18 tháng 2, 2018

VN dạy bành trướng Trung Quốc 1 bài học năm 1979 - T/G Trịnh Quốc Thiên

Sau năm 1975, Liên Sô giúp 500 triệu Mỹ kim cho ngân sách VN  tài khoá 1976 và 3 tỷ đô la cho kế hoạch ngũ niên 1976-1980 của Hà Nộị Bắc Kinh, trong lúc đó, chỉ viện trợ tưo+.ng trưng 200 triệu, báo tin không cấp ngân khoảng mới cho 1977 và ngày 27-9-1976, tại diển đàn Liên Hiệp Quốc,
 Ngoại Trưởng Kiều Quán Hoa một mặt tố Liên Sô đang  trám khoảng trống ở Á Châu và mặt khác, cảnh cáo các  thành viên Đông Nam Á đừng bao giờ "đón cọp vào ngã sau trong khi đuổi chó sói ra cửa trước." Với ước mong đu+ợc thu nhập vào COMECON, Hội Đồng Tài Trợ Kinh Tế Hỗ
Tương CS, Hà Nội theo sát con đường Liên Sô chống Trung Quốc (Tàu).

 Cuối 1976, đảng Lao Động VN nhóm Đại Hội lần thứ 4  tại Hà Nội, dưới sự giám sát của lý thuyết gia Mikhail A. Suslov, trưởng phái đoàn Sô Viết, thì đa số ủy viên  trong bộ Chính Trị đã theo phe TBT Lê Duẫn (tức ngã theo  Mạc Tư Khoa): Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến
 Dũng, Nguyễn Văn Linh, Tố Hữu, Đổ Mười. Những phần tu+? như Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, trước kia đứng giu+~a, nếu không nói là thiên Bắc Kinh, đều chuyển hưo+'ng. Phó Chủ Tịch Quốc Hội Hoàng Văn Hoan do thân Trung  Quốc nên bị khai trừ, phải trốn sang Tàu và lãnh án tử
hình khiếm diện. Nhiều người Việt đã chới với vì  Trung Quốc quyết định chấm dứt tình anh em hữu nghị giu +~a hai nước. Một số không ít như TT Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, Võ Chí Công và Chu Huy Mẫn phải đổi phía để sống còn. Ngay cả Trường Chinh cũng tỏ ra
 ôn hòa hơn. Cuối 1977, sau khi tham khảo ý kiến Trung  Quốc, Cam Bốt đoạn giao với VN. Đầu năm 1979, số cố vấn và chuyên viên Sô Viết tại VN tăng từ 5000 đến 8000. Nhiều diễn biến dồn dập xảy ra, khiến cho Bắc Kinh và Hà Nội không tránh được sự đụng độ trực tiếp.

 * Nguyên nhân dẫn đến đụng độ Việt - Trung

 1. VN cho phép Liên Sô sử dụng Vịnh Cam Ranh và ký Hiệp ưo
 +'c thân hữu với Liên Sộ Tháng 6-1978, không khí căng thẳ
ng khi Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình báo tin hủy bỏ
viện trợ cho VN, phản đối việc trục xuất 110.000 người
 Việt gốc Hoa và công bố Trung Quốc đã giúp cho CSVN hơn
 20 tỷ Mỹ kim từ 1950 đến 1978. Hà Nội liền tố ngược
 các lãnh tụ Tàu là phản động hiện chủ nghĩa bành trưo
 +'ng bá quyền. Đồng thời, Phạm Văn Đồng lên tiếng xin
 bình thường hóa bang giao với Hoa Kỳ. Mười hôm sau, gio
 +'i truyền thông Hà Nội rầm rộ tung tin Liên Sô được
 phép lập căn cứ quân sự tại Cam Ranh và Đà Nẵng. Sau
đó, Liên Sô tăng thêm viện trợ dài hạn cho Hà Nộị

2. Ngày 3-11-1978 Liên Sô và VN ký Hiệp ước thân hữu và
 hợp tác, trong đó điều 6 đặc biệt ghi rằng đôi bên
 sẽ áp dụng "các biện pháp thích nghi và hữu hiệu để bả
o vệ hòa bình và an ninh " nếu một trong hai nước bị đe
 dọa hay tấn công. Về mặt chiến lược, Trung Quốc muốn
 thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn
để thăm dò khả năng tương trợ của Liên xô, sau khi VN
 gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế SEV, và ký hiệp u
 +ớc hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978), trong đó
 có điều khoản về tương trợ quân sự . Nếu thảo ước
 này được tuân thủ nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân
ủy Trung ương đảng CS Trung Quốc, nó sẽ là hiểm họa
 quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế lưỡng
đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với VN hoặc Liên
 Xộ Trong dịp viếng Thái Lan, Đặng Tiểu Bình sỉ vả VN là
 "Cuba của phương Đông, bắt tay với đế quốc để xây
 mộng bá chủ và đe dọa Thái Bình Dương và Thế Giới!”.

3. Tranh chấp Viê.t-Hoa về lãnh thổ. Từ lâu, 3 khu vực
 sau đây là đề tài tranh cãi giữa VN và Trung Quốc.

 a) Một biên giới chung dài trên 797 cây số (phần còn lại
được phân giới bằng các con sông), được thực dân
 Pháp và Trung Hoa ấn định năm 1887 trong một thỏa ước và
 bổ túc năm 1895. Cuối thập niên 70, cả Hoa và Việt
 khiếu nại lẫn nhau về vị trí của 310 cột trụ phân ranh.


 b) Tranh chấp vịnh Bắc Việt, còn gọi là Beibu Gulf- Vịnh Ba
 ('c Bộ (Gulf of Tonkin). Hai Thỏa Ước vừa kể không nói
 rõ lằn ranh thuộc phần kiểm soát của mỗi nước. Tháng
 10-1977, cuộc hội nghị tại Bắc Kinh không giải quyết đưo
 +.c dứt khoát vấn đề.


c) Gây cấn nhất là chuyện dành chủ quyền hai nhóm quần
đảo Hoàng Sa (Paracels-Nam Sa-Nansha)và Trường Sa (Spratlys-
Tây Sa-Xisha). Khu vực này hệ trọng cho cả Trung Quốc và
 VN về chiến thuật và dầu khí. Hoàng Sa, Trường Sa, cùng
 với một số đảo lân cận khác như Pratas Reef và
 Macclesfield là những trạm thông thương giữa Thái Bình Dưo
 +ng và Ấn Độ Dương.


 Ngày 4-9-1958, Bắc Kinh công bố chủ quyền trên Trường Sa
 và Hoàng Sạ Mười hôm sau, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gở
i công văn cho Chu Ân Lai xác nhận chính phủ VN đồng ý. Na
 (m 1977, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng nói trớ lại rằng công
 văn này vô hiệu vì ký trong thời chiến quân đội vN đã
 tái chiếm được 6 đảo nhỏ. Từ 1974 cho đến ngày
 16-2-1979, theo Nhân Dân Nhật Báo (TQ), số ra ngày 14-5-1979
 và bản ghi chép "SRV Memorandum" đề ngày 16-3-1979, có tất
 cả 3535 vụ xô xát Viê.t-Hoa tại biên giới (trong sổ sách
 Trung Cộng) và 4333 vụ (chiếu theo tài liệu VN).

 4. Hà Nội trục xuất Hoa Kiều làm cho tình hình căng thẳng tột đô..

Đầu 1977, Viê.t-Hoa căng thẳng. Chính quyền Hà Nội đuổi người Tàu sống tại các tỉnh biên giới về Trung Quốc.
 Nhà nước CHXHCN còn công bố cho phép ra đi vĩnh viển nhu
 +~ng ai mang chiếu khán Hồng Kông, Đài Loan hay Pháp. Ngày
 29 tháng 6, VN chính thức gia nhập COMECON, Bắc Kinh liền
 cúp viện trợ hoàn toàn, hồi hương 880 chuyên viên và
đóng cửa Sứ Quán. Hà Nội ra lệnh cho Tòa Tổng Lãnh Su
 +. Tàu ngưng hoạt động tại thành phố SG. Ba lãnh sự
quán Việt ở Nam Ninh, Côn Minh và Quảng Đông cũng phải
 rút luị Từ tháng 9-1978, trong tạp chí CS và tờ Quân
Đội Nhân Dân, nhà cầm quyền VN bắt đầu kêu gọi dân
 chúng sẳn sàng chống lại "chủ nghĩa bành trướng của nưo
 +'c lớn và ý đồ bá quyền của bọn Đại Hán phong kiến
 Trung Hoa". Trung Quốc muốn đem Hoàng Văn Hoan về nước,
 lật đổ chính quyền Hà Nội và tiêu diệt phe chống
 Trung Quốc do Lê Duẩn lãnh đạo và dựng lên chính phủ mo
 +'i do Hoàng Văn Hoan (thân Trung Quốc) đứng đầụ


 Đặng Tiểu Bình chuẩn bị chiến tranh: Thủ Tướng Chu Ân
 Lai qua đời đầu năm 1976 và Mao Trạch Đông, chín tháng
 saụ Nội tình Trung Quốc xáo trộn vì ba sự kiện hệ
trọng:


 1. Chiến dịch sôi nổi chống nhóm "bè lũ bốn tên" của
 Giang Thanh (Jiang Qing), vợ Mao Trạch Đông, đầu não xách
động Cách Mạng Văn Hóạ


2. Việc thi hành chậm trể kế hoạch Bốn Hiện Đại Hóa
 do Chu đề xướng để canh tân kỷ nghệ, canh nông, quốc
 phòng và khoa học.


 3. Sự tranh quyền ráo riết giữa Đặng Tiểu Bình và tổ
ng Bí Thư Hoa Quốc Phong. Cuối năm 1978, sau hai lần bị khai
 trừ, Đặng phục hồi quyền lực, nắm lại đa số trong
 Bộ Chính Tri..


 Ngày 15-12-1978, Hoa Kỳ công nhận Trung Hoa vào Liên Hiệp
 Quốc. Đặng Tiểu Bình liền bay qua Hoa Thịnh Đốn hội
 kiến với Tổng Thống carter, báo tin riêng sẽ tấn công
 VN và trấn an Mỹ rằng nhà cầm quyền nước ông biết tu
 +. chế. Ngày 1-1-1979, hai nước bang giao chính thức. Đa
 (.ng cũng viếng Nhật và một số quốc gia Đông Á để
dò xét phản ứng. Tất cả đều lo ngại về ý đồ tương
 lai của VC, đồng minh của Liên Sộ Trở về Bắc Kinh, Đa
 (.ng điều chỉnh kế hoa.ch. Thay vì gởi quân qua Cam Bốt
 giúp Khờ Me Đỏ và để tránh mang tiếng với Thế Giới
 là "mưu đồ bành trướng”, Trung Quốc quyết đánh thẳng
 vào VN dưới hình thức "phản công tự vệ", không dùng hả
i lực không quân, trong một thời gian giới hạn và chỉ nha
 ('m vào vùng biên giớị Nhận thấy VN đưa quân vào
 Campuchia lật đổ chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ do Trung
 Quốc bảo trợ trong cuộc chiến tranh giữa VN và Campuchia,
 Trung Quốc quyết định tấn công xâm lược VN với lý do
 "dạy cho VN một bài học đích đáng" (lời Đặng Tiểu
 Bình) nhưng mục đích chính là phân chia lực lượng quân
đội của VN để giúp chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ.
Đồng thời, Trung Quốc muốn thử nghiệm chiến thuật
 quân sự phòng thủ chủ động, đưa cuộc phòng thủ biên gio
 +'i vào sâu lãnh thổ VN.


 * Tình hình chung của Trung quốc - VN thời 1979.


 Trước tháng 2-1979, Trung Quốc có 3,600,000 quân nhân tại
 ngũ và 175 sư đoàn tại 11 vùng chiến thuật. Võ khí gồm
 có 10,000 chiến xa, 20,000 giàn phóng hỏa tiển, 16,000 khẩu
 pháo và phương tiện chuyên chở rất lạc hậụ Hải quân
 có 30,000 thủy thủ, 75 tiềm thủy đỉnh. Hạm đội Bắc Hải
 có 300 chiến hạm, Đông Hải: 450 và Nam Hải: 300. Lực lưo
 +.ng không quân có 400,000 phi công, 5,000 chiến đấu cơ cũ
và lỗi thời, loại Mig 15, 17,19 và 80 Mig 21. Đặng Tiểu
 Bình là Tổng Tư Lệnh Hành Quân, với 2 phụ tá Tướng Hu
 +'a Thế Hữu và Tướng Dương Đắc Chí.


Để tiến công VN, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lu
 +.c và một số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32
 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung
đoàn pháo binh, phòng không. Lực lượng được huy động
 khoảng 60 vạn binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1260 súng
 cối và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm
đội Nam Hải và 1700 máy bay sẵn sàng phía saụ Tướng Hu
 +'a Thế Hữu, tư lệnh Đại Quân khu Quảng Châu chỉ huy hưo
 +'ng tiến công vào đông bắc VN với trọng điểm là Lạng
 Sơn và Cao Bằng. Tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại
 Quân khu Côn Minh đảm nhiệm hướng tây bắc với trọng
điểm là Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai). Đây là đợt huy
động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ Chiến
 tranh Triều Tiên.


 Về phía VN, tổng quân số lên đến 600,000 binh sĩ phân
 chia 200,000 tại Cam Bốt, 100,000 tại Lào, 100,000 tại Nam
 Việt, và 200,000 ở Bắc Việt. Xung quanh Hà Nội, có 5 sư
 đoàn và 4 lữ đoàn. Do phần lớn các quân đoàn chính quy
 (3 trong số 4 quân đoàn) đang chiến đấu ở Cam Bốt nên
 phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số su
 + đoàn chủ lực quân khu (chủ yếu là tân binh) của Quân
 khu I và II cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh,
 huyện, công an vũ trang (biên phòng) và dân quân tự vê.. Lu
 +.c lượng biên giới có khoảng 70.000 quân, sau được hai su
 + đoàn từ miền xuôi lên tiếp viện. Quân đoàn 1 vẫn
đóng quanh Hà Nộị Dài theo biên giới Trung Hoa, VN có
 150,000 dân quân tổ chức thành 6 sư đoàn địa phương và
 một trung đoàn. Không lực CHXHCN VN có 300 chiến đấu cơ
(70 Mig 19, 17 chiếc Mig 21, và một số F-5, A-37, C-130, UH-1A
 tịch thu của Mỹ-VNCH năm 1975). Hải quân Việt có 2 chiếc
 PETYA Sô Viết với hỏa tiễn chống tiềm thủy đĩnh, và 60
 tàu tuần tiểụ


Cuộc tấn công "dạy VN một bài học" kéo dài 16 ngày, chia
 thành ba (03) giai đoạn:


Ạ Từ 17 đến 26-2-1979: Phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên
 của VN và chiếm Cao Bằng, Lào Cai, cùng hai thị trấn Cam Đu
 +ờng và Đồng Đăng, cửa ngõ dẫn vào Lạng Sơn. Ngày 17
 tháng 2, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật biển người,
 khoảng 10,000 binh lính Trung Quốc, được chiến xa Bát
 Nhất hỗ trợ, đã tràn vào Lạng Sơn, (phía Đồng Đăng),
 Cao Bằng, Đông Khê, Móng Cáy, và Lào Cai sau khi pháo kích
 mãnh liệt. Sự tiến quân, mau lẹ lúc đầu, lần hồi bị
du kích địa phương quân Việt chận lại và bao vâỵ Các đo
 +n vị chính quy VN tập trung về phía Nam Cao Bằng và Lạng So
 +n để đánh tiêu hao những sư đoàn đối phương. Số
tổn thương của hai bên đều nă.ng. Quân đội Trung Quốc
 áp dụng chiến thuật biển người bất kể tổn thất
 tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc VN.


 Hướng Lạng Sơn có quân đoàn 43, 54, 55.


 Hướng Cao Bằng có quân đoàn 41, 42, 50.


 Hướng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14.


 Hướng Lai Châu có quân đoàn 11.


 Hướng Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang) mỗi nơi cũng
 có từ 1-2 sư đoàn. Tất cả các hướng tấn công đều
 có xe tăng, pháo binh hỗ trơ..


Trong giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, quân
 Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà
 Giang và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh
 tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do
 vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của VN nên quân Trung
 Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nă.ng.


 Phía Trung Quốc chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng không
 có ý định tiến về Hà Nộị Đặng Tiểu Bình lớn
 tiếng đe dọa "quân Trung Quốc sẽ ăn sáng ở Hà Nội, ăn
 trưa ở Huế và sẽ ăn tối ở Saigon". Lúc này, Ban Bí Thư
Trung Ương đảng CS được mật lịnh của TBT Lê Duẫn dời
 ra thành phố Nha Trang. Phía VN có các đại đơn vị sau
đây tham chiến trong thế trận phòng ngự hai lớp:


 1) Phòng tuyến lớp đầu gồm có sư đoàn 325B, sư đoàn
 338, sư đoàn 3, sư đoàn 374, sư đoàn 304, sư đoàn 346
 (trung đoàn 246, 677, 851 và trung đoàn pháo binh 188), trung
đoàn 43, trung đoàn 244, trung đoàn 576, trung đoàn 49, và 6
 tiểu đoàn dân quân tự vê.. Tổng quân số khoảng 70 ngàn
 quân.


 2) Phòng tuyến lớp nhì gồm có: sư đoàn 312, sư đoàn
 431, sư đoàn 327, sư đoàn 329, sư đoàn phòng vệ hải đảo
 242, trung đoàn 196, lữ đoàn 38, lữ đoàn 98, và 27 đơn
 vị cảnh sát (khoảng 100 cảnh sát cho mỗi đơn vị). Quân
đoàn 1 và 2 cùng đóng ở Hà Nộị Tổng quân số khoảng
 88 ngàn quân.


 Ngày 19 tháng 2 năm 1979, nhóm cố vấn quân sự cao cấp củ
a Liên Xô tới Hà Nội để gặp các tướng lĩnh chỉ huy
 của VN. Liên Xô yêu cầu Trung Quốc rút quân. Liên Xô cũng
 viện trợ gấp vũ khí cho VN qua cảng Hải Phòng, đồng tho
 +`i dùng máy bay vận tải chuyển một số sư đoàn chính
 quy VN từ Cam Bốt về. Sau đó, Liên Sô đưa 7 chiến hạm
 tuần tiểu dài theo hải phận VN vào ngày 21 tháng 2, gởi
 tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak vào Nam
 Hảị Vũ khí Liên Sô được không vận từ Calcutta và
 một phía đoàn quân sự Sô Viết bay qua Hà Nộị Mạc Tư
Khoa yêu cầu Bắc Kinh rút binh. Cùng một ngày, Hà Nội ra
 lệnh tổng động viên toàn quốc.


 B. Từ 27-2 đến 5-3: Tấn công Lạng Sơn và khu vực bao
 quanh ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở phía tây bắc.
 Chiến cuộc tiếp diển ở Lào Cai, Cao Bằng và Móng Cáy
 nhưng tập trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách Đèo Hữu
 Nghị lối dặm và Hà Nội, 85 dặm. Với hai sư đoàn mới
đến từ Đồng Đăng và Lộc Bình, Trung Cộng vất vả
tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh. Quân Việt chống cự
mãnh liệt và còn đột nhập vào ba thị trấn Guangxi,
 Malipo và Ninping ở bên kia bên giớị Trong giai đoạn sau,
 cả hai bên đều tăng cường thêm lực lượng và cuộc
 chiến tiếp tục, trong đó quyết liệt nhất là hướng
 Lạng Sơn. Tại đây sư đoàn bộ binh 3 Sao Vàng, một đơn
 vị thiện chiến của VN cùng một số sư đoàn khác đã
 tổ chức phòng thủ chu đáọ Sau nhiều trận đánh đẫm
 máu bất kể tổn thất, quân Trung Quốc vào được thị
xã Lạng Sơn chiều ngày 4 tháng 3 năm 1979. Đồng Đăng và
 Cẩm Dương bị san bằng nhưng các đơn vị Việt tiếp tục
đánh tại Lộc Bình và Móng Cáị Các đơn vị kỹ thuật
 Công Binh Việt đã dùng các bom CBU 55 (Bom Con Heo -loại 7
 tấn- đã dùng các mặt trận Xuân Lộc 1975- do VN Cộng
 Hòa để lại) để cầm cự với quân Trung Cô.ng. Do chỉ
còn có 1 chiếc C-130 (do KQ VNCH để lại) và không còn bàn
 trượt (pallet) để đẩy bom ra khỏi máy bay nên không thể
thả bom từ trên không được. Một sáng kiến được đưa
 ra là dùng xe Molotova chở thẳng các quả bom CBU 55 vào các
 cánh rừng gần nơi trú quân. Sau khi gài mìn kích nổ hẹn
 giờ, các lực lượng trú phòng VN rút về phía Nam. Quân
 Trung Quốc tràn lên chiếm đóng và kết cục là phải hứng
 chịu những trận nổ long trời lở đất gây thiệt hại na
 (.ng nề về quân số. Thật ra sáng kiến này cũng chỉ áp
 dụng lại kỹ thuật đánh hầm ngầm đồi A1 trong trận
Điện Biên Phủ- trong đó quận Việt Minh đã cho nổ một
 khối thuốc nổ 1 tấn dưới chân đồi A1. Kết quả quân
 Trung Quốc bị thiệt hại khá nặng nề sau vài ngày tiến
 chiếm 6 tỉnh biên giới phía Bắc của VN. Ngày 5 tháng 3 na
 (m 1979, VN ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Đồng tho
 +`i phía VN cũng điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng,
 pháo binh hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công
 giải phóng các khu vực bị chiếm đóng.


 C. Giai đoạn cuối: bình định và phá hủy các căn cứ quân
 sự ở khu vực biên giới với VN, trước khi rút về vào
 ngày 16 tháng 3. Ngày 5 tháng 3, do bị tổn thất nặng,
 không thể tiến quân tiếp tục, cộng với áp lực của
 Liên Xô và sự phản đối của quốc tế, đồng thời cũng
đã gây thiệt hại nặng cho nhiều thị xã lớn của VN ở
biên giới, Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu
 chiến tranh", chính quyền Bắc Kinh một mặt công bố đã
 chiếm được (do quân Việt rút lui) các tỉnh lỵ Lạng Sơn,
 Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận, gây thiệt haị nặng cho 4 sư
 đoàn Việt và công bố sẽ rút quân "sau khi hoàn tất mục
 tiêu". Mặt khác, cảnh cáo Hà Nội không được cản trở su
 +. rút lui của Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc.


 Ngày 07 tháng 3, VN xác nhận đồng ý cho đối phương rút
 quân "để tỏ thiện chí hòa bình". Tại Nga, Thủ Tướng
 Kosygin và TBT Brezhnev cực lực lên án Trung Quốc, tiếp
 tục cho không vận vũ khí và canh chừng hải phận VN. Ngày
 16-3-1979, không còn đơn vị Trung Quốc nào ở VN.


 Dưới đây là bản kê khai thiệt hại của đôi bên căn cứ
vào tài liệu mỗi phía, trích từ quyển sách "Chinás War
 with Viet Nam, 1979" của GS King G. Chen:


 Trung Quốc VN


 Tử thương: 26,000 30,000


 Bị thương tích: 37,000 32,000


 Tù chiến tranh: 6,000 2,380


 Chiến xa, quân xa: 420 185


 Bích kích pháo, súng: 66 200


 Giàn hỏa tiển: 0 6

Trung Quốc lẫn Việt đều tuyên bố thắng trận nhưng không xứ nào hoàn thành mục tiêu chính yếụ Trung Quốc không hủy được sư đoàn VN nào, không chấm dứt được
 xung đột tại biên giới, không ép được các đơn vị VN
 rút ngay ra khỏi Cam Bốt và cũng không thuyết phục nổi VN
 thay đổi chính sách đối với Hoa kiều. Phía VN có hàng
 chục nghìn dân thường chết và bị thương. Trung Quốc
 cũng đã gây ra những tội ác và những thiệt hại nặng
 nề về kinh tế cho VN: 4/4 thị xã bị hủy diệt hoàn toàn,
 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh
 xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp,
 hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị
giết và bị cướp. Khoảng 2,5 triệu dân bị mất nhà cửa,
 tài sản và phương tiện sinh sống.


 Tuy nhiên, Bắc Kinh đã thành công trong việc chiếm thêm
đất đai của VN. Trước năm 1979 chỉ có khoảng 30 điểm
 khu vực có tranh chấp lãnh thổ với Trung Cô.ng. Sau trận
 chiến 1979, số điểm tranh chấp và chiếm đóng trái phép
 lên đến hàng trăm điểm như khu vực Chi Ma (Lạng Sơn) và
 còn rất nhiều khu vực khác chẳng hạn như xã Thanh Lòa
 huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn, khu vực Hang Nà Cốc Pheo
 thuộc xã Cấn Yên, huyện Thông Nông tỉnh Cao Bằng, bản
 Nà Ke xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.


 Hoàn cảnh sau 03/1979 thật đúng theo tục ngữ "Nực cười
 châu chấu đá xe, tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe
 nghiêng". Trung Quốc tính dạy VN 1 bài học nhưng chính ra VN
đã dạy lại Trung Quốc 1 bài học đích đáng.


 Trích chương 18 trong sách lịch sử "Những biến cố mất
 lãnh thổ-lãnh hải của VN từ 939-2002" của tác giả L/S
 Trịnh Quốc Thiên. Sách đã đoạt giải Biên Khảo năm 2008 củ
a Hội Y Sĩ Quốc Tế - VN Tự Do (ngày 09 tháng 08 năm 2008
 tại Thành Phố San José - Hoa Kỳ).


Trinh Quoc Thien, Esq.

trinhquocthien@gmail.com


 Tham khảo :


 Tài Liệu Việt Ngữ :


- Hoàng Dung, "Chiến tranh Đông Dương 3”, nxb Văn Nghệ, USA,
 2000.
- Lâm Lễ Trinh, "Chiến Tranh Việt Trung năm 1979".
- Lưu Văn Lợi (1997), "Ngoại giao VN”.
- Lê Mậu Hãn (chủ biên). "Đại cương Lịch sử VN”, tập
 III, 1945-2000. Hà Nội: NXB Giáo dục, 2001.
- Lê Xuân Khoa, "VN 1945-1995". Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004.
 trang 211.
- Nguyễn Hữu Thúy (1979), Chinese Aggression : How and Why it
 failed",
- NXB QĐND (1980).
- Sách Trắng "30 Năm Quan Hệ Viê.t-Trung"-1979.
- "Tội ác chiến tranh của bọn bành trướng Trung quốc
đối với VN”, NXB Sự thẩt, 1980.
- "Vấn đề biên giới giữa VN và Trung Quốc”, 1979.
- "Kiên quyết đánh bại chủ nghĩa bành trướng và chủ
nghĩa bá quyền Trung-Quốc”, Trường-Chinh, 1982.
- "Thất bại thảm hại của quân Trung Quốc xâm lược”, 1979.
- "Chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung-Quốc”,
1983.

 Tài liệu Anh-Ngữ :

- "Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-VNese Conflict",
 Bruce Elleman, Tài liệu thư khố Trung tâm Nghiên cứu Chiến
 tranh VN, Texas Tech Universitỵ
- "The Sino-VN War-1979: Case Studies in Limited Wars" Colonel G.D.
 Bakshi, Bharat Rakshak Monitor - Volume 3(3) NovemberĐecember 2000.
- The Chinese People’s Liberation Army: "Short Arms and Slow Legs",
 Russell D. Howard, Học Viện An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, Học viện
 Quân sự Hoa Kỳ ở Coloradọ
- Howard W. French, "Was the War Pointless? China Shows How to Bury
 It", The New York Times, March 1, 2005.
 - Howard W. French, "In China, a war's memories are buried",
 International Herald Tribute, March 2, 2005.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét