2 tháng 12, 2019

Alexandre de Rhodes Bách (theo khoa toàn thư mở Wikipedia)


Alexandre de Rhodes
Derhodes.jpg
Chân dung của Alexandre de Rhodes
Sinh15 tháng 3 năm 1591
Avignon, Lãnh địa Giáo hoàng (nay thuộc Pháp)
Mất5 tháng 11, 1660 (69 tuổi)
Isfahan, Ba Tư
Quốc tịch Lãnh địa Giáo hoàng
Alexandre de Rhodes (15 tháng 3 năm 15915 tháng 11 năm 1660) là một nhà truyền giáo Dòng Tên và một nhà ngôn ngữ học người Avignon. Ông đã góp phần quan trọng vào quá trình truyền bá Công giáo tại Việt Nam. Dựa trên nghiên cứu của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, ông tiến hành việc ghi chép tiếng Việt bằng chữ La tinh (ngày nay gọi là chữ Quốc ngữ) để tiện cho việc truyền đạo. Tác phẩm ông biên soạn, Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt–Bồ–La), xuất bản tại Rôma năm 1651,[1][2] đã hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh.
Chữ quốc ngữ Việt Nam được hình thành nhờ công trình tập thể của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và Ý, với sự trợ giúp của các giáo hữu Việt Nam, mà công đầu là của giáo sĩ Francisco de Pina.[3] Khi Rhodes đến xứ Đàng Trong thì tiếng Việt đã được Latinh hóa với những dấu âm khá gần với chữ Quốc ngữ hiện nay. Alexandre de Rhodes đã ghi nhận và thừa hưởng di cảo của những người tiền bối. Ông có công san định chữ Quốc ngữ và khiến cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên được ấn hành.[4]

Tiểu sử

Thời niên thiếu

Alexandre de Rhodes sinh tại Avignon thuộc Lãnh địa Giáo hoàng (nay ở miền nam nước Pháp), trong một gia đình khá giả. Theo một số sử liệu, ông sinh năm 1591, nhưng nhiều nguồn khác ghi năm 1593. Sau khi hoàn thành trung học tại quê nhà, ông vào Nhà Tập Dòng Tên tại Roma ngày 24 tháng 4 năm 1612, học thiên văn và toán học. Một người bạn đồng môn của ông là Johann Adam Schall von Bell sau này rất nổi tiếng tại Trung Hoa. Thời kỳ này, công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển nhưng cũng gặp sự kháng cự của các chính quyền sở tại. Vì thế, bên cạnh nhiệt tâm truyền giáo, còn phải kể ước muốn được đổ máu đào minh chứng cho Chúa Giêsu của các vị thừa sai tiên khởi. Gia đình ông có gốc Do Thái,[5] tổ tiên ông từ Tây Ban Nha sang tị nạn dưới bóng Giáo hoàng vì thời ấy Avignon là đất của Giáo hoàng, nên tên ông là Alexandre de Rhodes. Tên ông được người đời sau phiên âm là A-lịch-sơn Đắc-lộ.

Truyền giáo

Trong bối cảnh đó, Alexandre de Rhodes đã xin và được giáo sĩ cấp trên chỉ định đi truyền giáo tại Nhật Bản. Ngày 4 tháng 4 năm 1619, ông lên đường sang Nhật vào tuổi 26.
Đầu tiên, Alexandre de Rhodes cập bến tại Goa, đợi chờ cơ hội thuận tiện đặt chân lên đất Nhật Bản. Nhưng tình hình bách hại Kitô giáo dữ dội tại đây đã khiến các giáo sĩ bề trên chỉ định ông đi Trung Quốc. Ông lên tàu đi Ma Cao, nhập học Đại học Thánh Phaolô. Tại Macao ông đã ghi lại nhận xét về người Trung Hoa:
"Người Trung Hoa rất ngạc nhiên khi nhìn thấy bản đồ chúng tôi vẽ. Trung Quốc vĩ đại của họ chỉ còn là chấm nhỏ trong vũ trụ Trái Đất bao la. Trái lại, nơi bản đồ trái đất hình vuông do họ vẽ, Trung Quốc nằm chính giữa, đúng như tên gọi (Trung Quốc-nước ở giữa). Sau đó, họ vẽ biển nằm bên dưới Trung Quốc, trong đó rải rác mấy đảo nhỏ, và họ đề tên: Châu Âu, Châu PhiNhật Bản..."
Ông còn viết:
"Chúng ta thường tỏ ra quý chuộng những người ngoại giáo. Nhưng khi họ trở thành Kitô hữu, chúng ta không đoái hoài đến họ nữa. Thậm chí còn bắt các người theo đạo phải từ bỏ y phục địa phương. Chúng ta đâu biết rằng, đây là một đòi buộc quá khắt khe, mà ngay cả Thiên Chúa, Ngài cũng không đòi hỏi như thế. Chúng ta ngăn cản người ngoại giáo, không cho họ cơ hội dễ dàng gia nhập Giáo hội Công giáo. Riêng tôi, tôi cực lực phản đối những ai muốn bắt buộc người đàn ông Trung Hoa, khi theo đạo, phải cắt bỏ mái tóc dài họ vẫn để, y như các phụ nữ trong xứ. Làm vậy, chúng ta gây thêm khó khăn cho các nam tín hữu Trung Hoa, một khi theo Công giáo, không còn tự do đi lại trong xứ, hoặc tìm được dễ dàng công ăn việc làm. Phần tôi, tôi xin giải thích rằng, điều kiện để trở thành Kitô hữu là phải từ bỏ lầm lạc, chứ không phải cắt bỏ tóc dài..."

Tại Việt Nam

Bản đồ Đàng Ngoài và Đàng Trong theo Alexandre de Rhodes 1651
Đầu năm 1625, Alexandre cùng với bốn cha dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản, cập bến Hội An, gần Đà Nẵng. Ông bắt đầu học tiếng Việt từ các nhà truyền giáo tới trước đó và từ một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Ông viết:
Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ châu Âu, thế mà, cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học đọc, học viết tiếng Latin và đã có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé. Sau đó, cậu trở thành thầy giảng giúp việc các cha truyền giáo và là một dụng cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam thân yêu của thầy và nơi Vương quốc Lào láng giềng.
Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của Alexandre de Rhodes, nhưng cuộc đời truyền giáo của ông ở đây rất bấp bênh và trôi nổi. Trong vòng 20 năm, ông bị trục xuất đến sáu lần. Nhưng sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép.
Ông đến truyền giáo ở Đàng Trong vào năm 1625 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên và ở Đàng Ngoài vào năm 1626 dưới thời chúa Trịnh Tráng. Thời gian Alexandre de Rhodes giảng đạo tại Việt Nam cũng là thời kỳ các cha thừa sai dòng Tên hoạt động rất hăng say và hữu hiệu. Riêng Alexandre de Rhodes, ông đã truyền đạo từ Nam ra Bắc.
Ông kể lại công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài:
Khi chúng tôi vừa đến kinh đô Đàng Ngoài, tức khắc nhà vua truyền lệnh cho tôi phải xây một nhà ở và một nhà thờ thật đẹp. Dân chúng tuôn đến nghe tôi giảng đạo đông đến nỗi, tôi phải giảng đến 4 hoặc 6 lần trong một ngày. Chị vua và 17 người thân trong gia đình vua xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Nhiều tướng lãnhbinh sĩ cũng xin theo đạo. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thấy các vị đã mau mắn từ bỏ bụt thần để theo đạo Công giáo. Tất cả đều dễ dàng chấp nhận khi tôi giải thích cho họ hiểu giáo lý đạo Công giáo rất phù hợp với lý trílương tâm con người. Các tín hữu Công giáo Việt Nam có Đức Tin vững chắc đến độ, không gì có thể rút Đức Tin ra khỏi lòng họ. Nhiều người phải đi bộ suốt 15 ngày đường để được xưng tội hoặc tham dự thánh lễ. Nhưng phải thành thật mà nói, tôi không thể chu toàn cách tốt đẹp mọi công tác truyền đạo này, nếu không có trợ giúp tuyệt vời của các thầy giảng. Vì nhận thấy mình là linh mục duy nhất giữa một cánh đồng truyền đạo bao la, nên tôi chọn trong số các tín hữu, những thanh niên không lập gia đình và có lòng đạo đức sâu xa cũng như có nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng, để giúp tôi. Những người này công khai thề hứa sẽ dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa, phục vụ Giáo hội, sẽ không lập gia đình và sẽ vâng lời các cha thừa sai đến Việt Nam truyền đạo. Hiện tại có tất cả 100 thầy giảng đang được thụ huấn trong chủng viện và được các tín hữu trang trải mọi phí tổn.[cần dẫn nguồn]
Có tác giả (Bùi Kha) cho rằng ông có vận động Pháp đánh chiếm Việt Nam[6] dựa vào một đoạn trích:
Tôi tưởng nước Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn cõi Đông phương đưa về quy phục Chúa Ki Tô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời Roma ngày 11/9/1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo hoàng.
Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Hoa, ở Đàng Trong, ở Đàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanxicô Xavie tới 300 quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm ở những nơi cùng kiệt cõi đất.
Có quan điểm cho rằng cách dùng từ ngữ trong đoạn văn trên là ẩn dụ của việc truyền giáo, việc cố tình diễn giải thành ý đồ xâm lược là một suy luận "chủ quan võ đoán",[7] thể hiện lập trường "hận thù tôn giáo".[8] Tuy nhiên, có phân tích ngôn ngữ học rằng: từ "soldat" mà de Rhodes dùng trong thư có nghĩa là "binh sĩ" trong tiếng Pháp, tuyệt đối không có nghĩa là “chiến sĩ truyền giáo”. Chỉ khi ghi rõ “soldat de lÉvangile” thì đó mới là “chiến sĩ truyền giáo”. Như vậy nghĩa là de Rhodes thực sự có ý định xin nước Pháp dùng quân đội tấn công Việt Nam[9]

Bị trục xuất khỏi Việt Nam

Alexandre de Rhodes từng gọi Phật Thích Ca“thằng hay dối” trong sách Phép giảng tám ngày.[10] Trong cuốn “Phép Giảng Tám Ngày”, de Rhodes đã gọi Khổng Tử“người chẳng phải hiền, chẳng phải thánh, thật là độc dữ”. Cũng trong sách này, ông đã viết nhiều điều sai về Đức Phật, ví dụ: Tất Đạt Đa (tên trước khi xuất gia của Phật) “đẻ được một con gái đoạn thì đi ở trên rừng một mình, dẫu vợ cãi mà chẳng cho, vì mình đã quen làm việc dối như pháp môn phù thủy"... Cuốn sách luôn nói đến sự “thờ bụt thần ma quỷ”, có ý hạ Đức Phật xuống hàng ma quỷ. Sách cũng gọi Alala và Ưu-đà-la (2 vị đạo sĩ đã dạy Tất Đạt Đa môn thiền định) là "2 con quỷ", và "nó (Tất Đạt Đa) thì ngồi giữa hai thầy quỷ ấy, mà dạy nó chớ tin có Chúa Trời". Nhận thức của Đắc Lộ phản ánh thái độ chung của các giáo sĩ Phương Tây thời đó đối với Nho giáo và Phật giáo, bắt nguồn từ nhiệt tình truyền giáo nên họ có xu hướng coi khinh các tôn giáo bản xứ, họ coi việc đả kích các tôn giáo này là cách để thuyết phục dân bản xứ cải sang đạo Thiên Chúa.[8]
Năm 1645, do bị phát hiện việc đả kích Nho - Phật tại các bài giảng, ông bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Khi trở lại châu Âu, Alexandre de Rhodes vận dụng mọi khả năng hiểu biết về công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu, đã xin Tòa Thánh gửi các Giám mục truyền giáo đến Á Châu, để các ngài có thể truyền chức linh mục cho các thầy giảng bản xứ.
Ông mất ngày 5 tháng 11 năm 1660Isfahan, Ba Tư, 15 năm sau lần cuối cùng bị trục xuất khỏi Việt Nam.

Đóng góp vào chữ Quốc ngữ

Trang đầu sách Phép giảng tám ngày song ngữ bằng tiếng Latinh (bên trái) và tiếng Việt với chữ Quốc ngữ (bên phải)
Vào năm 1651, ông cho in cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào NhaÝ trước đó. Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Ngoài ra một tác phẩm khác cùng tầm quan trọng do giáo sĩ Đắc Lộ soạn là cuốn Phép giảng tám ngày (tựa Latinh: Catechismus). Khác với phần tự điển ghi từ vựng, Phép giảng tám ngày là tác phẩm văn xuôi, phản ảnh văn ngữ và ghi lại cách phát âm của tiếng Việt vào thế kỷ 17.
Năm 1961, nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày qua đời của Alexandre de Rhodes, nguyệt san MISSI, do các cha Dòng Tên người Pháp điều khiển, đã dành trọn số tháng 5 để tưởng niệm và ca tụng Cha Đắc Lộ, một nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ nói chung và của Giáo hội Công giáo Việt Nam nói riêng. Nguyệt san MISSI nói về công trình khai sinh chữ Quốc ngữ với tựa đề: "Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ".
Tiếp đến, tờ MISSI viết:[cần dẫn nguồn]
Khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách cho ra đời tại Roma nơi nhà in Vatican, quyển tự điển đầu tiên và các sách đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ, cha Đắc Lộ đã giải phóng nước Việt Nam.
Thật vậy, giống như Nhật Bản và Triều Tiên, người Việt Nam luôn luôn sử dụng chữ viết của người Tàu và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều Tiên mới chế biến ra một chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm, đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người Tàu.
Trong khi đó, người Tàu của Mao Trạch Đông đang tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Đắc Lộ, đã tiến bộ trước người Tàu đến 3 thế kỷ.
Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Đắc Lộ khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai dòng Tên người Bồ Đào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La Tinh rồi. Tuy nhiên, cha Đắc Lộ là người đưa công trình chế biến chữ Quốc ngữ đến chỗ kết thúc vĩnh viễn và thành công, ngay từ năm 1651, là năm mà cuốn tự điển Việt-Bồ-La ra đời. Đây cũng là năm sinh chính thức của chữ Quốc ngữ. Và cuộc khai sinh diễn ra tại Roma, nơi nhà in Vatican. Chính nơi nhà in Vatican mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình.
Đã từ lâu đời, người Việt Nam viết bằng chữ Tàu, hoặc bằng chữ Nôm, do họ sáng chế ra. Nhưng đa số người Việt Nam không thể đọc và viết được chữ Tàu, vì theo lời cha Đắc Lộ, Tàu có đến 80 ngàn chữ viết khác nhau. Các nhà truyền giáo đầu tiên khi đến Việt Nam, đã bắt đầu dùng mẫu tự La Tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Khi cha Đắc Lộ đến Việt Nam, đã có một số phát âm tiếng Việt được viết bằng chữ La Tinh rồi. Vì thế, có thể nói rằng, công trình sáng tạo ra chữ Quốc ngữ trước tiên là một công trình chung của các nhà thừa sai tại Việt Nam. Nhưng khi chính thức in ra công trình khảo cứu chữ viết tiếng Việt của mình, là cùng lúc, Alexandre de Rhodes đã khai sinh ra chữ viết này, ban đầu được các nhà truyền giáo sử dụng, sau đó, được toàn thể dân Việt Nam dùng và biến nó thành chữ quốc ngữ. Tất cả các nước thuộc miền Viễn Đông từ đó ước ao được có chữ viết cho quốc gia mình y như chữ Quốc ngữ này vậy.
Bản thân Alexandre de Rhodes đã viết như sau:
Khi tôi vừa đến Đàng Trong và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế. Thêm vào đó, tôi thấy hai cha Emmanuel FernandezBuzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. Kết quả các bài giảng bằng tiếng Việt lợi ích nhiều hơn các bài giảng phải có người thông dịch lại.
Nguyệt san MISSI đã ca ngợi vai trò của Alexandre de Rhodes hơi quá, vì chính họ cũng viết rõ là trước de Rhodes đã có một số nhà truyền giáo ghi lại tiếng Việt bằng chữ cái La tinh, nhưng tiếp theo đó lại tôn vinh de Rhodes là người khai sinh ra chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, de Rhodes rõ ràng đã có công lớn trong việc hệ thống hóa việc ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái La tinh một cách đầy đủ. Nhờ cuốn từ điển Việt-Bồ-La của ông, chữ Quốc ngữ mới bắt đầu phổ biến trong cộng đồng Ki-tô giáo Việt Nam, đặt nền móng cho việc sử dụng rộng rãi sau này.

Tác phẩm

Ngoài cuốn Tự Điển Việt-Bồ-La Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum đã được Kho Tàng trữ của Thư viện Quốc gia Bồ Đào Nha scan và đưa lên mạng Internet (xem tại đây), còn có nguyên bộ các tác phẩm khác trong ấn bản đầu tiên ở thập niên 1650 mà Giáo sĩ Đắc-Lộ viết bằng tiếng Latintiếng Pháp có thể tìm thấy tại Thư viện Maurits Sabbe của Đại học Công giáo tại Louvain (Université catholique de Louvain) tại Bỉ. Ngoài ra, có thêm một số ấn bản hoặc tái ấn bản cũng được tìm ra trong cơ sở dữ liệu PORBASE của Liên hiệp các thư viện ở Bồ Đào Nha.

Tưởng niệm

Tem tưởng niệm Alexandre de Rhodes của Việt Nam Cộng hòa
Năm 1941, Hội Trí Tri cùng với Hội Truyền bá Quốc ngữ đã quyên góp để dựng một tấm bia kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 350 của giáo sĩ Đắc Lộ ở gần bên bờ hồ Gươm trước cửa Đền Bà Kiệu. Bia này đến năm 1957 thì bị gỡ bỏ và mất tích đến năm 1995 thì mới tìm lại được.[11]
 
Hai năm sau, năm 1943 chính quyền thuộc địa Đông Dương phát hành con tem 30 xu để tôn vinh những đóng góp của ông trong quá trình phát triển chữ Quốc ngữ. Thời kỳ Việt Nam Cộng hòa cũng phát hành một bộ bốn con tem kỷ niệm 300 năm ngày mất của ông, nhưng ra trễ 1 năm (phát hành ngày 5 tháng 11 năm 1961). Tên ông được đặt cho một trường trung học và một con đường ở Sài Gòn gần Dinh Độc Lập.
Ngày 5 tháng 11 năm 2018, đúng 358 năm sau ngày mất của Alexandre de Rhodes, Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Tiến sĩ Khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu cùng 17 người Việt Nam là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, doanh nhân, và những người quan tâm đến việc bảo tồn Chữ Quốc ngữ, đã khánh thành 3 tấm bia tri ân đặt quanh mộ ông tại nghĩa trang Armenia, thành phố Isfahan, Iran. Buổi lễ còn có sự tham dự của ông Mazaheri (đại diện cộng đồng Hồi giáo tại Isfahan – cộng đồng chủ quản), Ông Gestabian (đại diện cộng đồng cơ đốc giáo Armenian tại Isfahan), Bà Gukasian (trưởng phòng quan hệ dân chúng nhà thờ VANK). Trên bia đá có ghi dòng chữ tri ân bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Ba Tư (Iran)[12]

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Wörterbücher: Ein Internationales Handbuch Zur Lexikographie by Franz Josef Hausmann, p.2583 [1]
  2. ^ Researches Into the Physical History of Mankind By James Cowles p.501 [2]
  3. ^ Huỳnh Văn Mỹ - Bảo Trung (20 tháng 4 năm 2014). “Ai có công đầu với chữ quốc ngữ?”. Tuổi Trẻ.
  4. ^ Jacques, Roland (2002). Portuguese Pioneers of Vietnamese Linguistics Prior to 1650 – Pionniers Portugais de la Linguistique Vietnamienne Jusqu’en 1650 (bằng tiếng Anh & tiếng Pháp). Bangkok, Thái Lan: Orchid Press. ISBN 974-8304-77-9.
  5. ^ http://www.academia.edu/25566838/The_First_French_in_Macao._The_Jesuit_Alexandre_de_Rhodes
  6. ^ Nguyễn Trường Tộ và vấn đề canh tân - Bùi Kha - Nhà xuất bản Văn hóa Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2011, trang 59, 60 và 61.
  7. ^ Chương Thâu (1995). “Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các dẫn dụng khác nhau”.
  8. ^ a ă Mặc Giao. “Alexandre De Rhodes và việc hội nhập văn hoá Việt Nam”. Văn hóa Nghệ An.
  9. ^ Không là lính thì là gì?
  10. ^ https://petrotimes.vn/tran-trong-kim-va-viet-nam-su-luoc-67618.html
  11. ^ Bia đền Bà Kiệu
  12. ^ “Khánh thành bia tri ân Alexandre de Rhodes tại Isfahan (Iran)”. Truy cập 11 tháng 11 năm 2018.

Tham khảo

  • Schatz, Klaus. Hoa Trái ở Phương Đông. Alexandre de Rhodes (1593-1660) và công cuộc truyền giáo thời kỳ đầu của Dòng Tên tại Việt Nam. Phương Đông 2017.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét