“Giấu mặt chống Việt Nam không đạt hiệu quả mong muốn, những
người cầm quyền Trung Quốc quay ra công khai chống Việt Nam bằng mọi
thủ đoạn, kể cả bằng đe dọa vũ lực và dùng vũ lực!”
LTS:
Tháng
10 năm 1979, Nhà xuất bản Sự Thật (nay là NXB Chính trị Quốc gia - Sự
Thật) đã cho xuất bản cuốn sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc trong 30 năm qua”, trong đó công bố rất nhiều những thông tin quan
trọng và đáng chú ý về mối quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc kể
từ khi nhà nước Trung Hoa chính thức ra đời (1949). Đáng chú ý, cuốn
sách còn công bố khá nhiều tư liệu lịch sử quan trọng liên quan đến cuộc
chiến tranh bảo vệ biên cương phía Bắc của Tổ quốc Việt Nam (tháng
2/1979).
Điều đáng tiếc là đến nay vẫn
còn khá nhiều người chưa biết đến cuốn sách cũng như các thông tin quan
trọng về cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biên cương phía Bắc, của
quân và dân Việt Nam.
Báo điện tử Infonet xin trích đăng một số nội dung của cuốn sách để độc giả hiểu rõ hơn về một giai đoạn lịch sử của đất nước.
-------------------------------------------------
Theo
sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” - một
văn kiện quan trọng được Bộ Ngoại giao nước CNXHCN Việt Nam công bố ngày
4/10/1979 “nhằm vạch trần bộ mặt phản động của bọn bành trướng Bắc Kinh
đối với nước ta trong suốt một thời gian dài” (chú dẫn của NXB Sự thật,
tháng 10/1979), trước khi chính thức phát động cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc dài hơn 1.000km, nhà
cầm quyền Bắc Kinh đã điên cuồng sử dụng nhiều thủ đoạn chống Việt Nam,
từ chỗ còn giấu mặt cho đến khi ra mặt công khai.
Văn
kiện tuyệt mật của Quân ủy TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc do tên Lê Xuân
Thành (công an Trung Quốc, bị bắt ngày 30/3/1973 tại xã Ngư Thủy, huyện
Quảng Ninh, Quảng Bình khi chạy sang Việt Nam làm gián điệp) công khai,
trong đó có đoạn: "...Nước ta và nhân dân Việt Nam có mối hằn thù dân
tộc hàng nghìn năm nay... Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân
chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao cho họ. Ngược lại chúng
ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở trong tình trạng không mạnh,
không yếu mới có thể buộc họ ở trong tình trạng hiện nay... Về bề ngoài
chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta
phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta..." (Ảnh chụp lại từ ảnh
tư liệu đăng trong sách "Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong
30 năm qua”)
Dùng vấn đề người Hoa để chống Việt Nam từ bên trong
Như
đã nêu ở kỳ trước, việc sử dụng lực lượng Hoa kiều làm “đạo quân thứ
năm” là một trong những thủ đoạn nhằm phục vụ chính sách bành trướng và
bá quyền của Bắc Kinh. Theo sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc trong 30 năm qua”, ý đồ đó đã được thể hiện rõ nhất trong ý kiến
của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Trần Nghị tại cuộc nói chuyện
với các đại biểu người Hoa ở Việt Nam đến chào mừng đoàn đại biểu Đảng
và Chính phủ Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai dẫn đầu thăm Việt Nam
tháng 5/1960:
“Singapore có trên 90% là
người Trung Quốc, trong số dân hơn 1 triệu người thì hơn chín mươi vạn
là người Trung Quốc. Cho nên Singapore hoàn toàn trở thành quốc gia do
người Trung Quốc ở đó tổ chức”!
Ở Việt Nam
có khoảng 1,2 triệu người Hoa sinh sống (gần 1 triệu người ở miền Nam,
trên 20 vạn người ở miền Bắc). Năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã thỏa thuận người Hoa ở miền Bắc Việt Nam do Đảng
Lao động Việt Nam lãnh đạo và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam.
Thực tế là người Hoa ở miền Bắc được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ như
công dân Việt Nam. Còn người Hoa ở miền Nam, từ năm 1956 dưới thời
chính quyền Ngô Đình Diệm, đã vào quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều
điều kiện dễ dàng trong việc làm ăn, sinh sống.
Sau
khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp
tục nghiêm chỉnh thực hiện sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai Đảng về người
Hoa ở miền Bắc, đồng thời tôn trọng thực tế lịch sử về người Việt gốc
Hoa ở miền Nam, coi người Hoa ở cả hai miền là một bộ phận trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Số ít người mang căn cước Đài Loan, Hồng Kông
hoặc quốc tịch nước khác và số Hoa kiều bị bọn Pol Pot - Ieng Sary xua
đuổi và tỵ nạn sang miền Nam thì được coi là ngoại kiều.
“Ngược
lại, những người cầm quyền Trung Quốc xuyên tạc sự thỏa thuận năm 1955
giữa hai Đảng, phủ nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ở
miền Nam Việt Nam, coi tất cả người Hoa ở cả hai miền là kiều dân Trung
Quốc để đòi quyền lãnh đạo những người ấy. Trên thực tế, họ lập các tổ
chức phản động và màng lưới gián điệp người Hoa trên đất Việt Nam.
Các
tổ chức gọi là “Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”,
“Hoa kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh niên chủ nghĩa Mác – Lênin”, “Hội
học sinh Hoa kiều yêu nước”, “Mặt trận thống nhất Hoa kiều”… do Bắc Kinh
thành lập và chỉ huy, đã hoạt động chống lại các chính sách của chính
quyền, chống lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự, chống việc đi xây dựng vùng
kinh tế mới, kích động tâm lý huyết thống trong người Việt gốc Hoa, khơi
lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc. Họ in tiền giả, đầu cơ
tích trữ, nâng giá hàng nhằm phá kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế
của các cơ quan Nhà nước ở miền Nam Việt Nam.
Với
những thủ đoạn đó, những người cầm quyền Bắc Kinh đã gây thêm bao khó
khăn cho nhân dân miền Nam Việt Nam vốn đã gặp biết bao khó khăn do ba
mươi năm chiến tranh của đế quốc để lại, khiến cho nhiều người về sau bỏ
nước ra đi tìm một nơi mà họ cho là dễ làm ăn hơn. Bắc Kinh đã dùng
người Hoa làm công cụ gây rối loạn về chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt
Nam như họ đã làm ở một số nước Đông Nam Á và Nam Á” – Sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” nêu rõ.
Cái gọi là vấn đề “nạn kiều”
Theo
sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua”, giấu
mặt chống Việt Nam không đạt hiệu quả mong muốn, những người cầm quyền
Trung Quốc quay ra công khai chống Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, kể cả
bằng đe dọa vũ lực và dùng vũ lực. Đầu năm 1978, những người cầm quyền
Trung Quốc dựng lên cái gọi là vấn đề “nạn kiều” để mở đầu một chiến
dịch quy mô công khai chống nước CHXHCN Việt Nam.
Sự
thật là chính các tổ chức bí mật người Hoa, mạng lưới gián điệp của sứ
quán Trung Quốc ở Hà Nội, được sự chỉ đạo hàng ngày, hàng giờ của bộ máy
tuyên truyền Bắc Kinh, bằng những sự bịa đặt trắng trợn, những luận
điệu vu cáo Việt Nam “xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa”, bằng
những thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc, dụ dỗ, dọa nạt, đã gây nên trong quần
chúng người Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng hoang mang,
lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi ngờ, thậm chí thù ghét
người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc.
Bọn
tay chân của Trung Quốc tổ chức cho những người đó vượt biên giới trái
phép rồi lại chặn họ lại, gây ra ùn tắc ở biên giới Việt - Trung để dễ
bề kích động họ chống lại và hành hung các nhà chức trách Việt Nam ở địa
phương. Lúc dòng người Hoa ùn ùn kéo đi Trung Quốc, Bắc Kinh lại trắng
trợn đưa hai tàu sang Việt Nam đón “nạn kiều”, mặc dù họ không hề nêu
trước vấn đề đó với Chính phủ Việt Nam. Chỉ trong vòng mấy tháng đầu, 17
vạn người Hoa đã rời Việt Nam đi Trung Quốc.
“Cái
gọi là vấn đề “nạn kiều” chỉ là một sự cưỡng bức người Hoa ở Việt Nam ồ
ạt di cư đi Trung Quốc mà thủ phạm chính là tập đoàn phản động trong
giới cầm quyền Bắc Kinh, một sự lừa gạt và một sự phản bội của họ nhằm
gây xáo trộn về chính trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, hòng khuất phục
nhân dân Việt Nam, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn
sàng “đạo quân thứ năm” cho việc tiến hành xâm lược Việt Nam trong bước
sau” - Sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” nhấn mạnh.
Cũng
theo văn kiện này của Bộ Ngoại giao Việt Nam, vốn là những người làm ăn
sinh sống lâu đời ở Việt Nam, thông thạo địa hình, phong tục, tập quán,
có nhiều cơ sở quen thuộc cũ, có khả năng nắm được nhiều tin tức, tình
hình nên những người Hoa ở Việt Nam đi Trung Quốc đã được bọn bành
trướng Bắc Kinh chọn lựa để đưa vào những “sư đoàn sơn cước” chuyên đánh
rừng núi, thọc sâu vào hậu phương, hoặc những đơn vị đi trước mở đường,
hoặc những đơn vị thám báo, dẫn đường, bắt cóc, ám sát, phá hoại cầu
cống, kho tàng của Việt Nam. Nhiều tên trong bọn chúng đã bị bắt trong
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ ngày 17/2/1979.
Trước
quyết tâm của nhân dân Việt Nam giữ vững chủ quyền của mình, những
người cầm quyền Bắc Kinh buộc phải rút hai chiếc tàu đi đón “nạn kiều”
về nước, ngồi vào đàm phán với phía Việt Nam về việc giải quyết vấn đề
người Hoa. Nhưng trong đàm phán, họ vẫn giữ thái độ nước lớn, ngang
ngược áp đặt quan điểm vô lý của họ, bất chấp chủ quyền của nước CHXHCN
Việt Nam và luật pháp quốc tế. Chính họ đã cố tình phá hoại cuộc đàm
phán đó để tiếp tục dùng vấn đề người Hoa chống Việt Nam.
Cắt viện trợ, rút chuyên gia
Sách
“Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” cho hay,
nếu những năm 1969 – 1970, những người lãnh đạo Trung Quốc giảm viện trợ
đối với Việt Nam vì họ không tán thành Việt Nam thương lượng với Mỹ để
kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, và nếu những năm 1971 – 1972 họ tăng
viện trợ đối với Việt Nam cao nhất so với các năm trước vì muốn lợi dụng
vấn đề Việt Nam để thương lượng với Mỹ thì đến năm 1975, vì bị thất bại
ở miền Nam Việt Nam, họ lại dùng viện trợ để gây sức ép đối với Việt
Nam.
Họ khước từ những yêu cầu viện trợ mới của
Việt Nam dù năm 1975, khi chào mừng nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn
toàn miền Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố “sẽ tiếp tục
làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp chính
nghĩa nhằm củng cố thành quả thắng lợi, thống nhất và xây dựng Tổ quốc
của nhân dân Việt Nam”. Thật ra đây chỉ là một lời tuyên bố giả dối để che giấu sự hằn học của họ đối với thắng lợi lịch sử của nhân dân Việt Nam.
Về
phần viện trợ cũ đã thỏa thuận từ trong chiến tranh và chưa giao kết,
họ vin cớ này cớ khác để dây dưa, trong đó có những công trình đang làm
dang dở, có những công trình rất quan trọng đối với công cuộc hòa bình
xây dựng đất nước Việt Nam. “Rõ ràng viện trợ của những người lãnh
đạo Trung Quốc không phải là “vô tư” như họ thường khoe khoang mà chỉ là
công cụ của chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn.
Viện trợ của Bắc Kinh vẫn chỉ là “cái gậy” và “củ cà rốt” – Sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” viết.
Sách
này cũng cho biết, trong lúc ráo riết dụ dỗ, cưỡng ép người Hoa ở Việt
Nam đi Trung Quốc, nhà cầm quyền Bắc Kinh cũng dùng “cái gậy” viện trợ
để đồng thời đánh Việt Nam về kinh tế. Chỉ trong hơn một tháng, bất chấp
luật pháp và tập quán quốc tế, họ đơn phương tuyên bố chấm dứt toàn bộ
viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam, gọi về nước tất cả chuyên gia
và cán bộ kỹ thuật Trung Quốc đang công tác ở Việt Nam.
“Đây
là một đòn cực kỳ thâm độc, đưa ra đúng lúc nhân dân Việt Nam đang phải
hàn gắn những vết thương chiến tranh, đồng thời vừa phải đối phó với
cuộc chiến tranh biên giới ở phía Tây Nam, khắc phục những khó khăn kinh
tế do việc gần hai chục vạn người Hoa đột nhiên bỏ ruộng đồng, nhà máy
đi Trung Quốc, vừa phải đối phó với những thiệt hại nghiêm trọng do
những trận bão, lụt nặng nề nhất ở Việt Nam trong hàng trăm năm qua gây
ra” - Sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” viết.
Sách
này cho biết thêm, đi đôi với việc cắt viện trợ, rút chuyên gia, tập
đoàn phản động trong giới cầm quyền Trung Quốc còn bộc lộ lòng dạ xấu
xa, thâm độc đến cùng khi ngang nhiên vận động các nước, các tổ chức
quốc tế ngừng viện trợ cho công cuộc xây dựng lại Việt Nam. Họ đẩy mạnh
vu cáo Việt Nam để vừa che đậy ý đồ bành trướng của họ ở Đông Nam Á, vừa
cản trợ quan hệ bình thường giữa Việt Nam và các nước ASEAN, kêu gọi
các nước đó lập “mặt trận chung với Trung Quốc” chống Việt Nam.
Văn kiện cách đây 35 năm của Bộ Ngoại giao Việt Nam nhấn mạnh: “Với
cuộc vận động đó, họ hy vọng trên thực tế sẽ thực hiện được chính sách
bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị, tiến công về quân sự, như bọn
đế quốc và thực dân vẫn làm bấy lâu nay đối với một số nước. Đây là một
hành động thô bạo không những xâm phạm độc lập, chủ quyền của Việt Nam
mà còn can thiệp vào công việc của các nước khác và các tổ chức quốc tế”.
HẢI CHÂU (lược ghi)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét