cho ta, mà bắt ta nhất nhất phải tuân theo mệnh lệnh? Công có lại quên, tội không có lại buộc! Sao lại bất công thế. Ta không chịu nổi". Và rồi Nguyễn Huệ thân hành đem quân ra chống cự.

Nguyễn Nhạc thấy em ra mặt bất phục tùng, càng nổi giận thêm. Không một lời phân trần, hai bên giáp chiến. Ðánh nhau kịch liệt. Lần lần Nguyễn Nhạc đuối sức phải rút lui. Nguyễn Huệ truy kích. Nguyễn Nhạc rút quân vào thành Quy Nhơn, cố thủ. Nguyễn Huệ công vi cả tháng mà không hạ nổi thành, bèn đánh chiếm núi Long Cốt, rồi kê súng đại bác trên núi bắn vào thành. Những nơi hiểm yếu trong thành bị phá. Nguyễn Nhạc liệu không giữ mãi được, bèn lên mặt thành kêu Nguyễn Huệ mà khóc: "Bì oa chử nhục, đệ tâm hà nhẫn".

Nghe tiếng gọi của anh, Nguyễn Huệ òa lên khóc, rồi bãi binh. Nguyễn Huệ nhận chức Bắc Bình Vương của vua anh phong. Hai anh em lấy Bản Tân làm ranh giới, từ Thăng Hoa, Điện Bàn ra Bắc thuộc Nguyễn Huệ, từ Quảng Ngãi trở vào thuộc vua Thái Đức. Còn Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.
Bàn về nguyên nhân xích mích giữa hai anh em nhà Tây Sơn, nhiều nhà làm sử nói rằng: Nguyễn Nhạc thông gian với vợ của Nguyễn Huệ và giữ hết những của cải lấy được ở Thăng Long, nên Huệ giận... Song, sử liệu ghi rõ, Nguyễn Huệ có ba bà vợ chính thức: bà họ Phạm ở Phú Phong, mẹ ông Nguyễn Quang Thùy; bà họ Bùi ở Xuân Hòa, mẹ ông Nguyễn Quang Toản và bà Ngọc Hân công chúa con gái Vua Lê. Lúc ông Huệ trấn thủ Thuận Hóa thì bà họ Phạm qua đời đã lâu, bà họ Bùi theo chồng ra Phú Xuân, còn bà Ngọc Hân thì còn ở Thăng Long. Do đó, Nguyễn Nhạc thông gian với bà nào? Hơn nữa, của cải lấy được ở Thăng Long, thì có thấm vào đâu so với đất đai từ Phú Yên đến Hà Tiên Phú Quốc. Ðất kia còn để cho anh cho em không chút tiếc, nên giải thuyết trên là hoàn toàn sai.

Có người lại bảo: Nguyễn Phúc Ánh muốn chia rẽ hai anh em nhà Tây Sơn, bèn lập kế ly gián. Nguyễn Phúc Ánh dùng kế mỹ nhân, tìm một thiếu nữ châu Âu tuyệt đẹp đem dâng cho Nguyễn Huệ và tin cho Huệ biết trước, nhưng lại đem dâng cho Nguyễn Nhạc, rồi báo cho Huệ biết rằng đi ngang qua Quy Nhơn, bị Nhạc chận cướp. Huệ đã giận kéo quân vào đánh anh. Nhưng xét việc bất hòa của anh em nhà Tây Sơn xảy ra vào năm Ðinh Mùi (1787) và lúc ấy Nguyễn Phúc Ánh còn ở Xiêm La, đất Gia định nằm trong tay nhà Tây Sơn, do Nguyễn Lữ trấn thủ. Nguyễn Ánh về nước mùa thu năm Ðinh Mùi, bị tướng sĩ Nguyễn Lữ đánh liên tiếp mãi đến năm Kỷ Dậu (1789) mới lấy được Gia Ðịnh. Nguyễn Phúc Ánh lo chống cự với Nguyễn Lữ chưa xong thì làm gì còn tâm trí bày mưu ly gián Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ... Giả thuyết này cũng không thuyết phục.

Vậy, tại sao Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ "nồi da xáo thịt"? Các nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng, không có gì khác hơn là lòng tự ái. Anh cậy quyền làm lớn, em cậy có công to. Vì nhất thời nóng nảy, nên mới sinh chuyện. Song, một giọt máu đào hơn ao nước lã, họ vốn tình nghĩa nên không thể chia cắt...

4 tháng 7, 2012

VẤN ÐỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VIỆT SỬ

Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu
Phần I: Sách sử thời Trung cổ trở về trước
Phần II: Việc Nghiên Cứu Thời Cận Ðại (1800-1975)
Phần III. Việc nghiên cứu thời Hiện Ðại
Phần phụ lục
II. VIỆC NGHIÊN CỨU THỜI CẬN ÐẠI (1800-1975):
Giai đoạn trước 1975, việc nghiên cứu sử học đã có nhiều nguồn tư liệu hơn để làm việc. Tài liệu đáng tin cậy nhất, dĩ nhiên, là tài liệu văn khố. Nhiều nhà nghiên cứu sử học chuyên nghiệp đã sử dụng tài liệu văn khố Pháp, Mỹ và Liên Sô. Mới đây, văn khố Hội truyền giáo Hải ngoại cũng đã mở rộng, sau nhiều thập niên “cho người chết ngủ yên.” Ngoài ra, người ta có thể sử dụng các báo chí đương thời xuất bản tại Ðông Dương, Nga, Trung Qu ốc, Nhật, hay Hong Kong. Một số hồi ký bằng Hán ngữ, Pháp ngữ, Anh ngữ và Việt ngữ cũng có thể sử dụng.
A. TÀI LIỆU VĂN KHỐ:
Văn khố có nhiều loại. Chính yếu và quan trọng nhất là những tài liệu do chính quyền thu thập và soạn thảo, được lưu trữ và bảo quản để tiện theo dõi sự thi hành các chính sách hoặc kế hoạch hoạt động thuộc mọi ngành. Ðây là những tài liệu cực kỳ quan trọng cho các nhà nghiên cứu. Mỗi cơ quan chính phủ đều có một văn khố. Những tổ chức, hội đoàn có cấu trúc chặt chẽ như Hội Truyền Giáo, nghiệp đoàn hàng hải, v.. v... cũng có văn khố riêng. Mỗi nhân vật tên tuổi cũng vậy. Mặc dù các viên chức hành chính hay quân sự, hay các tác nhân có thẩm quyền, vì những lý do dễ hiểu, đôi khi chủ quan, hoặc vì áp lực thư lại, có thể không viết hết sự thực, nhưng những kẽ hở này có thể loại bỏ hoặc bổ túc bằng các tài liệu khác, theo phương pháp tỉ đối (tức so sánh) và tổng hợp.
Ngoài ra, còn những thủ bút của các tác nhân lịch sử mà tính chất khả tín khó ai có thể bài bác. Hai lá thư xin nhập học trường Thuộc Ðịa của Nguyễn Tất Thành năm 1911, hay thư Giám mục Ngô Ðình Thục gửi Toàn quyền Jean Decoux ngày 21/8/1944 van xin Decoux nghĩ đến công lao hãn mã của Ngô Ðình Khả và họ Ngô mà nhẹ tay với Ngô Ðình Diệm, Khôi, Nhu, v.. v.. chỉ là vài thí dụ cụ thể. Toàn bộ báo cáo của Giám mục Paul Puginier gửi các viên chức thuộc địa Ðông Dương tại Văn khố Hội Truyền giáo Hải ngoại Pháp là một thí dụ khác. Bởi thế, với những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, tư liệu văn khố được xếp loại ưu tiên và khả tín hàng đầu.
Văn khố Việt không được bảo quản cẩn thận. Bởi thế không những một số “Châu Bản” nhà Nguyễn bị mục nát dần, mà ngay tư liệu của các chế độ Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa cũng chịu chung số phận. Những tư liệu của Ðảng CSVN, dĩ nhiên, chưa và có thể không bao giờ được giải mật. Thí dụ như những điện tín và văn thư giữa Bắc Kinh và Tuyên Quang-Thái Nguyên trong các chiến dịch Biên Giới (9-10/1950) hay Ðiện Biên Phủ (1953-1954) vẫn là tài liệu quốc cấm–và, sau hơn nửa thế kỷ, các nhà nghiên cứu mới chỉ có được những “hồi ký” của Trần Canh, Võ Nguyên Giáp, hay La Quí Ba , v.. v... Ðó là chưa nói đến những mật điện và tài liệu về những chuyến đi Nga 1950, 1952, 1954 của Hồ Chí Minh.
Mới đây đã có nỗ lực gửi các chuyên viên Việt ra ngoại quốc học tập thêm về kỹ thuật bảo quản và tổ chức văn khố. Hy vọng sẽ có những tiến triển tốt đẹp hơn. Ngoài ra, theo một học giả Nga, Anatoli Sokolov, văn khố Ðảng Cộng Sản Việt Nam làm được nhiều microfilm tư liệu tàng trữ tại các văn khố Nga và Pháp.
Do tình huống đặc biệt của Việt Nam, nơi nhiều siêu cường đã có mặt, tùy theo giai đoạn người ta có thể nghiên cứu thêm ở các văn khố Pháp, Mỹ, Bri-tên, Nga và Trung Qu ốc. Trong giai đoạn trước 1945, nguồn tư liệu quan trọng là văn khố Pháp, Nga, Trung Qu ốc, và Bri-tên.
Giai đoạn từ 1945 tới 1975 cũng vậy. Quan trọng nhất vẫn là tài liệu văn khố Pháp, Mỹ, Nga, Trung Qu ốc và Bri-tên. Tuy nhiên, một số tư liệu trong giai đoạn này vẫn chưa giải mật. Cho đến năm 2001, chẳng hạn, văn khố Mỹ mới chỉ mở tới năm 1971. Mặc dù mỗi năm đều có thêm tư liệu giải mật, nhưng có những tài liệu vẫn chưa được tham khảo. Thí dụ như tư liệu về cuộc đảo chính 1963 tại Thư viện John F. Kennedy chưa mở hết, đặc biệt là các công điện và báo cáo của Henry Cabot Lodge. Thư viện Gerald Ford đã giải mật một số hồ sơ về cuộc sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa–như báo cáo của Tướng Frederick Weyand ngày 9/4/1975, một số công điện của chiến dịch Frequent Wind—nhưng trên đại thể chưa đủ để dựng lại một bức tranh toàn diện. Văn khố Pháp thì nhiều tài liệu trong giai đoạn 1945-1954 phải chờ tới năm 2009-2010 hoặc có thể lâu hơn mới được tham khảo. Tài liệu Bộ Ngoại Giao cũng mới mở đến năm 1964. Tư liệu về Trần Ðình Lan chỉ giải mật năm 2029! Tài liệu Nga và Trung C ộng, vì được xếp hạng là liên quan đến an ninh quốc gia, hầu như không mở ra cho các học giả ngoại quốc.
Tại Mỹ, ngoài các Văn khố Quốc Gia, Văn khố các Bộ và nha sở, Văn khố các binh chủng, còn văn khố tại các thư viện Tổng thống Mỹ. Ðây là nơi tập trung các tư liệu có yếu tố quyết định cho chính sách ngoại giao cũng như nội trị của mỗi Tổng thống. Muốn có được một bộ sử chính xác về chiến tranh Việt Nam, không thể không làm việc tại các văn khố này; đặc biệt là các thư viện Dwight D. Eisenhower, John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson, Richard Nixon, Gerald Ford và Jimmy Carter. Cho tới nay, tôi thường làm việc tại Văn khố Lyndon B. Johnson, trong khuôn viên Ðại học Texas ở Austin, Texas. Hầu như mỗi năm đều ghé qua một lần. Ðược tham khảo và làm phóng ảnh khá nhiều tư liệu đã từng công bố trong các tập Mậu Thân 68: Thắng hay Bại? (in lần thứ hai) và 55 Ngày & 55 Ðêm: Cuộc sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa (in lần thứ 5) dưới bút hiệu Chính Ðạo. Toàn bộ những tư liệu văn khố trên sẽ được phổ biến đầy đủ hơn trong tập Việt Nam Niên Biểu I-D: 1964-1968, và nhất là bộ The Vietnam War, 1945-1975: Lost or Won? [Chiến Tranh Việt Nam, 1945-1975: Bại Hay Thắng?] bằng Anh ngữ, hoàn tất đã lâu, nhưng còn cần những hiệu đính nho nhỏ về chi tiết mỗi khi có tư liệu mới giải mật.
Bất cứ ai muốn tái tạo lịch sử cận đại Việt một cách tương đối trung thực không thể không làm việc tại Thư viện LBJ. Theo sự hiểu biết của tôi, chỉ riêng cựu Ðại tá Phạm Văn Liễu, chẳng hạn, đã có hàng chục tư liệu chưa được bạch hóa. Có lẽ chính ông Liễu cũng chẳng rõ lý do khiến ông bị cách chức Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia vào ngày 8/4/1966 (dù mãi tới ngày 21/4/1966 mới được công bố): Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia đã buộc tội ông Liễu tiếp tay cho cuộc tranh đấu miền Trung của Phật Giáo và Lực Lượng Tranh Thủ Tự Do (3-6/1966) vì một công điện ký tên giả mà ông Liễu chẳng bao giờ nhận được. Lãnh tụ “Baby Turks” Nguyễn Ngọc Loan đã chết, nhưng Tướng Nguyễn Cao Kỳ, cựu Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (1965-1967), có thể giải thích thêm việc này.

Trường hợp hai Tướng Huỳnh Văn Cao và Tôn Thất Ðính cũng vậy. Tướng Cao không bị chỉ định mà tình nguyện ra Ðà Nẵng thay Tướng Ðính làm Tư lệnh Quân đoàn I. Tướng Ðính thì có những lời tuyên bố khiến ông phải hối hận, sau này. Riêng Thượng Tọa Thích Trí Quang, giống như tôi đã trình bày trong tập Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967, là nạn nhân của chính ông. Người Mỹ hiểu rằng Thượng Tọa Trí Quang không là Cộng Sản, và cái mũ Cộng Sản đã bị những người Ki-tô cuồng tín–nhất là tàn dư Cần Lao-Nhân Vị của Ngô Ðình Nhu-Ngô Ðình Cẩn–và ngay cả các cán bộ Cộng Sản, chụp lên đầu ông. Thượng Tọa Trí Quang, qua những tin tình báo nhận được ở Tòa Bạch Cung, có tới ba loại người thù: Cộng Sản, Ki-tô cuồng tín hiếu chiến kiểu Trung C ổ, và phe kiêu binh, đại diện bằng những Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao K ỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Nguyễn Bảo Trị. Khi chính phủ Johnson, qua đề nghị của nhóm Edward Lansdale và Bill Colby, quyết định cho giới Ki-tô trở lại thống trị chính trường miền Nam từ năm 1967-1968, ngày tàn giấc mộng kê vàng “quốc sư” của Thượng Tọa Trí Quang bắt đầu. Ngay đến Linh mục Hoàng Quỳnh, người chủ trương hòa đồng tôn giáo để chống Cộng, cũng bị nhóm Ðại Ðoàn Kết của Nguyễn Gia Hiến loại bỏ vì “đã già, mềm yếu với Phật giáo,” không còn xứng đáng cầm đầu các ủy ban “hành động” Ki-tô. Tướng Nguyễn Bảo Trị và Ủy viên Thanh niên Võ Long Triều cũng tự nhận đã ra công vận động giáo dân Ki-tô Hố Nai và Phú Nhuận xuống đường đương đầu với Phật giáo, ngăn chặn không cho Phật giáo thống trị các cơ quan dân cử và chính quyền. Niềm tin tôn giáo đã bị những kẻ tham vọng khai thác làm con đường tiến thân cho riêng họ. Những ai thích tin tưởng ở “thánh chiến” nên ghé văn khố LBJL ở Austin một lần, tìm đọc vài hộp tư liệu của Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia Mỹ [National Security Files (NSF), Vietnam Country File]. Từ những nhân vật như Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao K ỳ, Trần Văn Ðôn, v.. v... tới các tác nhân hạng hai, hạng ba như Bùi Diễm, Trần Văn Ân, Tôn Th ất Thiện, Ðặng Ðức Khôi, v.. v... đều có dấu vết trong kho Tư liệu Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia Mỹ dưới thời chính phủ Johnson. Phía sau sân khấu chính trị miền Nam, tại các tư dinh hay công sở Mỹ, các “lãnh tụ” Việt không cao lớn và uy quyền như họ muốn chúng ta phải tin. Bởi thế, mới có hai thành ngữ thời đại: sự “dốt nát hào nhoáng “ (the shining ignorance) và sự “lừa dối sặc rỡ” (the colorful lies).

Ðặc biệt có giá trị là những công điện trao đổi giữa Sài Gòn và Oat-shinh-tân trong giai đoạn 1964-1968. Một trong những tài liệu đáng chú ý là “sự hiểu ngầm” của Hà Nội trước khi Tổng thống Johnson tuyên bố ngừng oanh tạc Bắc Việt ngày 1/11/1968. Những báo cáo của Tướng Lansdale về các nhân vật Việt Nam cũng khiến cười ra nước mắt. Khó tin, nhưng có thực: Nhiều “lãnh tụ” đã lập công danh, kiếm tài lợi qua những “party” buổi tối hay giấc ngủ thiếp lả trên salon tư dinh Tướng Lansdale, với những “sứ mệnh” đủ loại. Nào là Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc, nào là đoàn thanh niên, hay trại hè thiện chí. “Lãnh tụ thanh niên”, chẳng hạn, từng giao nạp hồ sơ bốn học sinh tình nguyện cứu trợ nạn nhân chiến tranh cho cơ quan an ninh vì tình nghi họ là Cộng Sản. Nhưng ác độc nhất là việc diễn giải tấm biểu ngữ cứu trợ nạn nhân chiến tranh của Phật giáo là “có khuynh hướng thân Cộng.” Cũng may, sau đó người Mỹ quyết định bỏ rơi miền Nam Việt Nam, bằng không chẳng hiểu chuyện gì xảy ra với những “lãnh tụ ... cổng hậu tư dinh quan tướng tình báo ngoại quốc này!”
Các “lãnh tụ” miền Nam, như Bùi Diễm, trong hồi ký In the Jaws of History, Trần Văn Ðôn, trong Our Endless War, và Nguyễn Cao K ỳ trong Twenty Years and Twenty Days chẳng thấy đá động gì đến những chi tiết phía sau hậu trường, chỉ thấy khoe mình tài, mình giỏi, mình quân tử. Việc quá nhỏ để nhớ hay nhắc đến trong hồi ký chăng?

Huỳnh Văn Lang, trong hồi ký Nhân Chứng Một Chế Ðộ (3 tập), và Y sĩ Ðặng Văn Sung, qua buổi phỏng vấn riêng của tôi năm 1997, ít tháng trước ngày ông từ trần, tự chứng tỏ lương thiện hơn nhiều người đồng thời. Cả hai đều thú nhận hợp tác chặt chẽ với cơ quan tình báo Mỹ. Và không như nhiều người đóng vai ngụy quân tử, chụp mũ cho người khác là “CIA” hay “Xịa.”
Lật dở những trang tài liệu quản thủ kỹ lưỡng, khác hẳn với những hồ sơ dầy bụi thời gian của văn khố Pháp, hơn một lần tôi thoáng nhớ đến những chữ “Moise”, “Jacobs” và “giải phóng” trong thư “Petrus Key” gửi “Grand Chef” Jauréguiberry vào cuối tháng 3/1859 (do một linh mục ở Vĩnh Long chuyển) để thúc dục “những sứ giả của Thiên Chúa [Ki-tô]” này xâm lăng Ðại Nam cho nhanh; hay, ba chữ “bol de riz” (bát cơm) bảo hộ Pháp của dòng họ Ngô mà Ngô Ðình Khôi đã nhờ Ngô Ðình Nhu chuyển lời cho Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Paul Arnoux vào tháng 8/1944 trong các văn khố Pháp. (Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, tập III)

Cơ trí, ắt cơ tâm. Những “lãnh tụ” của hạ bán thế kỷ 20 có vẻ khôn ngoan và thông minh hơn những người của thế hệ trước. Những tấm lòng yêu nước ... Pháp và Mỹ mới (ít nữa thì trên đầu môi chót lưỡi) chẳng hiểu nên nhớ hay quên? Ðây mới là những “bí ẩn” lịch sử mà người ta cố che đậy, dấu diếm, chẳng khác gì người Cộng Sản cố tình tô lục chuốt hồng cho Hồ Chí Minh ... suốt đoạn đường “cứu nước” và “yêu nước” ... chủ nghĩa xã hội!
Sự khác biệt giữa người học sử chuyên nghiệp và những người thích “bí ẩn” là người học sử cố gắng xuyên suốt những dữ kiện chính xác thành một diễn giải lịch sử khoa học, khách quan tối đa; những người thích công bố “bí ẩn” thường mang tư tâm “xây dựng kỳ đài” hay “đào mộ” nào đó. “Bí ẩn” bởi thế thường chỉ là những câu chuyện bên tách cà-phê, ly ruợu mạnh, hoặc bàn mạt chược, chiếu xóc đĩa, chắn cạ nhằm xuyên tạc, mạ lÿ kẻ thù, xưng tụng, bái lạy chủ cũ bằng thứ lý luận “rẻ rách ... sinh chuột con.” (Ðáng buồn hơn nữa là dăm ba người có đôi chút học thức chuyên đi ăn cắp công trình nghiên cứu của người khác–nhất là những tài liệu do tôi phát hiện tại các văn khố–in vào “sách” của họ, rồi cao giọng chỉ trích–nhưng chỉ phơi bày rõ ràng hơn sự ngu dốt và điêu ngoa hào nhoáng của loài tinh tinh tân thời).
Ðáng tiếc là văn khố LBJL vẫn chưa giải mật một số hồ sơ. Như tài liệu về buổi gặp mặt giữa Tổng thống Johnson và Giáo Hoàng Paul VI ngày 23/12/1967. Tài liệu về vụ bà quả phụ Anna Chennault móc nối Bùi Diễm cùng Nguyễn Văn Kiểu để làm gió cho ứng cử viên Richard Nixon của Ðảng Cộng Hòa trong cuộc tranh cử Tổng thống 1968 cũng chưa có tính cách thuyết phục, vì chỉ là những ý kiến riêng của các nhân vật như McGeorge Bundy, Nguyễn Cao Kỳ, Bùi Diễm, v.. v... Hai thư viện Tổng thống khác sẽ lôi cuốn nhiều nhà nghiên cứu trong những năm tới là Thư viện Richard Nixon và thư viện Gerald Ford.

B. BIÊN KHảO:
Ðặc biệt giai đoạn cận đại có nhiều biên khảo bằng Việt ngữ cũng như ngoại ngữ khá giá trị. Những học giả nổi danh về Việt Nam có David G. Marr, Pierre Brocheux, Nguyễn Thé Anh, v.. v... Về các học giả Việt trong nước, một số đã được ra ngoại quốc tu nghiệp hay khảo cứu tại các văn khố. Nhưng đa số biên khảo trong nước còn bị hạn chế về tài liệu, tức thiếu những chi tiết chính xác về thời gian cũng như dữ kiện. Dĩ nhiên, cũng có những biên khảo chẳng nhắm mục đích gì khác hơn tuyên truyền, lập danh, hoặc vì đôi chút tài lợi.
Vì trước năm 1975, hầu hết tác giả Việt không được sử dụng tài liệu văn khố hay tư liệu nguyên bản, nên thường có tình trạng sao chép giây chuyền lỗi lầm của người đi trước. Trường hợp các Thánh lệnh của Giáo hoàng Ki-tô trong việc phân chia thế giới cho Portugal (Bồ Ðào Nha) và Espania (Tây Ban Nha) trong thế kỷ XV chỉ là một thí dụ nhỏ. Hay việc Pháp đưa Ðồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Ðịnh, Bảo Ðại lên ngôi, v.. v... dưới “thiên mệnh Ðại Pháp.”
Ngoài ra, vì ảnh hưởng của chế độ Bảo hộ Pháp cũng như các thế lực bản xứ, các nhà nghiên cứu không được tham khảo các tư liệu bất lợi cho mục tiêu khai hóa của người Pháp (tức biến Việt Nam thành một nguồn cung cấp vật liệu thô và nhân công rẻ tiền, đồng thời cũng là một thị trường đóng kín cho hàng hóa Pháp, và vùng đất để rao giảng đạo Ki-tô Vatican). Bởi vậy, hầu hết sử sách viết về giai đoạn này hiện đang lưu hành–ngoại trừ các bộ quốc sử triều Nguyễn–đều ca ngợi công lao khai hóa của người Pháp. Vài dòng ngắn ngủi của Trương Vĩnh Ký để kết thúc bộ Bài giảng sử An-Nam-Mít [Cours d’histoire annamite] là một thí dụ tiêu biểu.[ Xem bài Petrus Key].
Bởi thế, người ta thấy xuất hiện những loại văn sử không những chỉ sai lầm về dữ kiện mà còn méo mó nguy hiểm về lối giải thích hay lập luận (vì tác giả thuộc giới trung gian bản xứ, hoặc vì không dám làm mất lòng các quan chức bảo hộ cùng những nhà truyền giáo và giáo dân nặng mang tinh thần Trung cổ, nếu không phải với chủ đích cung văn những tác nhân trên). Ngay đến vài sử gia cũng tìm cách tránh đối diện những sự thực gai góc về phong trào trào thực dân Ki-tô/vật bản từ thế kỷ XVI tới thế kỷ XX. Bất cứ ai dám công bố những sự thực lịch sử do mình dày công sưu tầm thì lập tức bị vu cáo có dụng tâm “nói xấu” cá nhân này, tôn giáo nọ, hay “sai lầm.” Nên chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy những người như Petrus Key ( Trương Vĩnh Ký ) hay các công thần của chế độ Bảo hộ Pháp và con cháu họ (như Ngô Ðình Khả, Ngô Ðình Thục) thanh thản và mạnh bạo gọi những người chống lại chế độ Bảo hộ Pháp là “rebelles” (giặc hay phiến loạn). Giống như sáu trăm năm trước, Lê T ắc đã dùng những thuật ngữ “bản nghịch” (những tên phản loạn) hay “yêu đảng” để gọi hai Bà Trưng, Bà Triệu Ẩu, hay Lý Bí, Dương Thanh , v.. v...
C. BÁO CHÍ:
Các tài liệu báo chí cũng khá phong phú. Từ cuối thế kỷ XIX, báo chí đã lưu hành ở Việt Nam, đặc biệt là Nam Kỳ thuộc Pháp (Cochinchine). Những tựa báo quan trọng có Courrier Saigonais và Gia Ðịnh Báo. Ngoài ra, còn các báo tư nhân như L’Avenir du Tonkin. Người nghiên cứu cũng nên tham khảo các báo Pháp ngữ tại chính quốc (Pháp) và Trung Hoa (như tờ Gazette de Peking).
Qua thế kỷ XX, báo chí được chuyên nghiệp hóa ở cả ba miền. Người nghiên cứu ít nhất phải tham khảo các tờ báo chính như Trung Bắc Tân văn, Nam Phong, Thanh Nghị, Tri Tân ở miền Bắc; Tiếng Dân ở miền Trung; cùng các báo La tribune indigène, La tribune indochinoise, Nam Kỳ Lục Tỉnh, v.. v... ở miền Nam. Tuy nhiên, sử dụng các tài liệu này cần cực kỳ thận trọng. Nghề báo tại một nước bị Pháp xâm chiếm như Việt Nam khó thể nói đã trưởng thành và có được Ðệ tứ quyền. Ðó là chưa kể những dụng tâm chính trị của các chủ báo. Nên so sánh với các tài liệu văn khố của các cơ quan an ninh thuộc địa Pháp để hiểu thêm về chính sách truyền thông của người Pháp. Học giả David Marr là người đã sử dụng khá nhiều tư liệu báo chí.
D. HồI KÝ:
Hồi ký là một kho tài liệu khá có giá trị. Hầu hết các viên chức cao cấp Pháp đều viết về những sinh hoạt của họ tại Ðông Dương. Tác nhân Việt thì rất ít người viết hồi ký. Mở đầu phong trào này là hai cuốn nói về chuyến đi sứ Pháp và Espania của Phan Thanh Gi ản và Phạm Phú Thứ (1864). Rồi đến Chuyến đi Bắc Kỳ năm 1876 của Petrus Trương Vĩnh Ký , Ði Tây của Phạm Quỳnh. Phạm Duy Khiêm cũng có hai tập hồi ký nói về cuộc phiêu lưu sang Pháp làm thông ngôn cho lính thợ [ONS].
Hai cuộc chiến 1945-1954 và 1959-1975 sản xuất khá dồi dào hồi ký. Ða số nhân vật ngoại quốc (Nhật, Trung Qu ốc, Pháp, Mỹ, v.. v...) đều viết hồi ký. Nhiều tác nhân Việt cũng có hồi ký, đặc biệt là phe Cộng Sản.
Dĩ nhiên, hồi ký không hoặc chưa là lịch sử. Chỉ là lời chứng trước tòa án lương tâm và dân tộc. Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ (1996), hay Một Cơn Gió Bụi của Trần Trọng Kim (1969) là những thí dụ. Tác nhân lịch sử có thể sai lầm, trong khi kể lại các sự việc hay lý luận, nhưng đó là những điều khó tránh. Ða số dùng hồi ký để biện minh tâm trạng mình như Linh mục Cao Văn Lu ận, qua cuốn Bên Dòng Lịch sử (Sài Gòn: 1984) hay ông Ðỗ Mậu với hai tập Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (tái bản năm lần, từ 1987 tới 1993) và Tâm Thư (tái bản một lần).
Huỳnh Văn Lang, qua 5 tập hồi ký về đá gà, đi săn, và hoạt động chính trị cũng rọi sáng vài ba sự thực lịch sử về chính phủ Ngô Ðình Diệm (1954-1963) và tâm trạng người trí thức Ki-tô miền Nam trong cuộc đảng tranh sắt máu 1945-1975. Những hồi ký khác của Tướng Nguyễn Chánh Thi, Trần Văn Ðôn, Nguyễn Cao K ỳ, Tôn Th ất Ðính, Huỳnh Văn Cao, Lý Tòng Bá, v.. v... có những giá trị nhất định nào đó. Ngay đến cựu Hoàng Bảo Ðại cũng có một hồi ký do hai người Pháp viết, Le Dragon d’Annam (Paris: Plon, 1980). Hồi ký này đã được viết lại bằng Việt ngữ, nhưng nội dung chẳng mấy giá trị, nếu không phải chứa đựng nhiều tư liệu sai lầm. Và mục đích in hồi ký của Cựu Hoàng chỉ vì nhu cầu tài chính.
Trong số các hồi ký, tập Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi và Tâm Thư của Tướng Ðỗ Mậu là một hiện tượng. Tập VNMLQHT được in lại nhiều lần ở hải ngoại. Ngay nhà xuất bản Công An của CSVN cũng sửa chữa, cắt xén in lại trong nước. Tại hải ngoại, vì vạch trần những sự thực không đẹp của chế độ Ngô Ðình Diệm và hàng lãnh đạo Ki-tô, ông Mậu đã bị đả kích một cách tàn nhẫn và thô tục suốt nhiều năm.
Cá nhân tôi cũng bị lôi cuốn vào chốn “giang hồ gió tanh mưa máu.” Có kẻ tung tin tôi đã tiếp tay hoặc giúp Tướng Mậu hoàn tất cuốn Tâm Thư của ông, dù chính tôi chưa hề biết mặt ông Mậu, và cũng không hề quen biết ở trong nước. Tôi đã giữ thái độ im lặng, vì chửi bới, vu cáo trên các tờ báo chợ là một thông lệ hơn biệt lệ ở hải ngoại. Tôi cũng quá bận rộn, không có thì giờ. Hơn nữa, theo tôi, sự thực chỉ là sự thực. Những lời chửi bới, vu cáo “rất chợ búa” Tướng Mậu, hay những người có can đảm công bố sự thực về gia đình Ngô Ðình Khả-Ngô Ðình Diệm (như ông bà Nguy ễn Mạnh Quang) cùng những tập đoàn “trung gian bản xứ” khác chắc chắn không thể làm đẹp hơn cho họ. Và chắc chắn không thể làm giảm giá trị của những sự thực đã được công bố. Chẳng ai có thể gói lửa bằng giấy.
Riêng những hồi ký của các tác nhân Cộng Sản cũng không hoàn toàn vô giá trị như một số người muốn chúng ta phải tin và tuân lệnh. Các hồi ký của Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Lê [Trịnh?] Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái, Trần Ðộ, Phạm Khắc Hoè, Lê Tùng Sơn , Nguyễn Văn Trấn, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Thị Thập, Lê Văn Hi ến, Hoàng Văn Hoan–hay hồi ký của những người ngoài đảng như Vũ Ðình Hoè, v.. v...– đều có chỗ dụng của chúng, nếu biết loại bỏ những khía cạnh tuyên truyền quá lộ liễu. Với chế độ Cộng Sản, không cần sự thực. Chỉ cần những mảnh vụn sự thực phục vụ cho mục tiêu chính trị giai đoạn. Ngay đến những tài liệu tự ca ngợi mình của Hồ Chí Minh, như Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (ký tên Trần Dân Tiên), hay Vừa đi đường vừa kể chuyện (ký tên T.L.) ít nữa cũng cho người đọc thấy cách vận chuyển của hệ thống tuyên truyền Cộng Sản.
Tôi nhớ đến tiếng “Vẹm” mà dân chúng miền Bắc đã từng sử dụng để gọi tổ chức Việt Minh. Không chỉ có những lời dối trá hào nhoáng, mà còn có những lưõi mã tấu sỉn máu để bắt mọi người phải coi những lời dối trá đó là khuôn vàng thước ngọc, phải sủng kính như Thánh kinh.
Với cương vị chủ bút nhà Xuất bản và Phát hành Văn Hóa, tôi đã cùng ông Nguyễn Xuân Phác thực hiện một số cước chú cho bản thảo hồi ký còn dở dang của cụ Nguyễn Xuân Chữ, và góp ý với tất cả những tác giả từng muốn nhờ chúng tôi xuất bản hay phát hành. Tôi cũng từng chia xẻ cho một số tác giả tư liệu văn khố thu thập được trong các chuyến du khảo, với hy vọng giúp người viết cũng như người đọc thấy được những sự thật không thể chối cãi của một số tác nhân lịch sử bấy lâu được tô hồng chuốt lục cho những mục tiêu chính trị giai đoạn nào đó. Tham vọng nhỏ bé của tôi là trả sự thực cho lịch sử. Vì chỉ có sự thực lịch sử mới giúp người Việt thoát được những cơn giông bão triền miên của thế cờ chiến lưọc quốc tế, cùng những tham vọng ngoại cường. Cá nhân tôi không hề có tham vọng chính trị, trước cũng như sau năm 1975.
Những điều cần làm, đã, đang, và sẽ làm, chỉ hướng về một tương lai tốt đẹp hơn cho đất nước và dân tộc nói riêng, cũng như sự cảm thông của nhân loại nói chung.

III. NGHIÊN CỨU THỜI HIỆN ÐẠI
Việc nghiên cứu thời hiện đại, tức từ 1975 tới nay, vô cùng khó khăn. Các tư liệu thường rất hạn chế, phần lớn dựa theo tin tức tình báo và ngoại giao cùng báo chí.
Tuy nhiên, đôi khi, người nghiên cứu có được những tài liệu cực kỳ quí báu. Cuộc xâm phạm Việt Nam của Hồng quân Trung Qu ốc năm 1979, và cuộc chiếm đóng Kampuchea của Cộng Sản Việt Nam từ 1978 tới 1989 giúp người nghiên cứu nhiều tư liệu về liên hệ giữa Trung C ộng, Việt Nam và Kampuchea. Trong số những chi tiết đáng kể có việc Quân ủy Trung Cộng cùng các Tướng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, v.. v... đã thực sự chỉ huy các trận đánh Cao Bằng-Lạng Sơn (1950) hay chiến dịch Ðiện Biên Phủ (1954); Chu Ân Lai ép buộc Hồ Chí Minh phải chấp nhận tạm thời chia đôi Việt Nam theo vĩ tuyến 17 tại Hội nghị Geneva (7/1954); hay, tháng 9 năm 1958, Hồ Chí Minh đã sai Phạm Văn Ðồng viết thư cho Chu Ân Lai , nhìn nhận lãnh hải do Bắc Kinh công bố để có quân viện đánh chiếm miền Nam.[ Xem Phụ Bản]
Nhưng cho tới năm 2009 này, các sử quan Cộng Sản hay “xã hội chủ nghĩa” vẫn nhất định nhắm mắt lại mà ca ngợi công ơn vĩ đại của những Karl Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch Ðông, Chu Ân Lai , hay Hồ Chí Minh. Các sử quan và văn nghệ sĩ trong nước từng được Trường Chinh Ðặng Xuân Khu nhiều hơn một lần dạy bảo rằng văn chương, thơ phú hay sử học phải bám sát và phục vụ mục tiêu chính trị giai đoạn của Ðảng Cộng Sản Việt Nam. Bất cứ ai không nhìn thấy được sự vĩ đại của Liên Sô, Trung Qu ốc, hay tư tưởng Hồ Chí Minh (khi cần thiết) đều bị xếp hạng là kẻ thù của “nhân dân,” phản động, và ngay cả Việt Gian. Bởi thế, sử sách Việt Nam bị ô nhiễm bởi những lời xưng tụng Stalin như cha già của Hồ Chí Minh, hay ông nội của thanh thiếu niên Việt trong thập niên 1950. Thứ “tinh thần Hồ Chí Minh” này có đáng nuôi dưỡng, phát huy để soi sáng cho quốc dân Việt trong thế kỷ 21 hay chăng?
Chưa một ai, nhưng chắc chắn sẽ có người, làm một cuộc so sánh những văn thư ngoại giao thời Việt Nam phong kiến với thư từ trao đổi giữa Ðảng Cộng Sản Việt Nam và Liên Sô hay Trung Cộng.
Một triết gia Tây phương từng viết: “Không ai có thể tắm hai lần trong cùng một dòng nước.” Nhưng cổ nhân cũng dạy rằng: “Ði hỏi già, về nhà hỏi trẻ.” Ðại họa của thế nhân thường do không chịu học hỏi những bài học lịch sử. Ai nấy đều muốn quên đi những chuyện buồn dĩ vãng, gìn giữ những niềm vui, nỗi sướng cũ như một túi hành trang. Ðáng sợ hơn nữa là có nghĩ rằng mình đã “biết hết rồi!” những điều mà họ thực sự chẳng biết gì cả. Như huyền thoại người Mỹ đưa quân vào miền Nam để muốn độc chiếm quân cảng Cam Ranh, hay đào xới chất Uranium. Sự thực, từ những năm 1945-1946, Hồ Chí Minh nhiều hơn một lần “van nài” người Mỹ nhận hải cảng Cam Ranh, nhưng chính phủ Harry Truman (1945-1953) từ chối. [Xem Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, tập I-A & B] Cho tới đầu thế kỷ XXI, người Mỹ vẫn rất hững hờ trước lời mời gọi khai thác cảng Cam Ranh. Và, chưa một nhà khoa học Việt nào phát hiện mỏ Uranium ở Ðông Dương–ngoại trừ một quặng non ở Pia Ouac, do một chuyên viên “người Việt mới” gốc Nhật phát hiện trong giai đoạn 1947-1948. Mỏ Uranium này còn nằm trong lãnh thổ Việt, hay đã cắt nhượng cho Trung Cộng?

Với một dân tộc như dân tộc Việt–một dân tộc kiêu hùng bảo vệ sự sinh tồn của mình bằng máu và nước mắt từ nhiều ngàn năm qua–bài học dĩ vãng luôn luôn là tấm gương soi mặt ngàn năm. Nhờ vậy, dù không so sánh được với các cường quốc, tổ tiên ta đã để lại cho con cháu một giải giang sơn gấm vóc làm vốn liếng. Tàn phá những tư liệu lịch sử, hay không bảo quản đúng mức các kiến trúc cổ thời, các kho văn khố, là tội ác văn hóa khó tha thứ. Nói chi việc nổi lửa thiêu đốt văn hóa phẩm của miền Nam Việt Nam. Ðào xới các di tích khảo cổ đem bán làm đồng vụn, sắt vụn. Vì một chút tài lợi cỏn con mà ngụy tạo lịch sử, trắng đổi làm đen.
Một dân tộc thiếu sự lương thiện trí thức hẳn khó thoát cảnh nô lệ ngoại bang.

Houston, 11/2000-1/2/2009