QUỐC
SÁCH ẤP CHIẾN LƯỢC
Học
Mót của người, Nhìn Lạm của mình
(Anh
đã thực-hiện tại Mã-Lai,
Pháp
đã áp-dụng tại Bắc-Việt)
Đã
có Bí-Quyết mà vẫn Quyết Bí
(Suốt
8 năm trời
[1954-1961] mà không chấp-hành,
mãi
đến tháng 2-1962 [cận
ngày 1-11-1963[ mới
đem ra khoe)
Có một số người cho rằng Chương-Trình Ấp
Chiến-Lược đã giúp chính-quyền Ngô
Đình Diệm bình-định xứ-sở,
triệt-tiêu cộng-sản, đem lại đời
sống an-bình cho dân-nhân Miền Nam dưới
chế-độ Đệ-Nhất
Cộng-Hòa; và “cha
đẻ”
của Chương-Trình được gọi là
Quốc-Sách ấy chính là Cố-Vấn Ngô
Đình Nhu (sic).
Theo
họ thì sau cuộc Cách-Mạng 1-11-1963,
vì Trung-Tướng Dương
Văn Minh đã hủy bỏ quốc-sách Ấp
Chiến-Lược nên cộng-sản mới có
thể dễ-dàng lấn chiếm và đánh thắng Miền
Nam (sic).
Sự
Thật là “Ấp Chiến-Lược”
bị hủy-bỏ bởi Sắc
Luật số 103/SL/CT, do Thủ-Tướng Nguyễn
Khánh ký ngày 9 tháng 3-1964
(xem Tham-Chiếu
1).
Để các thế-hệ sau này hiểu biết chính-xác
về thực-chất của Chương-Trình Ấp
Chiến-Lược, ta hãy tìm đọc các tài-liệu
lịch-sử ‒ mà các cá-nhân nói trên đã không
biết đến, hoặc đã cố-ý không đề-cập
đến mà còn tự-ý thêm-thắt bịa-đặt ra
‒ hầu bắt mọi người phải nghe
những lời ca-tụng vu-vơ dựa trên những
điều không hề xảy ra.
*
Nhưng,
trước tiên, tôi xin nói về những gì mà chính
bản-thân tôi biết được về Ấp
Chiến-Lược.
*
Từ
năm 1954,
nhất là sau khi Đức Quốc-Trưởng Bảo
Đại
bổ-nhiệm và Ông Ngô
Đình Diệm
đã nhậm chức Thủ-Tướng Quốc-Gia
Việt-Nam,
việc làm của tôi quá nhiều và quá “quan-trọng”.
Vừa
là biên-tập-viên (góp bài cho “Tuần-Báo Tiếng
Kèn”;
viết “Mục Thời-Luận”,
trả lời “Thư
Thính-Giả”,
soạn bài “Quân-Nhân
Tìm Hiểu”,
giới-thiệu tân+cổ Nhạc
Việt-Nam
và “Nhạc
Ngoại-Quốc”
hằng ngày cho Đài
Quân-Đội;
tóm-lược tình-hình cho nhật-báo “Bản
Tin”;
viết bài phóng-thanh cho “Đại-Đội Võ-Trang Tuyên-Truyền”;
viết các bài bình-luận đặc-biệt để Trưởng
Phòng Năm Quân-Khu sử-dụng tại các nơi khác; thảo diễn-văn cho các Tư-Lệnh Quân-Khu;
làm tuyên-truyền-viên lưu-động; làm phóng-viên
chiến-tranh (war correspondent); thuyết-trình tại các
buổi “Học Tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục”,
v.v..., tôi còn là giám-đốc Chương-Trình Phát-Thanh
hằng ngày “Tiếng
Nói Quân-Đội”
‒ cho khắp Đệ-Nhị Quân-Khu (từ Tỉnh Quảng-Trị
vào Tỉnh Bình-Thuận,
tức là cả Quân-Khu I lẫn Quân-Khu II sau này).
Công-việc
quá nhiều đến nỗi tôi được chỉ-định
mà không thể đến giảng môn “Tác-Động
Tinh-Thần”
(tiền-thân của Tâm-Lý-Chiến tức Chiến-Tranh
Tâm-Lý, và
về sau là Chiến-Tranh
Chính-Trị)
tại “Trường
Sĩ-Quan Đập Đá”
(nơi xuất-thân của thiếu-úy ‒ về sau là
trung-tướng ‒ Trần
Văn Trung), cũng
như tại lớp đào-tạo “Tình-Báo
Ấp Chiến-Lược”
ở gần vùng Phủ
Cam.
Việc
làm quá “quan-trọng” ‒ góp
phần tích-cực và hữu-hiệu củng-cố địa-vị
của (Thủ-Tướng rồi Tổng-Thống)
Ngô Đình
Diệm ‒
đến nỗi Bộ Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu
đã đề-nghị Bộ Tổng-Tham-Mưu ban thưởng
cho tôi “Quân-Công
Bội-Tinh”
‒ là một huân-chương chỉ dành cho các sĩ-quan
tràn-đầy chiến-công và dạn-dày thâm-niên, trong lúc
tôi chỉ là một quân-nhân trừ-bị ‒ “văn-nghệ-sĩ
và ký-giả” mà được “động-viên
chuyên-môn” (như các nhạc-sĩ Lâm
Tuyền, Văn
Giảng, Lê
Trọng Nguyễn,
v.v... trong Ban Tân-Nhạc thuộc Đài của tôi). Tuy không
được cấp mề-đay, nhưng việc đề-nghị
như thế chứng-tỏ Miền
Trung
đã đánh giá tôi “cao” đến ngần nào.
Nhắc
lại chuyện cũ dài-dòng là để nhấn
mạnh một điểm: trong khoảng 1954-1956
(2 năm nhiệm-kỳ quân-dịch pháp-định
cộng với 6 tháng lưu-dụng vì nhu-cầu quân-vụ)
của tôi, đã có ít nhất là một Lớp Đào-Tạo
cán-bộ “Tình-Báo Ấp
Chiến-Lược”
được mở ra tại Huế.
Tóm lại, “Ấp Chiến-Lược”
đã có nằm trong chương-trình hoạt-động
của chính-quyền Ngô Đình
Diệm, do Cố-Vấn Hoa-Kỳ,
đặc-biệt là Đại-Tá CIA Edward
G. Lansdale (xem
Tham-Chiếu 2)
đề ra, chậm nhất là
từ năm 1956 rồi.
*
Mãi
đến ngày 3 tháng 2 năm 1962
(8 năm
sau ngày chấp-chánh), sau khi chế-độ đã suy-thoái
rồi, Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm
(và Cố-Vấn Ngô
Đình Nhu)
mới áp-dụng Chương-Trình “Ấp
Chiến-Lược”
(xem
Tham-chiếu 3)
*
Năm
1962,
tôi được đưa đi thụ-huấn một
khóa tình-báo đặc-biệt (là khóa cao-cấp đầu
tiên mà CIA
huấn-luyện cho một số viên-chức Cảnh-Sát Công-An,
Phó Đốc-Sự Hành-Chánh, và sĩ-quan Quân-Lực VNCH
được chọn-lọc kỹ). Sau đó, tôi
được sung vào một tổ-chức, về phía dân-sự,
gọi là “Đoàn
Công-Tác Đặc-Biệt”
(SOC= Special Operations Corps) ‒ không phải là “Đoàn Công-Tác
Đặc-Biệt Miền
Trung”
của Cố-Vấn Ngô
Đình Cẩn
do Ông Dương
Văn Hiếu
cầm đầu ‒ . Đoàn SOC này, trực-thuộc
Phủ Đặc-Ủy Tình-Báo Trung-Ương về
mặt chuyên-môn, và được sự yểm-trợ
của Nha Tổng-Giám-Đốc Cảnh-Sát & Công-An
về mặt hành-chánh, hoạt-động bí-mật, dưới
thời Đại-Tá Nguyễn
Văn Y, là người
kiêm-nhiệm cả hai chức-vụ đứng đầu
Phủ ĐUTBTƯ và Tổng Nha CSCA. Đoàn gồm có
nhiều Đội. Riêng Đội của tôi (tôi là
Phụ-Tá Điều-Hành kiêm Phiên-Dịch-Viên) thì
hoạt-động tại Cao-Nguyên
Trung-Phần,
có trụ-sở riêng, đóng tại Ban
Mê Thuột, bên
trong là “Đội
Khảo-Cứu Địa-Lý”,
bên ngoài là “Phòng
Cảnh-Sát Tư-Pháp”
(sở-dĩ dùng ngụy-danh này là vì trước đó tôi
là Trưởng Phòng Cảnh-Sát Tư-Pháp tại Nha
Cảnh-Sát Công-An Cao-Nguyên Trung-Phần ‒ hồi đó
tuy mặc dân-phục nhưng tôi đã đến tận
các phạm-trường chấp-lý các vụ phạm-pháp,
nên đã có người biết mặt, biết tên).
Vì
là “khảo-cứu
địa-lý”
nên tôi phải nắm vững tình-hình nông và sơn-thôn,
trong đó có các Địa-Điểm
Dinh Điền,
các Khu Trù
Mật, và
nhất là các Ấp
Chiến Lược
vừa mới bắt đầu thành-hình trong năm 1962.
Đồng-thời, vì là công-tác tình-báo, lần đầu
tôi có cố-vấn CIA. Do đó, với óc tìm-tòi, tôi
đã có dịp đọc được bản gốc tài-liệu
tiếng Anh về “Ấp
Chiến Lược”,
đặc-biệt là nguồn gốc của nó, cùng
với những kinh-nghiệm, ưu+khuyết-điểm
của Ấp
Chiến-Lược
rút được từ thực-tế thi-hành trước
đó tại các nước Mã
Lai và Phi
Luật Tân.
I
Tóm-tắt
về Ấp Chiến-Lược
Người
được công-nhận như một “Tổng Giám
Đốc Điều Hành” của Chương-Trình Di-Dân
Lập Ấp (nguyên-lai của Ấp
Chiến-Lược)
trên bình-diện quốc-tế là Sir
Robert Thompson,
một sĩ-quan
không-quân và là một chuyên-gia chống-khuynh-đảo
của nước Anh.
Ông được cử làm Bộ-Trưởng Quốc-Phòng
Thường-Trực cho nước Mã-Lai,
thực-hiện hữu-hiệu sáng-kiến làng-xóm
tái-định-cư
(Village Resettlement) của Tướng Gerald
Templer của Anh
trong việc đánh dẹp Bộ-Đội Giải-Phóng
Dân-Tộc Mã-Lai (MNLA= Malayan National Liberation Army) của đảng
cộng-sản Mau
Mau tại nước
này, từ cuối thập-niên 1940 đến thập-niên
1950.
Về Việt-Nam,
có nhiều tài-liệu liên-quan, nhưng tôi tạm lấy
một tài-liệu được xem là công-trình sưu-tập
và biên-khảo đứng-đắn mới nhất
từ Văn-Khố Việt-Nam
tại Viện Đại-Học Texas
Tech (Vietnam Archive, Texas
Tech University), để tóm-lược
dưới đây.
Nguồn:
The
Use of the British Village Resettlement Model in Malaya and Vietnam, 2002
(Việc sử-dụng kiểu-mẫu của Anh
về Tái Định-Cư Xã Ấp tại nước Mã
Lai và nước Việt Nam):
Tại
Việt-Nam,
từ 1952 đến
1954, tướng
Pháp
Francois Linares
đã cho tái-định-cư khoảng 3 triệu người
Việt
ở Miền
Bắc, đặc-biệt
vùng đồng-bằng sông Hồng-Hà,
vào các “làng được bảo-vệ” mà họ
gọi là “nông-thị”
(agroville) tức là thị-trấn ở nông-thôn, tức là
“Khu Trù-Mật”.
Đó là chính-sách “bình-định bằng sự
phồn-thịnh”.
Pháp
cung-cấp
dồi-dào các tiện-nghi
xã-hội và kinh-tế, bảo-vệ và khuyến-khích
lập các lực-lượng bán-quân-sự để
tự-vệ, dựa vào nguồn tài-trợ sớm
nhất của Hoa
Kỳ cho Pháp
sau khi xảy ra chiến-tranh Triều-Tiên.
Phóng-viên chiến-tranh tên-tuổi Bernard
Fall, sau khi
đến thăm 2 khu kiểu-mẫu tại Khôi
Lộc
thuộc Tỉnh Quảng-Yên
và Đông
Quan tại
Tỉnh Hà-Đông
(Miền
Bắc) đã
tuyên-bố rằng “các Ấp
Chiến-Lược
của Pháp
này rập
đúng khuôn-mẫu của
Anh bên
Mã-Lai.”
II
Các
chương-trình di-dân lập-nghiệp
1/
“Ấp
Chiến-Lược”
(giai-đoạn
1): gom
dân tại
chỗ, rào ấp tại chỗ.
Tại
các vùng nông-thôn hay sơn-cước, dân-chúng cư-ngụ
rải-rác và đi làm việc tùy-tiện, nên
cộng-sản có thể liên-lạc, di-chuyển từ nhà
này qua nhà khác, một cách dễ-dàng, để tuyên-truyền,
dò-hỏi tin-tức, thu+mua vật-liệu, xây-dựng cơ-sở,
lợi-dụng nhân-lực (ép-buộc đi phá cầu, phá
đường, chôn mìn, kể cả tham-gia tấn-công
đồn bót), rủ-rê hoặc bắt-cóc đi theo
họ (nếu chống-đối thì họ giết
chết...). Chương-trình “Ấp
Chiến Lược” quy-tụ dân-chúng vào một
khu nhà tập-thể, có rào và hào bao quanh, có cổng vào/ra
chung, ở đó trai-tráng được cấp vũ-khí
thay phiên canh gác, sáng mới mở cổng ra ngoài làm
việc, chiều tối về nhà đóng chặt cổng
lại. Cộng-sản không thể vào Ấp tiếp-xúc
hay huy-động dân. Các Ấp như thế sẽ có tác-dụng
như một dãy đồn tiền-phương cho các
quận-lỵ xung quanh thị-xã. Nếu bị tấn-công
thì dân trong Ấp tự mình chống-lại, báo-động
cho Quận để lực-lượng Quận sẽ
đến tiếp-cứu. Mục-đích là để
giữ dân cũng như tài-nguyên khỏi lọt vào tay
đối-phương, có tính chiến-thuật
(về mặt quân-sự:
cầm-cự tạm-thời để chờ viện-binh).
Vì
“Ấp Chiến-Lược” có
một diện-tích nhỏ hơn diện-tích của
một Ấp thông-thường, và phải được
lập tại một vị-trí thuận-lợi về
mặt giao-thông, nên tuy gom dân “tại chỗ” (tức là
trong làng, trong quận sở-tại mà thôi) nhưng đa-số
dân cũng phải rời bỏ nhà-cửa vườn-tược
của mình.
2/
“Địa Điểm Dinh Điền”
(giai-đoạn 2): di dân, khai
hoang, lập ấp.
Tài-liệu
chính-thức nói rõ là “điều-hòa
dân-cư: di-chuyển (đến những tỉnh khác,
miền khác) những nông-dân thiếu đất canh-tác
ở miền Trung-Châu
Trung-Phần,
những công-nhân không chuyên-nghiệp khiếm-dụng
ở các đô-thị, một số ít người di-cư
tị-nạn vì lý do gì chưa được an cư
lạc nghiệp như đại-đa-số người
di-cư khác, cựu chánh-trị-phạm, cựu binh-sĩ
đang cần trở lại đời sống bình thường
nhưng không có phương tiện, đồng-bào vượt
tuyến, Hoa-kiều tị-nạn và Việt-kiều
hồi-hương chưa có cơ sở làm ăn, một
số đồng-bào Thượng, để giúp cho
họ sống đời định cư, định canh,
hưởng những điều kiện cải tiến dân
sinh.”
“Địa-Điểm
Dinh Điền”
cũng là một khu tập-trung, nhưng so với “Ấp
Chiến-Lược
“ thì “Địa-Điểm
Dinh
Điền”
rộng lớn hơn, dân-số đông hơn, nhà cửa
thoáng hơn, sinh-hoạt có tổ-chức hơn, vừa làm
nghề cũ đã có từ quê-hương cũ, vừa
học và làm nghề mới do chính-quyền
huấn-luyện và trợ-cấp tại quê-hương
mới. Nhân-lực nhiều hơn, phương-tiện
dồi-dào và tân-tiến hơn (có cả nông-cơ),
lực-lượng tự-vệ mạnh hơn, có thể
cầm-cự với địch lâu hơn.
Nói
chung là di-chuyển
dân đi xa hơn, tái-định-cư, khai-phá đất
mới, sản-xuất quy-mô hơn,
có tính chiến-lược
(tự-phòng),
chú-trọng cả về kinh-tế,
văn-hóa,
xã-hội,
tiến
tới tự-túc
để sẽ sáp-nhập vào nền hành-chánh địa-phương.
Người
dân, thuộc nhiều gốc-gác khác nhau, bỏ hẳn nhà
cửa, họ-hàng, mồ-mả tổ-tiên, đến
lập một cuộc sống mới tại vùng đất
mới khai-hoang.
3/
“Khu
Trù Mật”
(giai-đoạn 3): định-cư,
lập-nghiệp
(Dinh Điền
lý-tưởng).
Khi
nào có Địa-Điểm Dinh
Điền
nào “có những khu gia-cư khang-trang (nhà cửa có sân, vườn
cây ăn trái, chuồng nuôi gia-súc), có khu công-sở (trụ-sở
Hội-Đồng Quản-Trị, nhà hộ-sinh, nhà phát
thuốc, giếng nước, trường học, phòng thông-tin,
chùa, nhà thờ, chợ, bến xe đò, v.v...), có
đường sá, cầu cống, kinh lạch để
tiện việc giao-thông” tức là không những tự-túc
mà còn tiến lên phồn-thịnh,
thì sẽ được nâng lên cấp “Khu
Trù Mật”.
Dân-cư
tại “Khu
Trù Mật”
nổi bật là chung gốc-gác (địa-phương,
chính-kiến, tín-ngưỡng).
III
Đệ-Nhất
Cộng-Hòa Thực-Hiện Thế Nào
Trong
những năm đầu của nền Đệ-Nhất
Cộng-Hòa,
liền sau Hiệp-Định Geneva
1954,
đa-số cán-bộ/bộ-đội cộng-sản
từ Miền
Nam
phải tập-kết ra Miền
Bắc,
số ít cơ+cán CS gài lại thì phải nín thở
đợi lệnh ‒ đồng-thời
cộng-sản ở Miền
Bắc
thì từ rừng-núi mới về tiếp-thu thành-thị
thì phải chăm lo tái-thiết, cải-tạo, ổn-định
tình-hình sau cuộc chiến-tranh, rèn cán chỉnh quân, nên
chưa đủ sức quấy rầy Miền
Nam ‒
trong lúc đó thì ở Miền
Nam dân
Việt
ghét
Pháp
và
cũng không yêu Bảo
Đại,
chính-quyền của Thủ-Tướng rồi
Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm nhờ
có Hoa
Kỳ
ép Pháp
rút quân, và giúp dẹp yên các phe đối-lập,
nhận được viện-trợ của Mỹ
dồi-dào
và có hoàn-cảnh ngưng bắn thuận-lợi nên đã
tóm gọn được các phần-tử
cộng-sản lộ-diện, củng-cố chế-độ
và thực-hiện các chương-trình phục-vụ
đồng-bào. Người dân Miền
Nam
nhờ đó đã hưởng được nhiều năm
khá bình-yên, đầy hy-vọng vào tương-lai.
Đệ-Nhất
Cộng-Hòa
lợi-dụng thời-cơ, đốt giai-đoạn, xếp
bỏ kế-hoạch
“Ấp
Chiến-Lược”
(giai-đoạn 1), bỏ lơ các ấp nông-thôn & sơn-thôn,
tiến lên xây-dựng các “ Địa-Điểm Dinh
Điền”
(giai-đoạn 2) kể từ năm 1957..
Mục-đích
nêu ra (xem phần
II đoạn 2 trên kia)
thật là tốt-đẹp, chính-đáng, cụ-thể,
cấp-thời.
*
Hồ-sơ
tài-liệu tóm-tắt mà tương-đối đầy-đủ
nhất về thành-tích hoạt-động của Đệ-Nhất
Cộng-Hòa
là cuốn “Thành-Tích
SÁU NĂM HOẠT-ĐỘNG CỦA CHÁNH-PHỦ VIỆT
NAM CỘNG HÒA”
Kỷ-Niệm Đệ-Lục
Chu-Niên
Chấp-Chánh của Tổng-Thống Ngô-đình-Diệm
à Ngày Quốc-Khánh 26-10-1960
(cuốn này đã được Ông Hồ
Đắc Huân,
cựu SVSQ khóa 2 Hiện dịch Nha
Trang,
hiện ở Little
Saigon,
Hoa-Kỳ,
in lại trong năm 2007).
Ngẫu-nhiên,
năm 1960
cũng là năm “bản lề” giữa thời-kỳ
“thành-công” 6 năm đầu và thời-kỳ
“thất-bại” 3 năm sau của triều-đại Ngô-Đình,
như tôi đã ghi trong bài “Năm
1960 đối với Đệ-Nhất Cộng-Hòa”.
*
Nói
chung, từ
1954 đến
1960:
*Cấp
1 (“Ấp
Chiến Lược”):
Chưa thực-hiện (đến 1962
mới
bắt đầu);
*Cấp
2 (“Địa-Điểm
Dinh Điền”):
Đã thực-hiện từ 1957;
*Cấp
3 (“Khu
Trù Mật”):
Mới bắt đầu thực-hiện từ 1960.
IV
Nguyên-Nhân
Thất-Bại
Tôi
bị chế-độ Đệ-Nhất
Cộng-Hòa
cất chức, quản-thúc, rồi đày đi khỏi Huế
lên Cao-Nguyên
Trung-Phần (vùng
“nước độc và nguy-hiểm”), đến Ban
Mê Thuột
vào tháng 8 năm 1960.
Hồi đó các Nha cấp Phần có quyền
“tự-trị” địa-phương (chưa bị khép
vào khuôn-khổ như khi hợp-nhất Cảnh-Sát
với Công-An thành Cảnh-Sát Quốc-Gia theo Sắc
Lệnh số 146/NV ngày 27-6-1962,
hai năm về sau). Giám-Đốc
Nha Công-An & Cảnh-Sát Phần này là Thiếu-Tá Nguyễn
Văn Luận
(về sau thăng cấp đại-tá, làm Tiểu-Khu-Trưởng
kiêm Tỉnh-Trưởng Tỉnh Bình-Định),
có thành-lập một bộ-phận đặc-biệt (hoạt-động
bên ngoài) riêng của Nha này, do Ông Nguyễn
Hữu Liêm
(về sau là Trưởng-Ty CSQG Tỉnh Darlac)
chỉ-huy, gồm có Phòng An-Ninh Chính-Trị, Phòng
Cảnh-Sát Tư-Pháp, và Đội Biệt-Kích. Biệt-Kích
thì đi lùng diệt cộng-sản khắp Cao-Nguyên.
An-Ninh
Chính-Trị do Ông Nguyễn
Giang
phụ-trách, Cảnh-Sát Tư-Pháp do tôi, Lê
Xuân Nhuận
đảm-đương (nhưng hai chúng tôi làm việc
chung với nhau, cả chính-sự lẫn hình-sự).
Thoạt
tiên, tôi được phái về điều-tra các
vụ bê-bối tại Địa-Điểm
Dinh-Điền
Kiến-Phúc
(?) phía nam quận-lỵ Kiến-Đức
của Tỉnh Quảng-Đức
(hồi đó Quận-Trưởng là Đại-Úy Nguyễn
Văn Thanh).
Từ
một vụ nhỏ là dân-chúng bị buộc phải
nạp phí-tổn chụp hình, mặc dù việc thầu
nhiếp-ảnh (cũng như mọi khoản chi-tiêu khác
của Phủ
Tổng-Ủy Dinh-Điền)
đã được Hoa-Kỳ đài-thọ cho “Ngân-Sách
Quốc-Gia”.
Rồi nhân dịp có “cấp cao” (từ Phần
xuống thấu Tỉnh, Quận) đến làm sáng-tỏ
nỗi oan của người dân nghèo, nhiều đơn
khiếu-nại về những vụ khác, lớn hơn,
đã được đồng-bào nạp thêm... .
Cho
đến một hôm tôi đi từ Ban
Mê Thuột
vào Dinh-Điền ấy thì bị Việt-Cộng phục-kích
(tôi bị lật xe, gãy một xương vai và hai xương
sườn), các vụ tiếp theo được giao cho các
bạn khác điều-tra...
*
Nói
chung là Đệ-Nhất
Cộng-Hòa
(thật ra là chính Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm
và Cố-Vấn Ngô
Đình Nhu)
tại Miền
Nam
đã thực-thi Chương-Trình Di-Dân Lập-Ấp này
theo cách mà các nhân-vật
tên-tuổi một thời
đã ghi như sau (xem thêm ở phần Tham-Chiếu
4)
để hiểu rõ hơn.
Họ
Ngô
quan-niệm
người dân chỉ đóng một ít tiền thuế mà
được thụ-hưởng biết bao lợi-ích, nên
khi cần dựng các khu tập-trung, Địa-Điểm
Dinh Điền,
thì phải góp phần cùng với chính-quyền, phải dùng
công-sức của mình mà tham-gia phát-triển
cộng-đồng.
Người dân thì bị lao-động
không lương theo lối dân-công
của
cộng-sản, phải cung-ứng thêm vật-liệu, phải đóng góp
tiền, và chịu đựng các tệ-nạn; đi ra làm
việc trễ hơn và phải trở về sớm hơn,
cộng với đường đi xa hơn; nên việc
sản-xuất cũng như tinh-thần giảm-sút
rõ-ràng.
V
Chương-trình
“Dinh
Điền”
Một
“Phủ
Tổng-Ủy Dinh Điền”
được thành-lập vào ngày 23-1-1957,
được tổ-chức như một Bộ, nhưng
lại được đặc-biệt đặt dưới
quyền điều-khiển trực-tiếp của
Tổng-Thống.
Nội-các
của Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm
gồm có 14 Bộ, nhưng lại có đến 16
tổ-chức (Phủ Tổng-Ủy, Phủ Đặc-Ủy,
Nha Tổng-Giám-Đốc, Phái-Đoàn, Cuộc,
Học-Viện, Nha) trực-thuộc
Tổng-Thống;
trong số các cơ-sở trực-thuộc này thì “Phủ
Tổng-Ủy Dinh-Điền”
được xếp đứng đầu, tức là
ưu-tiên trên hết mọi lãnh-vực hoạt-động
khác của chính-quyền.
Tại
Vùng
liên-hệ (như Cao
Nguyên Trung-Phần)
có một Quản-Đốc
Dinh-Điền
kiểm-tra đôn-đốc việc thi-hành các
chỉ-thị của Trung-Ương và đặc-biệt
phụ-trách các vấn-đề an-ninh trong Vùng; tại Tỉnh
có một Trưởng-Khu
Dinh-Điền;
và tại mỗi Địa-Điểm Dinh-Điền có
một Địa-Điểm-Trưởng
(dân-chúng gọi là “Ông
Địa”).
Về việc thi-hành, ngân-sách do quỹ quốc-gia đài-thọ,
các thủ-tục chi-tiêu và thanh-toán theo đúng nguyên-tắc
của Ngân-Sách
Quốc-Gia.
“Trong
năm 1957-58
(năm đầu), phong-trào di-dân dinh-điền ồ
ạt quá, rồn rập quá và gần như không có
chuẩn-bị đầy-đủ, kết-quả có
bề rộng mà chưa có bề sâu,
thì năm 1959-60
phải nói là
công cuộc Dinh-Điền đã được
thực-hiện theo một kế-hoạch đã
được nghiên-cứu rất kỹ-càng.
Những địa-điểm thành-lập trong các năm
sau đều đã tiến-triển như mong muốn
nhờ có thời-giờ chuẩn-bị, có hoàn-cảnh chọn-lựa
kỹ địa-điểm cũng
như di-dân
và các cơ-cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có
trớn lại thêm có kinh-nghiệm sống trong công-tác,
đã hoạt-động một cách hữu-hiệu...” và
“Đã đưa họ đến những
vùng đồng ruộng bao-la không có người khai-thác
hết
ở miền Nam,
và những
vùng đất cao
thuộc miền Đông
Nam-Phần và
Vùng Cao-Nguyên
Trung-Phần đất rộng người
thưa”
và, ngoài việc canh-nông thông-thường và các nghề
tiểu-công-nghiệp, còn “sản-xuất gai và ki-náp, phát-động
phong-trào trồng cây cao-su, thí-nghiệm trồng nhiều cây
kỹ-nghệ khác như bông vải, thuốc lá, ...”.
Tính
đến ngày 26-10-1960,
về số Địa-Điểm
Dinh-Điền
đã được thành-lập: năm 1957 là 16, năm
1958 là 32, năm 1959 là 36, năm 1960 là 42, tổng-cộng là
126
Địa-Điểm.
Tại Cao-Nguyên
Trung-Phần,
nhiều nhất là ở Tỉnh Pleiku,
rồi đến Tỉnh Darlac,
xuống đến Tỉnh Quảng-Đức..
Tại Đất
Cao Miền Đông Nam-Phần và
Nam
Trung-Phần,
nhiều nhất là ở Tỉnh Bình-Tuy,
rồi đến Tỉnh Phước-Long,
xuống đến các Tỉnh Bình-Long,
Phước-Thành,
Long-Khánh,
Tây-Ninh,
Ninh-Thuận,
Bình-Dương,
Phước-Tuy
và Phú-Yên...
..
Nói
về số lượng Dinh
Điền
thì ở Tỉnh Pleiku
là nhiều nhất, có đến 25 Địa-Điểm,
kế đến là ở Tỉnh Darlac
với 22 Địa-Điểm; riêng ở Tỉnh Quảng-Đức
có 7 Địa-Điểm.
Sau
ngày Cách-Mạng
1-11-1963,
tôi làm Trưởng-Ty Cảnh-Sát Quốc-Gia Tỉnh Quảng-Đức.
Vì
Hội-Đồng
Quân-Nhân Cách-Mạng,
do Trung-Tướng Dương
Văn Minh
cầm đầu, chưa ổn-định xong tình-hình
nội-bộ các tướng và nội-các mới ngay
ở Sài-Gòn,
đâu thể nghĩ gì đến các... Địa-Điểm
Dinh-Điền xa-xôi,
nên đa-số dân tại nhiều Dinh-Điền
tự-động kéo nhau bỏ về quê xưa.
Chính
tôi đích-thân đứng ra tại các ngã ba, nhất là Daksong
ở Quận Đức-Lập
(nơi từ các hướng Quận Kiến-Đức
trên Quốc-Lộ 14 và Quận Khiêm-Đức
trên Liên-Tỉnh-Lộ 9 thuộc Tỉnh Quảng-Đức
nhập vào để lên Ban
Mê Thuột,
hầu dùng Quốc-Lộ 21 mà về Quốc-Lộ 1
ở Nha-Trang
hòng
ra Miền
Trung)
để chận họ lại. Về phương-diện
Cảnh-Sát Hành-Chánh, di-chuyển đi xa mà không xin phép,
tức là phạm tội gì đó nên phải trốn-tránh
sau khi có biến-cố lớn xảy ra, nên tôi cho bắt
một số cầm đầu để hỏi lý-do.
Qua
cuộc điều-tra & phối-kiểm, tôi biết
đại-khái như sau:
Họ
là dân gốc các Tỉnh Quảng-Trị,
Thừa-Thiên,
Quảng-Nam,
Quảng-Ngãi,
Bình-Định
(phía Bắc
Trung-Phần).
Trong công-cuộc phát-triển
cộng-đồng,
cải-tiến
dân-sinh,
(mục-đích tốt-đẹp) chính-quyền Ngô
Đình Diệm
đã thực-hiện nhiều chương-trình không
phải song-song với nhau mà lại chòng-chéo lên nhau. Thí-dụ:
Phủ
Đặc-Ủy Công-Dân-Vụ
coi về Phát-Triển Cộng-Đồng, Tổ-Chức Làng
Mạc, bằng cách tổ-chức
Hội-Đồng Xã, các đoàn-thể
nhân-dân (các Hội; các Ban; các Câu-Lạc-Bộ; các
Nghiệp-Đoàn, các Hợp-Tác-Xã,
các Hiệp-Hội
Nông-Dân;
các Đoàn Nông-Dân Cách-Mạng
Quốc-Gia,
Đoàn Thanh-Niên CMQG, Đoàn Phụ-Nữ CMQG, Đoàn
Thiếu-Nhi CMQG, Thanh-Niên
Cộng-Hòa,
Thanh-Nữ
Cộng-Hòa,
v.v...), huấn-chính
(huấn-luyện chính-trị) nhân-dân, phối-hợp
với các lực-lượng quân-sự
và an-ninh
để trấn-an
nhân-tâm
(riêng tại các tỉnh Miền
Trung và
Cao-Nguyên
thì
tham-gia hành-quân
tuần-sát,
chiến-dịch “Tố
Cộng”,
Dân-vận, Thượng-vận, v.v...), vận-động nhân-dân
đóng-góp, tính
đến 1960, là 23,840,320 nhân-công
và 144,210,686.00 tiền
mặt;
huấn-luyện Trưởng
Ấp, Liên-Gia-Trưởng,
công-dân giáo-dục, chủ-nghĩa
Nhân-Vị;
tổ-chức meeting,
biểu-tình,
liên-hoan văn-nghệ; bắn
chết,
bắt
sống, và
vận-động
cán-bộ VC về đầu-thú;
kêu gọi thanh-niên trốn quân-dịch theo VC quay trở
về; phát-giác
VC nằm vùng và các phần-tử tiếp tay;
vận-động nhân-dân khám-phá cơ-sở kinh-tài,
tịch-thu vũ-khí của VC; hướng-dẫn
nhân-dân
lập khu trù-mật, làng kiểu-mẫu; tham-gia quy
thôn, quy
ấp;
sửa chữa nhà cửa, sửa đập, đắp
đê, đào mương, làm vườn ương cây,
phát thuốc, sửa phòng đọc sách, dựng chòi phát-thanh,
kiểm-tra dân-số,
tổ-chức
Liên-Gia Tương-Trợ;
hướng-dẫn nhân-dân trồng-tỉa, chăn-nuôi, làm
tiểu-công-nghệ; huấn-luyện cán-bộ Thú-Y, làm
chuồng và hướng-dẫn chăn nuôi; tổ-chức
các lớp văn-hóa bổ-túc; v.v... Nghĩa là Phủ Đặc-Ủy
Công-Dân-Vụ dẫm
đạp lên
các Bộ Nội-Vụ,
Quốc-Phòng,
Thông-Tin,
Quốc-Gia Giáo-Dục,
Y-Tế,
Lao-Động,
Canh-Nông,
Công-Chánh và
Giao-Thông,
Điền-Thổ
và Cải-Cách Điền-Địa,
v.v... .
Phủ
Đặc-Ủy Công-Dân-Vụ
cũng dẫm
đạp lên cả
Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền,
Phủ Tổng-Ủy Hợp-Tác-Xã
và Nông-Tín,
Nha Tổng-Giám-Đốc Xã-Hội,
Nha Tổng-Giám-Đốc Thanh-Niên,
v.v... là những cơ-quan cũng cùng trực-thuộc
Tổng-Thống...
..
Đó
hẳn là một trong các lý-do chính-yếu tại sao cả
loạt Tổng-Trưởng & Bộ-Trưởng do
chính Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm
bổ-nhiệm đã xin từ-chức.
Cũng
cần ghi thêm là chính Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm
đã đích-thân ngồi trên phi-cơ trực-thăng
đi quan-sát địa-thế và dùng ba-tông chỉ vào các
nơi mà ông muốn thành-lập Dinh-Điền
tức Khu
Trù-Mật
về sau. Nhưng những người thi-hành, thay vì làm
dấu tọa-độ chính-xác trên các bản đồ,
đã chấm một số khu rừng có nhiều gỗ
quý (cẩm-lai, trắc, gụ, v.v...) để cho nhà
thầu khai-thác lấy tiền bỏ vào túi riêng.
Tổng-Giám-Mục
Ngô
Đình Thục
cũng khai-thác rừng theo kiểu đó. Trong bài “Chín
Năm Bên Cạnh Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm - Mạn đàm
với cựu Đổng Lý Quách Tòng
Đức”,
Ông Lâm
Lễ Trinh
đã viết: “Về tin đồn Đức cha Thục
làm
kinh tài
(khai thác lâm sản, mua thương xá Tax,
làm chủ nhà sách Albert
Portail,
v.v...), ông Đức
cho rằng TT Diệm
tin
TGM Thục
không làm điều gì sai quấy, ngài
phải kiếm tiền nuôi
sống trường Đại học Đà
Lạt
do Ngài thành lập.”
*
Trở
lại với vụ đồng-bào Dinh-Điền
bỏ về làng cũ sau ngày Cách-Mạng
1-11-1963:
Chính-quyền
Đệ-Nhất
Cộng-Hòa
nói chung đã dùng chiêu-bài “Đả-Thực,
Bài-Phong, Diệt-Cộng”
để đẩy đa-số dân quê vào bước
đường cùng: các chức-sắc làng thì là tàn-tích
Bảo
Đại
phong-kiến,
mấy cậu học-sinh có bằng “xép-xi, đép-xi” thì
là tay-chân của Pháp thực-dân,
bà-con họ-hàng gần/xa của các cán-binh Việt-Minh
thì là cơ-sở cộng-sản
nằm vùng; những kẻ lừng-khừng không chịu
sốt-sắng tham-gia “Phong-Trào
Cách-Mạng Quốc-Gia”
thì là phản-động; và cả thành-phần lè-phè thì
bị liệt vào bốn giới “tứ
đổ tường”
(cờ-bạc, rượu-chè, hút-xách, dâm-ô); đều
bị “đấu-tố”
liên-miên, qua các buổi meeting, các cuộc biểu-tình, các
lớp “học-tập chủ-nghĩa
Nhân-Vị,
đạo-đức
cách-mạng của Ngô Tổng-Thống”,
các đợt “Tố
Cộng”;
để rồi cuối-cùng, nếu không bị
giết,
thì “được” đưa
đi Dinh-Điền (tức
là trục-xuất ra khỏi địa-phương,
một cách lưu-đày).
Ngẫu-nhiên
hầu hết họ là tín-đồ Phật-Giáo.
Và nhân cơ-hội gọi là “Phật-Giáo
đã lật đổ được Nhà Ngô”,
dân các Dinh-Điền Darlac
đã ùa theo nhau trở về quê cũ, nên các
đương-nhân từ các Địa-Điểm ở Quảng-Đức
này cũng kéo nhau đi.
Tôi
có báo-cáo lên trên; nhưng Nha CSQG Cao-Nguyên Trung-Phần,
nhất là Tổng-Nha CSQG, chắc không nhận được
lệnh gì rõ-ràng trong lúc tình-hình toàn-quốc, đặc-biệt
Thủ-Đô Sài-Gòn,
còn đang căng-thẳng sau cuộc chính-biến, nên không
trả lời. Cấp trên của tôi tại chỗ là tỉnh-trưởng
thì cũng chẳng thể làm gỉ khác hơn.
Thế
là Chương-Trình Dinh-Điền
tự-động kết-thúc, không cần lệnh-lạc
của ai.
VI
Các
“Khu Trù-Mật”
Có
một số người lẫn-lộn thứ-tự ra
đời giữa “Dinh Điền”
và “Khu
Trù-Mật”. Tôi viết rằng “Khu
Trù Mật” có sau “Dinh
Điền” vì các lý-do sau đây:
Trong cuốn Thành-Tích Sáu Năm
(1954-1960) là tài-liệu chính-thức
của Đệ-Nhất Cộng-Hòa, nghĩa là tính đến
ngày 7-7-1960, không
có báo-cáo là đã thành-lập một “Khu
Trù Mật” nào cả, mà chỉ nói
là đang “tổ-chức
các địa-điểm
(Dinh-Điền
thành-lập
từ năm
1957)
thành một đơn-vị có thể trở
nên về sau một
“Khu
Trù-Mật”
có những khu gia-cư khang trang...” và mãi đến 3 tháng
sau, vào ngày 3-10-1960
thì Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm
mới đọc thông-điệp tại Quốc-Hội
rằng “Trong số 19 khu trù-mật dự-trù cho năm 1960,
17 khu đã khánh-thành...”
Như
trong báo-cáo của Phủ
Tổng-Ủy Dinh-Điền
đã có nói rõ (trong cuốn “Thành-Tích
Sáu Năm Hoạt-Động của Chánh-Phủ Việt
Nam Cộng Hòa”,
1960): “Có thể nói trong năm 1957-58,
phong-trào
di-dân dinh-điền ồ ạt quá, rồn rập quá
và gần như không
có chuẩn-bị đầy đủ,
kết quả có bề rộng mà chưa có bề sâu, thì
năm 1959-60
phải nói là công
cuộc Dinh-điền
đã được thực
hiện
theo một kế
hoạch đã được nghiên cứu rất kỹ càng.
Những địa-điểm thành lập hơi vội vàng
trong năm
đầu
đã được lần lần củng
cố và cải tiến.
Những địa-điểm thành lập trong
các năm sau
đều đã tiến
triển như mong muốn
nhờ có thời
giờ chuẩn bị,
có hoàn
cảnh chọn lựa kỹ địa-điểm
cũng
như di-dân
và các cơ cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có
trớn lại có thêm
kinh nghiệm sống trong công-tác,
đã hoạt động một
cách hữu hiệu.”
(trang 22)
Đó
là nói về Dinh-Điền,
nhưng theo những gì tôi đã tìm hiểu tại
chỗ thì đoạn báo-cáo trích trên có thể được
“hiểu” và “viết” như sau:
“Trong
năm 1957-58,
phong-trào
di-dân dinh-điền ồ ạt quá, rồn rập quá
và gần như không
có chuẩn-bị đầy đủ,
vì: về địa-điểm thì Trung-Ương chưa
chọn đủ nhiều; về quê-quán thì
lẫn-lộn cả dân Miền
Nam lẫn
dân Miền
Bắc di-cư;
về nghề-nghiệp thì lẫn-lộn nhiều ngành khác
nhau; về chính-trị thì lẫn-lộn giới được
chính-quyền khen với giới bị chính-quyền chê;
về văn-hóa thì lẫn-lộn
các tín-ngưỡng khác nhau;
v.v... Sau đó, đã được lần lần củng
cố và cải tiến:
đồng-bào tín-đồ Ky-Tô-Giáo
được các linh-mục hướng-dẫn tách riêng;
những ai được chính-quyền xem là đã
“tốt” rồi cũng được chiếu-cố
nhiều hơn; và các tay nghề ngành nào thì được
đưa vào cảnh-trí thích-hợp với ngành ấy hơn...
nhờ có thời
giờ chuẩn bị,
có hoàn
cảnh chọn lựa kỹ địa-điểm
cũng
như di-dân
và các cơ cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có
trớn lại có thêm
kinh nghiệm sống trong công-tác,
đã hoạt động một
cách hữu hiệu..”
Cho
nên chính-quyền “tổ-chức các địa-điểm
(Dinh-Điền)
thành một đơn-vị có thể trở nên về
sau một Khu
Trù-Mật
có những khu gia-cư khang trang...” (trang 15).
Như
thế chứng-tỏ là “Khu
Trù-Mật”
“cao cấp” hơn “Địa-Điểm
Dinh-Điền”
nhờ được chọn
lựa kỹ địa-điểm
cũng
như di-dân.
“Khu
Trù-Mật”
là “Dinh-Điền
lý-tưởng”
vậy.
Ngay
việc đặt tên cũng đã nói lên điều
đó: toàn Tỉnh chỉ có một Khu
Dinh-Điền bao gồm nhiều Địa-Điểm
Dinh-Điền, trong lúc mỗi một địa-điểm
như thế trong Tỉnh mà được nâng lên
loại-hạng trù-mật thì được gọi là Khu
Trù-Mật (mỗi Tỉnh có nhiều Khu
Trù Mật).
Kết-quả:
kể từ 1960,
Chương-Trình “Khu
Trù-Mật”
ra đời. Theo Thông-Điệp của Tổng-Thống
Việt-Nam Cộng-Hòa
Ngô
Đình Diệm
đọc tại Quốc-Hội ngày 3 tháng 10 năm 1960
thì “Trong số 19 khu trù-mật dự-trù cho năm 1960, 17
khu đã khánh-thành...”
Riêng
các “Khu
Trù-Mật”
của đồng-bào Ky-Tô-Giáo
La-Mã,
do các linh-mục cai-quản thì tiến-triển nhanh và phát-đạt
nhất, và còn tồn-tại lâu dài...
VII
Ấp
Chiến-Lược
Phủ
Tổng-Ủy Dinh-Điền đã được thành-lập
từ ngày 23-1-1957, trong lúc “Ấp
Chiến-Lược”
thì phải đợi đến năm 1962
(8 năm sau
ngày TT Ngô Đình Diệm
chấp-chánh) mới được chính-thức ra đời
(như đã nêu trên).
Phủ
Tổng-Ủy Dinh-Điền thì
trực-thuộc Tổng-Thống, mà lại được
nêu trước tiên, trên mọi cơ-quan chính-quyền (và
các Khu Dinh Điền ở Tỉnh
thì được tự-trị). Còn “Ấp
Chiến-Lược”
thì chỉ là một bộ-phận phụ-thuộc của
Bộ Nội-Vụ (và chỉ có một Phòng tại Tòa Hành-Chánh
Tỉnh) mà thôi.
Cho
nên “Ấp
Chiến-Lược”
không có mặt, nên không đóng góp một chút “công-trạng”
gì vào các thành-tựu được kể, và chỉ có,
vào những năm đầu (1954-1960) của nền Đệ-Nhất
Cộng-Hòa.
*
Vì cả 3 chương-trình đều có di-dân, và mỗi
“Ấp
(Chiến-Lược)”
hay “Địa-Điểm
(Dinh-Điền)”
hay “Khu
(Trù-Mật)”
đều có hàng rào kẽm gai và hào hố bao quanh (mặc
dù mức-độ, tầm-vóc, và chủ-đích khác nhau),
cho nên từ năm 1962 trở
đi dân-chúng gọi chung là “Ấp
Chiến-Lược”.
Và sau 1975 thì “Ấp
Chiến-Lược”
được một số người kể công
(ma) trong việc “ngăn-chận
cộng-sản xâm-lăng”.
*
Thật ra, Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm, nhất là Cố-Vấn Ngô
Đình Nhu dù là chính-thức công-bố vào năm 1962
nhưng đã âm-thầm chuẩn-bị khởi-công “Ấp
Chiến-Lược”
từ cuối năm 1961, và xem nó là
“quốc-sách” ‒
công-cụ (biểu-tượng) chủ-chốt của ý-thức-hệ
(chủ-nghĩa Nhân Vị) và uy-tín
của chế-độ Nhà Ngô, mũi
nhọn tác-động cách-mạng chính-trị
và văn-hóa, mang lại một sự thay đổi
chính-yếu cho bản-chất xã-hội Miền
Nam Việt-Nam. Cố-Vấn Ngô Đình
Nhu tuyên-bố từ nay chỉ chuyên đích-thân và
trực-tiếp lo cho “Ấp Chiến-Lược”
mà thôi, đặt hết sự-nghiệp chính-trị vào
chương-trình này.
Và khi trả lời phóng-viên báo Toronto
Globe and Mail,
hồi đầu
năm 1963 và
được in lại trong Nguyệt
San Gió Nam,
Ông Nhu
đã xác định rõ ràng:
“Tôi phải
nói ngay rằng Chủ
Thuyết Nhân Vị
của
tôi...
Hiện nay cái học
thuyết Nhân Vị
mà tôi
cổ võ
là một nền dân chủ đấu tranh trong đó
tự do không phải là món quà của Ông Già Noel, nhưng
mà là kết quả của một cuộc chinh phục
bền bỉ và sáng suốt trong đời sống
thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng
mà trong những điều kiện địa lý chính
trị đã được định sẵn. Chính cái
quan niệm về tự do nầy đã khai mào cho toàn
bộ chương trình ACL. Hệ thống Ấp
Chiến Lược
nầy sẽ làm thay đổi cơ cấu chính trị
thượng tầng của chính phủ hiện tại... ” (5-5-1963, tr.68)
Trong bức điện-văn gửi Bộ Ngoại-Giao Hoa-Kỳ
vào ngày 19-9-1963, Đại-Sứ
Mỹ Cabot Lodge đã kể:
“Nhu
nói thật nhiều, lập đi lập lại rằng
ông
ta
đã sáng tạo ra các ấp chiến lược,
rằng ai
cũng bảo, kể cả người Mỹ,
rằng ông
ta sẽ
không làm nổi được đâu,
song
ông
ta
vẫn đã làm được”
(Nguồn: FRUS, vol.
IV,
129).
Mặc
dù các tài-liệu của Phương Tây cho thấy là “Ấp
Chiến Lược”
bắt nguồn từ Anh ở Mã
Lai và Mỹ ở Phi
Luật Tân, và cả Pháp ở Miền
Bắc Việt-Nam, đồng-thời tài-liệu
của Phương Đông cũng cho thấy là từ Triều
Nguyễn của chính Việt-Nam
(Đại Nam Thực Lục
đã ghi: Tiểu Phủ Sứ Nguyễn
Tấn [1820-1871] đã áp-dụng kế-sách gom
dân lập ấp phòng-thủ như thế từ năm
1863 trong việc đánh dẹp thành-công
người Mọi Đá Vách ở
Tỉnh Quảng-Ngãi), nhưng Ông Ngô
Đình Nhu vẫn tự cho là, và tự-hào rằng mình
đã sáng tạo ra nó.
Tuy nhiên, nỗ-lực một cách tuyệt-vọng của họ
Ngô đã diễn ra trong một hoàn-cảnh ngày càng
bất-lợi kể từ sau năm 1960.
Trước hết, Đại-Tá (nay là Thiếu-Tướng)
Edward G. Lansdale, người khách-tại-gia
mà là bảo-trợ-viên vừa là tri-kỷ vừa là ân-nhân
của TT Ngô Đình Diệm đã
rời khỏi ông từ cuối năm 1956
rồi. Trước đó, phía Mỹ
có 2 khuynh-hướng: bình-định bằng sức
mạnh Quân-Sự, và bình-định bằng thế
mạnh Kinh-Tế. Nhưng cả hai đều liên-quan
đến An-Ninh: Quân-Sự để tái-lập An-Ninh, và
An-Ninh để phát-triển Kinh-Tế. Lansdale
thiên về kinh-tế (bảo-vệ cho dân an-cư
lạc-nghiệp thì được lòng dân); Diệm
cũng nhắm vào kinh-tế (kiểm-soát để dân không
theo Cộng-Sản thì dân trung-thành với mình ‒
cho nên từ năm 1957 đã
đốt giai-đoạn, thực-thi chương-trình “Dinh-Điền”).
Nhưng giữa Lansdale và
Diệm
vẫn có một chút bất-đồng (ngoài cái
tỷ-lệ phiếu bầu cho Diệm
trong cuộc “Trưng Cầu Dân Ý”
mà Lansdale gợi ý là nên thấp hơn
cho khả-tín hơn, nhưng Diệm
không nghe), một chút mà là một trời một vực:
cũng cùng một việc cải-tiến
dân-sinh mà theo Lansdale thì việc
đó làm cho dân quê thấy rằng Diệm
yêu-quý dân quê, mà theo Diệm thì
việc đó làm cho mọi người thấy rằng dân
quê mang ơn Diệm nên tuân-phục Diệm.
Lúc đó Mỹ cũng đã có hướng
về phản-du-kích-chiến, bình-định nông-thôn,
song le viện-trợ Hoa-Kỳ thì
vẫn kèm theo đòi-hỏi chính-quyền Đệ-Nhất
Cộng-Hòa thực-thi dân-chủ,
điều mà Diệm & Nhu
vẫn mãi chối-từ. Sau cùng, Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm và Cố-Vấn Ngô
Đình Nhu quay qua nhờ sự cố-vấn của Sir
Robert Thompson, Trưởng Phái-Bộ Anh
BRIAM (British Advisory Mission) là nguời
chủ-trương sử-dụng tim-óc thay cho bom-đạn;
thế nhưng quan-niệm về tim+óc thì vẫn bất-đồng
giữa hai bên. Ngoài ra, một mặt thì cộng-sản
đã mạnh hơn, một mặt thì đồng-bào
đã bất-mãn hơn, trong khi Đồng-Minh Hoa-Kỳ
thì lạnh nhạt với Nhà Ngô hơn.
Tôi đã đến thăm ban ngày, cũng như
ngang qua ban đêm, một số “Ấp
Chiến-Lược”, dọc theo quốc-lộ 14
tại Cao-Nguyên Trung-Phần, từ
Tỉnh Darlac xuống Tỉnh Quảng-Đức.
Lý-thuyết,
và cả nhìn thấy, thì thật khả-quan. Nhưng Dân
Vệ Ấp chận xe xét người qua lại trước
đường hơn là đề-phòng du-kích lén lút sau rào;
và khi lúa chín, đáng lẽ sáng mai thì dân ra gặt, đêm
nay dân phải ở lại trong Ấp, cộng-sản
ở ngoài tự-do gặt hớt tay trên. Lính Quận
chỉ có một đường đến Ấp;
cộng-sản đánh Ấp thì hẳn gài mìn, đào
hố, đắp mô, tạo chướng-ngại-vật;
lính sợ phục-kích nên không hoặc chậm đến
nơi; đến nơi thì “sự
đã rồi”.
Cộng-sản
quả thật có bị thiệt-hại, nhưng do các
hoạt-động khác, nhất là chiến-dịch “Tố
Cộng”,
chứ không phải do “Quốc-Sách Ấp
Chiến-Lược”,
bởi lẽ giản-dị là rừng núi bao-la, ruộng
rẫy mênh-mông, cộng-sản lội suối băng
đồng, chứ đâu chỉ có đi trên các
đường dẫn đến Ấp
hay Địa-Điểm
hay Khu
nào đâu mà bảo là “quốc sách” (chiến-lược)
ấy đã chận đường tiến quân của
họ từ bưng vào thành, từ Bắc
vào Nam.
Hơn nữa, người dân vẫn phải ra ngoài (ruộng-đồng,
rẫy-rừng) làm việc, dù là ban ngày, thì cũng
vẫn bị cộng-sản tiếp-xúc, dò tin, móc nối,
thu mua. Một khi cộng-sản đã quyết “nhổ”
một “chốt” nào thì họ lập hẳn sa-bàn,
tập-dượt kỹ-lưỡng, rồi dùng lực-lượng
áp-đảo (người và vũ-khí), hễ đánh là
thắng chớp-nhoáng, lính Quận không tiếp-ứng
kịp, lương-thực vẫn bị cướp đi,
súng-ống lấy được của ta ngày càng làm giàu
cho kho vũ-khí của đối-phương.
Tướng
Huỳnh
Văn Cao,
trong quyển “Một
Kiếp Người”,
đã viết:
“Đối
với chương trình Ấp Chiến Lược,
với tầm mắt của tôi thì xem ra tình thế đã
quá trễ, phần quốc gia lại chưa chuẩn
bị kịp. Hơn thế, với các đơn vị chính
quy lớn của VC thì Ấp Chiến Lược sẽ
bị tiêu diệt hoặc sẽ trở cờ theo chúng.
Có
một số người biện minh rằng nhờ
Ấp Chiến Lược thì VC sẽ không bắt lính
được, và phá vỡ hệ thống nằm vùng
của VC. Tôi buồn cười vì... VC điều nghiên
kỹ lưỡng, đem lực lượng mạnh đến
tấn công rồi lùa thanh niên đi... Còn nói đến
việc nằm vùng thì ngay tại Phủ Tổng Thống,
tại các cơ quan trung ương VC còn có thể nằm
vùng được huống thay là trong Ấp Chiến Lược”.
Ông
Roger Hilsman,
Thứ-Trưởng Ngoại-Giao đặc-trách Viễn-Đông
của Hoa Kỳ,
sau khi đến thăm Việt
Nam nhiều lần, đã
trả lời phỏng-vấn về Ấp
Chiến Lược như sau:
“Nếu
lập một Ấp sát vùng an-ninh rồi dùng nơi đó
làm vết dầu loang dần dần mở rộng lãnh-thổ
an-ninh, thì là một chuyện. Đằng này, Ông Nhu
tự quyền lập Ấp giáp ranh Cao
Miên,
trong tầm rảo bộ của các tiểu đoàn chính-quy
VC trú-đóng thường-trực ở đó: dân Ấp
không phải là lính chính-quy, mà đẩy họ vào địa-thế
chiến-lược quân-sự, song không có lính
bảo-vệ cho họ, thì kết-quả sẽ ra sao?” (Nguồn:)
Nói
chung, “Ấp
Chiến-Lược”,
dù cho số lượng ít hơn Ấp thật ngoài đời
(hằng
vạn),
nhưng nếu đã được thành-lập đúng cách
và sớm-sủa hơn thì chúng cũng vẫn sẽ là
một dãy tiền-trạm, nếu không tự-vệ thì cũng
là một vành
đai báo-động,
bao quanh các Quận, góp phần không ít cho việc
quốc-phòng. Còn “Địa-Điểm
Dinh Điền”
hay “Khu
Trù-Mật”
thì lại quá ít (chỉ
hơn một trăm),
mỗi một đơn-vị đứng riêng một góc,
như một ốc-đảo, không đáp-ứng
được nhu-cầu đề ra. Trong lúc đó, các
Ấp còn lại ngoài đời (hằng
vạn)
suốt 8 năm qua vẫn là hành-lang
giao-liên,
thông-tin, tiếp-tế, tuyển-mộ, ẩn-náu,
xuất-quân, để địch ngày càng mạnh hơn
(họ đã có thể công-khai ra mắt Mặt
Trận Giải Phóng
từ năm 1960).
Đến
khi Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm,
nhất là Cố-Vấn Ngô
Đình Nhu,
từ giai-đoạn 2 và giai-đoạn 3 vào năm 1962
(chỉ
hơn một trăm Dinh-Điền
và Khu Trù-Mật) sực tỉnh mà quay trở xuống
lại giai-đoạn 1, muốn dựng cấp-tốc
một
loạt
8,000
“Ấp
Chiến-Lược”
cho năm 1962 và 12,000
Ấp cho năm 1963, tổng-cộng 20,000
Ấp (đáng lẽ có thể đã thực-hiện xong,
nếu chịu thi-hành giai-đoạn 1 chậm nhất là
từ năm 1957).
Nhưng dù chỉ cốt có lượng hơn là có
phẩm, mãi đến năm sau, cuối năm
1963 mà chỉ mới có hơn 7,000
Ấp (hiện-diện ở trên hình-thức, trong đó
chỉ có khoảng 1,500
Ấp là đáng kể thôi),
lúc đó thì
đã muộn rồi, đã quá muộn rồi.
Trong
cuộc họp của Ủy Ban Liên Bộ Đặc-Trách
Ấp Chiến-Lược vào ngày 12-4-1963,
Cố-Vấn Ngô Đình Nhu đã
nhận xét:
“Tôi
nhận thấy việc tiếp viện
cho các ACL bị VC tấn công không được thực
hiện đúng mức và kịp thời. Các tỉnh
phải liên lạc thường xuyên bằng vô tuyến
với các quận để thông báo tin tức cho nhau
đề cao cảnh giác, đồng thời cấp
quận cũng phải liên lạc luôn luôn với các ACL
để hỏi biết tình hình, tin tức, và đốc
xuất họ đề cao cảnh giác, nhất là về
ban đêm và các ngày nghỉ lễ, chiều thứ
bảy, ngày chủ nhật. Thường, tôi thấy các
địa phương còn thiếu ý
thức cảnh giác, nhất là trong những ngày
nghỉ, vì vậy tôi yêu cầu các ông tỉnh
trưởng, quận trưởng phải cố gắng làm
việc nhiều hơn trong những ngày đó. Nếu cần nghỉ, thì nghỉ vào những ngày khác
trong tuần, để tránh qui luật cố định mà
địch có thể lợi dụng”.
Năm
tháng trôi qua, vào ngày 6-9-1963
Cố-Vấn Ngô Đình Nhu lại
triệu tập một cuộc họp của Ủy
ban liên bộ đặc trách ấp chiến lược,
với nhiều bộ trưởng, tướng
lĩnh, do Ông Nhu chủ tọa.
Trong cuộc họp này, Ông Nhu đã
phiền-trách các tướng tá:
“Sau
mỗi lần VC tấn công một ấp chiến lược
(ACL), tôi yêu cầu các Khu chiến thuật và cấp
tỉnh, quận tổ chức hành quân trả đũa
tức thời. Vấn đề này tôi
đã đề cập nhiều lần nhưng chưa
thấy các nơi tích cực thi hành. Nếu ta không hành
quân trả đũa, thì đương nhiên ta khuyến
khích địch tấn công mạnh các ACL. Tôi cũng
nhận thấy bên quân
đội không chú trọng nhiều tới việc
yểm trợ công tác xây dựng ACL”.
Nguồn:
“Intra
Ministry Committee for Strategic Hamlets”,
Douglas Pike Collection: Other Manuscripts, Texas
Tech University.
Tóm lại, có ai có một “bảo-bối”,
một “bí-quyết”
quý-hiếm như “Ấp Chiến-Lược” mà không
đem ra sử-dụng, mặc dù chấp-chánh đã 8 năm rồi,
để chỉ moi ra và thổi phồng lên khi gần thất-chánh! –
chỉ trừ những kẻ nếu không là khùng thì cũng là khờ!
Hơn nữa, Quân-Đội
của mình mà không chú-trọng nhiều đến “Ấp
Chiến Lược”
của mình, thì “quốc
sách”
ấy hẳn đi về đâu?
*
“...
Chương Trình Ấp Chiến Lược
bị gián đoạn và sau đó bị hủy bỏ qua
sắc luật SL.103/SL/CT, giải tán ủy ban đặc
trách Ấp Chiến Lược ở trung ương và vùng,
do thủ tướng Nguyễn Khánh
ký ngày 9 tháng 3-1964. ...”
Nguồn:
Từ Điển Chiến Tranh
Việt Nam. Nguyễn Kỳ Phong.
Garden Grove, CA:
Nhà Sách Tự Lực, 2009 (trang
16).
“...
9.3.1964 - Giải tán Ủy-Ban đặc-trách
Ấp Chiến Lược, ở
Trung-ương và Khu (SL.103/SL/CT)
”
Nguồn:
Hai Mươi Năm Qua. Đoàn
Thêm. Los Alamitos, CA:
Xuân Thu (trang 383)
Lansdale,
Edward
“Chuyên
viên chống nội-loạn và du-kích-chiến. Giúp Philippines
đánh tan quân cộng-sản Huk,
dựng ghế nguyên-thủ cho Tổng-Thống Magsaysay,
và từ năm 1954 qua giúp Ngô
Đình Diệm. ...”
Nguồn:
Việt Nam Niên Biểu, Nhân Vật
Chí. Chính Đạo. Houston,
Texas: Văn
Hóa, 1997 (trang 195)
Lansdale,
Edward Geary:
Được
Tổng-Thống Elpidio Quirino của Phi-Luật-Tân
đích-thân yêu-cầu sung vào Phái-Bộ Quân-Trợ
Hoa-Kỳ tại Phi-Luật-Tân để
giúp cơ-quan quân-báo của nước này đánh
dẹp cộng-sản Hukbalahap (Huks), vào
lúc Ramon Magsaysay vừa được
cử làm Bộ-Trưởng Quốc-Phòng, và Lansdale
được chọn làm sĩ-quan liên-lạc với ông
ta. Hai người trở thành bạn thân, cùng đi quan-sát
chiến-trường. Lansdale giúp quân-lực
Phi triển-khai hoạt-động tâm-lý-chiến,
dân-vận,
và phục-hoạt tù-binh Huks. Ông
đã tạo-dựng cho Magsaysay sau
đó trở thành “vị
tổng-thống tài-ba nhất”
của Phi. Vào năm 1953,
Lansdale được chọn là
một trong các tay tình-báo giỏi nhất
của Hoa-Kỳ để sung vào Phái-Bộ
của thiết-tướng (gan lì như sắt thép)
Mỹ John W. O'Daniel tại Đông-Dương,
(trung-tướng mà tự xuống lon thiếu-tướng
cho đúng thủ-tục ngoại-giao để làm)
cố-vấn phản-du-kích-chiến cho binh-lực Pháp
chống Việt-Minh. Năm 1954,
Lansdale được
Tổng-Thống Mỹ Dwight
D. Eisenhower đặc-phái trợ-giúp riêng cho Ông Ngô
Đình Diệm, với tư-cách Chỉ-Huy-Trưởng
“Phái-Bộ Quân-Sự Sài-Gòn”
(SMM= Saigon Military Mission), mang danh quân-sự
mà nằm ngoài Phái-Bộ Cố-Vấn Viện-Trợ Quân-Sự
Mỹ (MAAG) tại Việt-Nam,
hoạt-động tình-báo mà nằm ngoài cơ-cấu Tình-Báo
CIA tại Việt-Nam, nhận lệnh
và báo-cáo trực-tiếp lên Giám-Đốc Tình-Báo Trung-Ương
(CIA) Allen Dulles tại Hoa-Kỳ,
cấp-tốc đáp nhờ chuyến thủy-phi-cơ
đầu tiên nhân bay tuần-thám trên Biển Nam-Hải
từ
căn-cứ Không-Quân Clark, đến sẵn Sài-Gòn
từ cuối tháng 5, trước khi Ông Ngô
Đình Diệm từ Pháp
về nước (vào ngày 25 tháng 6), bắt tay vào việc
bằng cách cuốc bộ hoặc đi xích-lô (trong lúc lính
quèn của Pháp thì dùng xe Jeep do Mỹ
viện-trợ). Tại Miền
Bắc Lansdale áp-dụng
chiến-thuật tuyên-truyền đen; ngụy-tạo tài-liệu
về tội ác của Việt-Cộng và Hoa-Cộng; phao
tin có mấy sư-đoàn lính Tàu
đã vượt biên-giới qua cướp-bóc và
hiếp-dâm dân ta; in các sách bói đứng tên các nhà chiêm-tinh
và lý-số nổi tiếng ở Hà-thành
tiên-đoán cộng-sản sẽ thảm-sát lương-dân
và Miền Nam sẽ sớm phồn-vinh; đồn
miệng là Việt-Minh sắp-sửa đổi tiền
khiến đồng bạc “cụ
Hồ”
mất giá 50%; rỉ tai rằng “Đức
Mẹ”
đã đi vào Nam khiến số tín-đồ Ky-Tô-Giáo
di-cư tăng 300%; dùng chí-nguyện-quân Phi
phá-hoại máy-móc và hệ-thống giao-thông trước
khi rút lui; tổ-chức các lực-lượng bán-quân-sự
nằm vùng sau khi Việt-Minh đến tiếp-thu... . Tại
Miền Nam Lansdale
giúp loại Tướng Nguyễn Văn
Hinh; huấn-luyện quân-đội; móc nối các lãnh-tụ
giáo-phái Cao-Đài và Hòa-Hảo
về với chính-quyền; cải-tuyển cựu
lực-lượng Cao-Đài do Tướng Trình
Minh Thế chỉ-huy để đánh dẹp Bình-Xuyên;
đặt kế-hoạch cho cuộc Trưng-Cầu Dân-Ý
truất-phế Bảo-Đại
với mánh-lới “xanh
bỏ giỏ, đỏ bỏ bì”;
được TT Ngô Đình Diệm
xem là người bạn Mỹ
tín-cẩn nhất, mời vào ở chung, tâm-sự
cả chuyện tình yêu nam-nữ của mình. Neil
Sheehan
viết rằng Đệ-Nhất
Việt-Nam Cộng-Hòa của Diệm
là do Lansdale dựng nên... . Năm 1963,
trong bộ tham-mưu của Tổng-Thống Mỹ Kennedy,
Lansdale chống lại mưu-toan
lật đổ TT Diệm nên
bị mất chức.
Nguồn:
Edward Geary Lansdale. 1991. In
the Midst of Wars. New York: Fordham
University Press.
Theo
Ông ĐOÀN THÊM
(Cựu
Phụ-Tá Đổng-Lý Văn-Phòng Phủ
Tổng-Thống Đệ-Nhất Cộng-Hoà):
“3-2-1962.-
Thiết lập Ủy-ban Trung-ương đặc-trách Ấp
Chiến-lược. Ủy-ban họp mỗi tuần
một lần, do Cố Vấn Ngô-đình-Nhu
chủ tọa, gồm đa-số các Bộ-trưởng
và cao-cấp quân-dân-chính (SL 11/TTP)”
Nguồn:
Hai Mươi
Năm Qua - Việc từng ngày (1945-1964).
Đoàn Thêm.
Houston, Texas:
Xuân Thu, 1965 (trang 314)
Theo
nhà văn CHÍNH ĐẠO
(Tiến-Sĩ
Vũ
Ngự Chiêu):
“3/2/1962:
*Saigon:
Diệm
ký nghị định số
11/TTP, tuyên bố quốc sách Ấp
Chiến Lược, và thành
lập Ủy Ban Liên Bộ đặc trách Ấp Chiến
Lược...”
Nguồn:
Việt Nam Niên Biểu 1939-1975
- Tập I-C: 1955-1963.
Chính Đạo.
Houston,
Texas: Văn
Hóa, 2000 (trang 241)
Theo
Tiến-Sĩ NGUYỄN ĐÌNH TUYẾN
(Cựu
giáo-sự Đại-Học Vạn
Hạnh và Đà Lạt):
“Ngày 22 tháng 3 năm 1962
Hơn
4,000 Ấp Chiến Lược
được chính phủ Ngô Đình
Diệm công bố thành lập ở Miền
Nam Việt Nam. Các ấp chiến lược này
được tổ chức theo kiểu mẫu của các
làng chống Cộng bên Mã Lai
đã giúp Mã Lai thanh toán
hiểm họa đỏ...”
Nguồn:
Những
Biến Cố Lớn trong 30 Năm Chiến Tranh tại
Việt Nam 1945-1975.
Nguyễn Đình Tuyến.
Houston,
Texas: Đại
Học Đông Nam, 1995 (trang 63)
Ý-Kiến:
Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm (và
Cố-Vấn Ngô Đình Nhu)
cầm quyền từ 7-7-1954 đến 1-11-1963
(là hơn 9 năm), mà mãi đến năm 1962
(tức là 8 năm sau −
cũng là 2 năm sau khi đã bước vào
thời-kỳ suy-thoái rõ-rệt của chế-độ
từ năm 1960
rồi), mới chịu đem cái "bửu bối"
Ấp Chiến-Lược ra mà thi-hành, thì làm sao mà
bảo là Ấp Chiến-Lược đã vô-hiệu-hóa
được hoạt-động của cộng-sản
tại Miền Nam Việt Nam?
Theo
Ông
NguyỄn
HỮu Hanh
(Cựu
Cố-Vấn Kinh-Tế, Tài-Chánh của Tổng-Thống
Ngô Đình Diệm;
Cựu
Tổng-Giám-Ðốc Ngân-Hàng Quốc-Gia Việt-Nam
[1955-1962]):
“....
Ông (Ngô Đình Diệm) làm
việc rất nhiều, cả ngày lẫn đêm, bởi
ông chẳng có trò giải trí nào, không chơi môn thể
thao nào, không có món tiêu khiển bất cứ kiểu nào.
Môn giải trí duy nhất của ông là đi thanh tra các
dự án xây dựng mới, các vùng kinh tế mới, các
khu định cư mới, những gì mà ông tin rằng
ông đã làm vì quyền lợi dân chúng. Bởi vì ông
rất nôn nóng nhìn thấy những việc này tiến
triển nhanh chóng, nên những viên
chức có trách nhiệm thường gian lận và nói
dối ông. Một ngày nọ, khi tôi đi thăm vùng
đồng bằng sông Cửu Long,
dân chúng trong vùng đã chỉ tôi xem những cái cây
mới mà viên tỉnh trưởng bắt họ trồng
trong một dự án tái định cư để ông Diệm
đi thanh sát. Theo lời đề nghị của các bô lão
địa phương, người tài xế của tôi
đã nhổ thử một cây lên cho tôi xem: đó là
một cành cây mới cắt được cắm
xuống đất ướt! Ở nông thôn người
ta biết tôi rất gần gũi với Tổng thống
và tôi dám nói sự thật với ông, vì vậy họ không
ngần ngại tiết lộ các trò gian
lận và những cuộc trình diễn dỏm của
đám tỉnh trưởng và quận trưởng.
“Một
lần khác tôi tới thăm một vùng kinh tế mới
gần Mỹ Tho; tôi nhìn
thấy một dãy hàng cây ăn quả dọc lộ có
vẻ như sắp chết héo. Tôi dừng xe lại, bước
tới coi. Một người nông dân tiến tới phía
tôi và hỏi nhỏ tôi có muốn coi mấy cây hay không.
Anh ta nhổ lên một cây và đưa cho tôi: đó là
một cái cành được cắt khỏi cây và
cắm xuống đất. Anh ta lập tức biến
mất, rõ ràng sợ bị nhìn thấy nói chuyện
với người lạ. Sau này tôi được
biết là những việc như vậy
xảy ra rất thường xuyên, bởi vì các viên
tỉnh trưởng và quận trưởng
đều muốn tỏ cho Diệm
thấy là họ đã mở mang các dự án mới
một cách mau chóng, họ muốn được ông Diệm
đánh giá cao, muốn “ghi điểm”, và thăng
chức. Tôi nghe nói một lần ông đến thăm
một dinh điền mới
với một ông trung tá, trách nhiệm về dinh
điền này, ông cầm lên xem một cành cây có trái;
bỗng nhiên cành cây rơi xuống đất, ông
biết là cành cây mới được cắm. Ông quay
lại nhìn ông trung tá, mặt ông đỏ bừng; ông hét
lên, ông cầm cây ba ton của ông, đánh vào người
ông trung tá. Ông này quì xuống lạy xin tha tội,
mặt tái mét và nước mắt rưng rưng; vài ngày
sau ông trung tá bị cách chức và đày đi nước
độc.”
(Trích
từ cuốn hồi-ký “Brushing
the World Famous” (“Làm việc
với các nhân vật danh tiếng thế giới”).
Theo
cựu Đại-Tướng CAO VĂN VIÊN
(qua
bài viết của Ông Lâm
Lễ Trinh):
“LLT: Trong hồi ký
“Vietnam.
Histoire secrète d'une victoire perdue”
(nxb Perrin, Paris,
1986), giám đốc CIA William Colby xác nhận kế
hoạch Ấp Chiến Lược, Strategic Hamlets.... . Đúng
như vậy không?
CVV:
Kế hoạch Ấp Chiến Lược là một
việc phải làm để tách CS ra khỏi nhân dân, tách
cá khỏi nước, như đã từng thí nghiệm
tốt ở Mã Lai với tướng Robert Thompson. Tại
VN, có những sơ sót trong việc thi hành bởi một
số tỉnh trưởng dàn cảnh, để lấy
điểm với thượng cấp.”
(Trích
từ “MẠN
ĐÀM VỚI ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN”
của Lâm Lễ Trinh, ngày
27.1.2006)
Theo
Ông Dương
hiẾu Nghĩa
(cựu
đại-tá - Trong lần diện-kiến
Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm
vào đầu tháng 11-1960 trước khi được
bổ đi làm Quận-Trưởng Quận Bình-Minh
thuộc Tỉnh Vĩnh-Long):
“... Tôi quyết định phải lợi dụng cơ
hội duy nhất và hiếm có nầy để thẳng
thắn và vắn tắt trình bày những nhận xét
của cá nhân tôi về mặt chánh trị, kinh tế, và
những điểm
bất lợi cho cả chánh phủ lẫn nông dân ở
địa phương, đang tạo hậu quả tai
hại là sự thất nhơn tâm, vì người dân
gặp quá nhiều phiền phức, mất niềm tin vào
chánh quyền.
Tôi nói:
“Thưa
Tổng Thống, các
Khu Trù Mật thật sự không có trù mật chút nào.
Về phương diện vật chất, người
nông dân bị mất đất mất ruộng,
đôi khi còn mất
cả mùa màng
vì phải phá
đi sạch sẽ
kể cả mồ
mả của tổ tiên,
cho công tác xây cất Khu Trù Mật, mà không
bao giờ được bồi thường thiệt
hại. Người
dân địa phương còn phải
đóng góp công sức và thì giờ
vào công tác, mà không
bao giờ được trả thù lao
(coi như làm xâu). Có trù mật thiệt, nhưng chỉ
có trù mật một buổi, vào ngày Tổng Thống
xuống khánh thành mà thôi.
Trước cả ngàn người dân quê từ các nơi
trong tỉnh được huy động về để
biến khu đất hoang thành Khu
Trù Mật,
bằng cách bứng đủ mọi loại cây ăn trái
đem về trồng, trang trí, để Tổng Thống
và phái đoàn thưởng thức. Có nhiều cây
dừa, cau, mới trồng chỉ có một ngày mà đã
lên cao hơn 10 thước, đầy trái... Có nhiều cây
bưởi “năm roi”
của miền Tây mới trồng có một ngày mà có
đầy những trái bưởi ngọt “Biên
Hòa”
vàng ánh, không phải ghép cành mà là ghép trái! Cũng
vậy, cam quít trái mùa nhờ kỹ thuật cao “gắn
trái ngoài chợ vào”, nên
vẫn có trái đỏ cây, đầy vườn, đầy
khu... Khu phố chợ vừa mới xây cất xong mấy
hôm trưóc, hôm qua còn tạm dùng làm chỗ ngủ cho dân
công mà hôm nay có đầy đủ các hiệu chạp
phô, tiệm thuốc tây, tiệm thuốc bắc, quán cơm,
tiệm cà phê, phòng mạch bác sĩ v.v.... từ quận
tỉnh mới dọn vào. Ngoài nhà lồng chợ, thì
cảnh buôn bán tấp nập. Nhà bảo sanh mới hôm
qua còn là phòng họp của ban điều hành buổi
lễ khánh thành, mà hôm nay đã có vài người mẹ
nằm sanh (không biết từ đâu được
đưa đến), giường nệm trắng tinh, tươm
tất...
“Mới
nhìn qua thì thật là trù mật, nhưng khi Tổng
Thống và phái đoàn ra về rồi, thì dân và hàng hóa
đâu lại về đó. Vài ngày sau, hoang tàn trở
lại với hoang tàn. Cây không trái, lá lìa cành,... cả
một màu vàng héo, không còn thấy có một sinh khí nào
ở cái khu mà vừa mấy ngày trước đây
Tổng Thống và phái đoàn chánh phủ, ngoại giao
đoàn... thấy là quá trù mật... Nếu Tổng
Thống thật sự muốn thấy cảnh hoang vu
vắng vẻ nầy, thì xin Tổng Thống bất
thần đi viếng thử bất cứ Khu Trù Mật nào
mà Tổng Thống vừa đến khánh thành một hai
ngày trước đó.
“Tôi
cũng trình bày luôn với Tổng Thống vấn đề
an ninh của Khu
Trù Mật.
Từ ngày khởi công thành lập cho tới ngày khánh thành
(và sau đó về lâu về dài an ninh cho một khu đất
bỏ hoang) là cả
một gánh nặng phí phạm cho lực lượng địa
phương.
Chính phủ không
tranh thủ được nhân tâm của người dân,
mà còn phải bị
thất nhân tâm hoàn toàn.
Người dân quê càng ngày càng xa chánh quyền, như
thế thật là không có lợi cho nỗ lực chống
cộng....
“... Qua mẩu
chuyện nhỏ nầy, cá nhân tôi thấy Tổng
Thống Ngô đình Diệm có
chịu khó nghe và tìm hiểu tình hình, nhưng lúc nào
Tổng Thống cũng có vẻ như bị
bưng bít, (nghe thì không nghe được sự
thật, thấy thì chỉ thấy toàn là những
cảnh được thuộc cấp dàn dựng) lại
còn được những người
ở chung quanh Tổng Thống cố tình sơn phết
cho ông một lớp sơn phong kiến và quan liêu (mà
ở bản thân Tổng Thống tôi không thấy có), rất
là tai hại cho người lãnh đạo lúc
bấy giờ. Dĩ nhiên, cũng rất có hại cho
đất nước nữa. Và tôi nghĩ đó cũng
là một trong nhiều nguyên nhân gây ra cái
chết cho Tổng Thống vào ngày 2 tháng 11 năm
1963....”
(Trích
từ bài viết “VỀ
CÁI CHẾT CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM”
của Ông Dương
Hiếu Nghĩa
- Saturday, July 19, 2008 12:33 AM)
Theo
Ông NGUYỄN TRÂN
(Cựu
đồng-chí và cộng-sự-viên thân-tín của TT Ngô
Đình Diệm):
.... “Bắt
đầu từ đầu năm 1959,
Cộng sản Bắc Việt tăng số đảng viên
ở miền Nam từ một lên hai phần trăm dân
số, tức là gấp bội và gia tăng hoạt động
khắp nơi, nhứt là đồng bằng sông Cửu
Long, Cà Mau và vùng biên
giới Cam Bốt.
“Số
đồn bót bị rút hẹp lại theo kế hoạch
của Ngô Đình Nhu, bỏ
ngỏ một phần lớn xã thôn cho Cộng sản. Dân
vệ phải nạp vũ khí tốt để nhận vũ
khí thô sơ và dao găm, nên không đủ khả năng
tự vệ cho chính họ chớ chưa nói tới
việc bảo vệ dân chúng. Đây là cơ
hội bằng vàng cho Cộng sản thi hành chính sách
khủng bố, ám sát Hội đồng xã, tấn công các
đồn bót và phục kích các đoàn quân chính quy, gây
ra cảnh bất an khắp nơi... .
“Vì
cho là không thể nắm dân như tôi đề nghị,
ông Nhu không còn có cách nào khác
để đối phó với sự gia tăng hoạt
động và đánh phá của Cộng sản là cưỡng
bách tập trung dân chúng lại tại một số địa
điểm nào đó để dễ kiểm soát,
gọi là Khu Trù mật. Để
thành lập Khu Trù mật, Tổng
thống Diệm ra lệnh cho dân
chúng phá hoại mùa màng đương tươi tốt
trên hàng trăm mẫu tây, kể cả nhà cửa và vườn
trồng cây ăn trái để tập
trung gia đình lại ở Khu Trù mật... .
“Tại
tỉnh Kiến Hoà, trong một
buổi hội họp tại hội trường tỉnh
gồm nhiều thân hào nhân sĩ, Tỉnh trưởng là
Thiếu tá Nguyễn Huỳnh,
một Tỉnh trưởng rất được Tổng
thống Diệm ưa thích, đứng
lên xin trợ cấp chút ít cho dân chúng
ăn mà làm Khu Trù mật, trong lúc họ
đương túng thiếu. Theo lời thân phụ
của Thiếu tá Huỳnh là
Cụ Nguyễn Hà Hoành, cựu Án
sát tôi kêu bằng bác họ kể lại, ông Diệm
nổi nóng cầm cây gậy gập vào
cái gạt tàn thuốc để trên bàn bể văng
nhiều mảnh. Ai nấy đều khiếp
sợ, nhưng bất bình.
“Bị
dân chúng chống đối mạnh khắp nơi,
Tổng thống ngưng việc làm các Khu
Trù mật sau khi đã lập xong 26 khu thay thế
bằng chính sách Ấp Chiến Lược.
Dân chúng trên toàn quốc bị bắt
buộc phải nạp tre và đi
dân công để xây hàng rào xung quanh ấp và đào hào
bên ngoài để không cho Cộng sản tuyên
truyền cho dân và dân khỏi tiếp tế cho Cộng
sản... .
“Tại
miền Nam với 80% xã thôn bị
Cộng sản kiểm soát, các Quận trưởng
phải mở những cuộc hành quân để bắt
dân phục dịch và vợ con phải đem com nước
cho họ.
“Chính
sách đó hoàn toàn thất bại trên nguyên tắc cũng
như trên thực tế. Trên nguyên tắc không có cách nào
phân biệt giữa người dân thường với
Cộng sản. Gom dân vào bên trong Ấp
Chiến Lược tức là gom cả cán bộ
Cộng sản vào với họ vì môi trường
hoạt động của Cộng sản là dân. Chúng không
tuyên truyền Cộng sản công khai, mà khai thác sự công
phẫn của dân chúng chống Khu Trù
mật và Ấp Chiến lược
bắt dân chúng phải phục dịch khốn khổ.
“Cưỡng
bách dân chúng phá hoại mùa màng để lập Khu Trù
mật với tánh nóng nảy phi lý
của Tổng thống Diệm như
trường hợp tỉnh Cần Thơ
chỉ làm cho dân chúng thù ghét ông
như thể một Tần Thuỷ Hoàng.
“Trên
thực tế, tre cắm xuống đất không thể
chịu mưa nắang lâu qúa hai hoặc ba năm thì
kế hoạch là công đã tràng. Chỉ có một
việc đáng làm là lấy lòng dân
bao vây Cộng sản thì không chịu làm, lại dùng những
phương tiện chóng hư nát để bao vây dân
thì quả là điều không tưởng, ngông cuồng.
“Sách
“A Death in November” của
Tiến sĩ Ellen Hammer viết
đầy thiện cảm với Tổng thống Diệm
như sau này tôi sẽ trình bày, đã tường
thuật rằng một ngày Xuân 1963
ba Uỷ viên trong Uỷ hội Kiểm
soát Đình chién, là Gordon Cox
người Gia Nã Đại, Ramchundur
Goburdhum, người Ấn Độ
và Mieczyslaw Maneli, người Ba
Lan, đã đi với Đại sứ Bửu
Hội thăm một Ấp
Chiến lược ở Cao nguyên.
“Maneli
đi trên đầu nhọn các cây hàng rào của ấp,
lấy tay lắc xem có chắc không. “Không có chắc
lắm!” Maneli vừa cười
vừa nói, “thằng con nhỏ của tôi ở Warsaw
có thể xô ngả. Chính phủ có chắc tin sẽ dùng
hàng rào này để ngăn cản du kich không?”... .
“Tháng
10 năm 1961, thiên tai gây tai hoạ.
Một trận lụt lớn chưa từng có ở
miền Nam làm ngập 2,500 dặm vuông đồng bằng
sông Cửu Long. Nửa triệu
dân mất nhà cửa, súc vật và hoa lợi thiệt
hại đến 300,000 tấn. Tại ba tỉnh, dân chúng
mất hết heo, gà, vịt và từ 10 đến 15% trâu
cày. Một triệu nông dân bị khánh tận. Dư
luận liên hệ tai biến với sự
thất đức của nhà cầm quyền. Tất
cả các Ấp Chiến lược bị huỷ hoại...
..”
(Trích
từ cuốn sách "Công Và Tội -
Những Sự Thật Lịch Sử" của Nguyễn
Trân, do nhà Xuân Thu ở Los
Alamitos, CA, tại Hoa Kỳ
xuất-bản năm 1992, các trang 330-34)
AP
CHIEN-LUOC
“In
1961 the rapid increase of insurgency in the South Vietnamese countryside
led President John F. Kennedy's administration to decide to increase United
States support for the Diem regime. Some $US65 million in military equipment and
$US136 million in economic aid were delivered that year, and by December 3,200
United States military personnel were in Vietnam. The United States Military
Assistance Command, Vietnam (MACV) was formed
under the command of General Paul D. Harkins in February 1962.
The cornerstone of the counterinsurgency effort was the strategic
hamlet program, which called for the consolidation of 14,000 villages of
South Vietnam into 11,000 secure hamlets, each with its own houses, schools,
wells, and watchtowers. The hamlets were intended to isolate guerrillas from the
villages, their source of supplies and information, or, in Maoist terminology,
to separate the fish from the sea in which they swim. The program had its
problems, however, aside from the frequent attacks on the hamlets by guerrilla
units. The self-defense units for the hamlets were often poorly
trained, and support from the Army of the
Republic of Vietnam ( ARVN) was inadequate. Corruption,
favoritism, and the resentment of a growing number of peasants who were forcibly
being forced to resettle plagued the program. It was estimated that of
the 8,000 hamlets established, only 1,500 were viable.”
Đại
Ý:
“Trong năm 1961,
cường-độ dấy loạn ở vùng nông-thôn Miền
Nam Việt-Nam gia-tăng nhanh chóng đã khiến chính-quyền
của Tổng-Thống John K. Kennedy
quyết-định gia-tăng yểm-trợ của Hoa
Kỳ cho chế-độ Diệm.
Khoảng 65 triệu Mỹ-kim quân-dụng và 136 triệu
Mỹ-kim kinh-viện đã được chuyển-giao
trong năm ấy, và vào tháng chạp thì đã có 3.200 nhân-viên
quân-sự tại Việt Nam. Bộ Tư-Lệnh Quân-Trợ
Hoa-Kỳ được thành-lập (MAC-V) dưới
quyền của Tướng Paul D. Harkins
vào tháng 2 năm 1962. Then
chốt của nỗ-lực chống khuynh-đảo là Chuơng
Trình Ấp Chiến Lược, ra đời để
củng-cố 14,000 làng xã Nam Việt-Nam thành 11,000 ấp
kiên-cố, trong mỗi ấp đều có nhà cửa, trường
học, giếng nước, và tháp canh. Mục-đích
của các ấp này là tách rời du-kích ra khỏi các làng,
tức nguồn cung-cấp tiếp-tế và tin-tức,
hoặc, nói theo ngôn-ngữ của Mao
Trạch Đông, là tách cá ra
khỏi nước. Tuy nhiên, chương-trình này
đã vấp nhiều khuyết-điểm,
chưa kể các đơn-vị du-kích
vẫn tấn-công vào ấp thường-xuyên.
Các bộ-phận tự-vệ trong
ấp thường thì không được
huấn-luyện chu-đáo, và sự
tiếp-viện từ Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa thì
không thỏa-đáng. Tệ-nạn tham-nhũng,
bè-phái, và lòng oán-hận của dân
quê ngày càng gia-tăng, vì họ bị
buộc phải rời bỏ xóm làng cũ, đã gây
tổn-hại cho chương-trình. Người ta
ước-tính là trong số 8,000
ấp đã được dựng lên, chỉ có 1,500
ấp là có thể đứng vững được.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét