- Trần Phá Không
Tháng
2/1979, Đặng Tiểu Bình đưa 200.000 binh lính của Đảng Cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) sang xâm lược Việt Nam. Trong vòng một tháng, hơn 20.000
binh lính Trung Quốc tử trận, bị thương vô số, sau cùng đã thất bại thảm
hại và phải rút quân về.
Nguyên
nhân của cuộc chiến này bắt nguồn từ việc ĐCSTQ dung túng cho Khmer Đỏ
thảm sát 1/4 dân số Campuchia, trong đó có cả kiều bào Trung Quốc và
Việt Nam. Vì để bảo vệ người dân Việt Nam tại Campuchia, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đưa quân đến Campuchia, quét sạch Khmer Đỏ và giải cứu người
dân Campuchia thoát khỏi địa ngục. Sau đó, ĐCSTQ đã đưa quân tiến đánh
Việt Nam, trả đũa Việt Nam đã tiêu diệt Khmer Đỏ.
Đến
nay, Khmer Đỏ đã sụp đổ, tàn dư của tổ chức này cũng đã được giao cho
Tòa án quốc tế xét xử. Điều này chứng minh rằng, việc Đặng Tiểu Bình
phát động cuộc chiến tranh ở biên giới Việt Nam, không chỉ là thảm bại
về mặt quân sự, mà còn đại bại về chính trị.
Đặng
Tiểu Bình chủ trương đưa quân tiến đánh Việt Nam, thực tế là có mục
đích riêng, muốn thông qua việc điều binh khiển tướng từ đó giành được
quyền lực quân sự từ tay Chủ tịch Hoa Quốc Phong, sau đó lật đổ Hoa Quốc
Phong độc chiếm bá quyền. Chiêu dương đông kích tây này cũng là một
loại thủ đoạn thường thấy trong đấu đá quyền lực chính trị Trung Quốc từ
xưa đến nay. Đáng tiếc là Hoa Quốc Phong không phát hiện ra điều này
nên đã rơi vào cái bẫy của Đặng Tiểu Bình. Sự xảo quyệt của ông Đặng
không khác gì Tư Mã Ý thời Tam Quốc.
Năm
1989, khi giữ chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Đặng Tiểu Bình đã điều
động 1/3 quân chủ lực với tổng cộng 300.000 quân tiến vào Bắc Kinh nổ
súng đàn áp những người dân thành thị và học sinh sinh viên tay không
tấc sắt, gây nên cuộc đàn áp phong trào dân chủ đẫm máu nhất trong lịch
sử Trung Quốc: Sự kiện Lục Tứ. Theo mệnh lệnh cực đoan của Đặng, quân
đội ĐCSTQ trang bị xe tăng tàn bạo cán người, dùng súng máy bắn quét
khiến máu nhuộm đỏ quảng trường, xác người chất thành đống. Sự kiện Lục
Tứ quả thực khiến cả thế giới phải chấn động.
“Giết 200 ngàn người, đổi lấy 20 năm ổn định”.
Đây là câu “danh ngôn” mà Đặng Tiểu Bình đưa ra trong khoảng thời gian
diễn ra vụ thảm sát năm 1989. Câu “danh ngôn” này trên bề mặt là vì để
ổn định quốc gia, nhưng mục đích thực tế là để ổn định chính quyền. Câu
“danh ngôn” này còn một hàm ý khác, liên quan đến dục vọng cá nhân của
ông ta, ít nhất để cho họ Đặng sống yên ổn những năm tháng cuối đời.
Khi
được học sinh sinh viên tôn trọng mà cúi chào, Đặng Tiểu Bình cảm thấy
vô cùng vui sướng. Nhưng khi nghe họ hô “đả đảo Đặng Tiểu Bình” thì ông
ta trở nên sôi sục giận dữ. Nắm quyền lực trong tay, ông này chỉ vì
những hỷ nộ của bản thân mà tùy tiện sinh sát. Để được sống yên ổn những
năm cuối đời, và cái giá để đổi lấy điều đó chính là hàng chục ngàn
người đầu rơi máu chảy, hàng trăm ngàn người bị giam giữ và hàng triệu
người bị bức hại. Chủ mưu gây ra cuộc tàn sát ngày 4/6 tại Thiên An Môn,
cái tên Đặng Tiểu Bình đã bị đóng đinh kiên cố trên cây trụ ô nhục của
lịch sử.
Trước
ngày 4/6, khoảng giữa tháng 5/1989, Tổng Bí thư ĐCSTQ Triệu Tử Dương đã
đến gặp Đặng Tiểu Bình, đề xuất đối thoại với học sinh để có thể hai
bên hiểu nhau hơn. Đặng đáp lại rằng: “Tôi đang cảm thấy vô cùng mệt mỏi, tai ù, đầu óc không suy nghĩ gì được, lời ông nói tôi cũng không nghe rõ.” Lúc đó ông này diễn lại độc chiêu “Tư Mã Ý giả bệnh lừa Tào Sảng”
trong thời Tam Quốc, nhằm đối phó với ông Triệu Tử Dương. Trên thực tế,
Đặng Tiểu Bình dựa vào khởi nghĩa vũ trang mà gây dựng sự nghiệp, nhờ
vào lực lượng vũ trang ĐCSTQ giành chính quyền, một khi gặp phản đối,
thì điều đầu tiên nghĩ tới chính là bạo lực.
Ngay
sau phong trào của học sinh sinh viên mùa đông năm 1986, Đặng Tiểu Bình
đã tuyên bố, chúng ta không ngại đổ máu để dẹp tan các cuộc biểu tình
của sinh viên, cuối cùng khiến nó biến mất. Phát ngôn sặc mùi máu của
ông này thật khiến người ta ghê sợ!
Về
sau, hễ thấy học sinh sinh viên xuống đường biểu tình, Đặng Tiểu Bình
lập tức mưu tính giới nghiêm hoặc thiết quân luật để kiểm soát, trong
tâm thức lúc nào cũng cầm chặt báng súng. Chỉ cần tóm lược lại sự kiện
Lục Tứ, cũng đủ để hình dung về một đời chém giết của ông ta. Trước khi
chết, Đặng Tiểu Bình còn căn dặn lại: “Không lưu lại tro cốt, toàn bộ rắc xuống biển.”
Hành động này trên bề mặt thì là học theo Chu Ân Lai, nhưng thực tế là
sợ thi hài bị làm nhục. Chu Ân Lai là sợ Mao Trạch Đông, còn Đặng Tiểu
Bình chính là sợ nhân dân làm nhục thi thể của mình.
Sau
sự kiện Lục Tứ, hai tay Đặng Tiểu Bình nhuộm đầy máu của nhân dân. Ông
ta muốn xóa đi chuyện này, đã từng mượn lời con gái mình để nói ngụ ý
rằng: “Tôi cũng là con dân của Trung Quốc, tôi cũng yêu mọi người dân một cách sâu sắc.” Có người nghe xong đã hỏi lại: “Con
cái sát hại cha mẹ, đây là thứ đạo lý gì trên đời? Ai cũng biết rằng,
từ xưa đến nay sát hại cha mẹ là đại tội trái với ý trời, không thể tha
thứ được.”
Sau
khi Mao Trạch Đông chết, Đặng Tiểu Bình do bất lợi nên ra sức phủ định
Cách mạng Văn hóa. Tuy nhiên phủ định Cách mạng Văn hóa cũng chỉ là cái
cớ, thực chất ông ta muốn sửa đổi Hiến pháp, thủ tiêu đi “bốn quyền lợi
tự do” của người dân, cuối cùng tiến đến thủ tiêu quyền lợi bãi công của
công nhân. Việc Đặng Tiểu Bình chối bỏ Cách mạng Văn hóa, có thể nói chính là thẳng tay tước đi quyền lợi dân chủ của người dân.
ĐCSTQ khi mới bắt đầu đã tuyên bố “giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo”,
có vấn đề gì phát sinh là họ bãi công, đối kháng với chính phủ quốc dân
đương thời. Nhưng đến 30 năm sau khi ĐCSTQ nắm quyền, chính họ lại “lập
pháp” nhằm thủ tiêu quyền lợi bãi công của công nhân. Điều này minh
chứng rằng, chính quyền ĐCSTQ chuyên chế, độc tài và phản động hơn bất
kỳ chính quyền nào khác.
Có
người hy vọng Trung Quốc tiến tới dân chủ hóa và phó thác vào ông Đặng
Tiểu Bình. Trong khi đó cựu Tổng Bí thư ĐCSTQ Triệu Tử Dương lúc còn
sống đã thẳng thắn nhận định trong phần ghi âm rằng: Đặng Tiểu Bình nói
về dân chủ chỉ là những lời lừa gạt.
Lại có người bình luận: Đặng Tiểu Bình mới là Hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc. Trên thực tế, ông
Hoa Quốc Phong đã kết thúc nền chính trị chuyên chế cực đoan kiểu Mao
Trạch Đông, bước đầu mở ra hình thế dân chủ trong Đảng. Nhưng do hoàn
cảnh bất thường, trong vài năm, ông Đặng Tiểu Bình dùng thủ đoạn triệt
tiêu ông Hoa Quốc Phong, ngang tàng khôi phục hình thức chính trị chuyên
chế cực đoạn kiểu Mao Trạch Đông. Ông Đặng tự xưng là “thế hệ hạt nhân”
thứ hai kế tục sự nghiệp của Mao Trạch Đông, và hầu hết mọi việc đều do
ông ta quyết định.
Mùa
xuân năm 1992, ông Đặng Tiểu Bình 88 tuổi, đột nhiên làm theo ông Mao
Trạch Đông diễn vở kịch đi tuần phía nam. Lúc này do bất mãn với việc
ông Giang Trạch Dân và Lý Bằng nắm quyền chính trị, nhận thấy họ quá
thiên về cánh tả nên đã xướng ra phe ánh hữu, mục đích chính thực ra để
phòng phe cánh tả. Ông Đặng Tiểu Bình khi tuần tra Quảng Đông rộng lớn,
vừa đi vừa chửi, buông ra những lời nặng nề: “Kẻ nào không cải cách, kẻ đó sẽ rớt đài.”
Có người hiểu rõ tình hình tiết lộ: Thời
điểm đó ông Đặng Tiểu Bình âm mưu hạ bệ ông Giang Trạch Dân và Lý Bằng.
Nhưng ông Giang và Lý đề phòng vô cùng chặt chẽ, khi đó Đặng Tiểu Bình
không có quyền hành, đến chức Chủ tịch Quân ủy cũng không phải; thêm nữa
sau khi ông đi tuần phía nam trở về Bắc Kinh thì cảm thấy thân thể khó
chịu, sức khỏe suy kiệt, nên có muốn can dự vào cục diện chính trị cũng
lực bất tòng tâm.
Trần Phá Không (Nhà bình luận chính trị Trung Quốc sống tại Mỹ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét