22 tháng 11, 2017

Nhìn lại sự thật lịch sử 50 năm qua Anh Em Diệm, Nhu Thỏa Hiệp Với CSBV - Đỗ Trọng

  
              LTS : Để được đầy đủ trọn vẹn đề tài này, tác giả trích dẫn tài liệu thêm, kính mời quý độc giả đọc dưới  đây :
  
           ... với kế hoạch toàn bộ sách lược thỏa hiệp với CSBV của anh em Diệm Nhu có thể tóm tắt trong bốn kế hoạch như sau :
1.- Công khai và cụ thể chống Mỹ, nhưng chỉ chống đến một mức độ còn kiểm soát được, để vừa thỏa mãn điều kiện tiên quyết của Hà Nội vừa lại có thể sử dụng được lực lượng của Mỹ như một áp lực với Hà Nội, hoặc nếu cần, có thể quay trở lại tình trạng đồng minh như cũ.
2.- Vận động để một số quốc gia, đặc biệt là Pháp, đóng vai trò trung gian và bảo đảm sự thực thi của thỏa hiệp thành hình.
3.- Chuẩn bị và tiến hành những biện pháp an ninh và chinh trị để kiểm soát các lực lượng quốc gia và quần chúng miền Nam trong trường hợp nổi dậy chống đối thỏa hiệp này.
4.- Trực tiếp đối thoại với chính quyền Hà Nội để thương thảo về vấn đề chấm dứt chiến tranh và thống nhất đất nước. (Hồi Ký VNMLQHT của Tướng Đỗ Mậu trang 566).
              Bởi những kế hoạch ở trên, nên Nhu đích thân điều động và kiểm soát cũng như âm mưu bắt tay với Hà Nội, không chỉ nhờ Đại Sứ Maneili làm liên lạc giữa Hà Nội và Sàigòn, mà chính Ngô Đình Nhu đã đích thân đi gặp Phạm Hùng, như tướng Trần Văn Đôn đã tiết lộ trong tác phẩm Việt Nam Nhân Chứng từ trang 183 đến 184 như  sau đây :
"Đầu tháng 2 năm 1963, Trung Tá Bường, lúc ấy đang làm Tỉnh Trưởng Bình Tuy, dùng xe dodge 4 x 4, chở Ông Ngô Đình Nhu và Ông C đi săn. Trời đã trơ lạnh và có mưa, mà ông Cố Vấn đi săn! Nhưng, có ai biết được, đó chỉ là lối ngụy trang. Sư thật các ông ấy không đi săn, mà đi thẳng tới một căn nhà lá trong rừng thuộc địa hạt quận Tánh Linh thuộc tỉnh Bình Tuy...
Trung Tá Bường lái xe đưa ông Ngô Đình Nhu đến chỗ hẹn. Đến nơi, Trung Tá Bường và ông C chờ ngoài xe, lo an ninh. Chỉ có ông Nhu vô. Hai người ngồi ngoài lắng tai nghe những lời đối thoại ở bên trong lúc nhỏ lúc to. Người đang nói chuyện với ông Nhu là Phạm Hùng, có hai người nữa ngồi bên cạnh... Ông Nhu hứa với Phạm Hùng khi nối xong đường xe lửa thì Bà Nhu và Ngô Đình Lệ Thủy sẽ đi chuyến xe thống nhưt đầu tiên ra Hà Nội...
Trong câu chuyện Phạm Hùng cũng trách sao giao những căn cứ quân sự  cho Mỹ sử dụng. Ông Nhu nói
 Mỹ là đồng minh của miền Nam, Mỷ đến miền Nam và dỉ nhiên sử dụng những nơi đó chứ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không có  giao nhượng cho Mỷ..." Tiết lộ của tướng Đôn trên đây, nhắc tôi nhớ lại đần năm Quý Mão (tháng 2-1963), nhân buổi tiếp tân đầu Xuân tại dinh Gia Long, Tổng Thống Diệm chỉ một cành đào được chưng bày trong đại sảnh rồi nói với quan khách rằng : Đó là cành đào do đồng bào Bắc Việt gởi tặng. Mọi người im lặng nhưng đều có vẻ suy tư...(Hồi KýVNMLQHT trang 598).
Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Ba viết về "Cành Đào" như sau : 
Tết Quý Mão, 1963, cái Tết cuối cùng của nên Đệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đón xuân ở Dinh Gia Long (Phủ Thủ Tướng), vì Dinh Độc Lập (Phủ Tổng Thống) đang được sửa chữa do bị hai phi công Quốc và Cử ném hai trái bom ngay sau Tết Nhâm Dần, 1962.Như thường lệ, Sở Nội Dịch Phủ Tổng Thống lo trang hoàng phòng khánh tiết với một cành mai.Bổng ngày 28 Tết, Nha Nghi Lễ Phủ Tổng Thống được thông báo từ phòng Liên Lạc Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến (UHQTKSĐC) rằng ông Ram C.Goburdhun,  Đại Sứ Ấn Độ, chủ tịch UHQTKSĐC tại Việt  Nam có nhờ chuyển đến Phủ Tổng Thống  một   cành đào lớn để Tổng Thống Ngô Đình Diệm thưởng ngoạn trong dịp Xuân về. Cành đào được chuyển từ UHQT KSĐC trên đường Lý Thái Tổ về Dinh Gia Long bằng một xe vận tải mui trần với bốn quân nhân đỡ bốn góc và một người khác giữ gốc.Cành đào lớn thiệt, vô không lọt cửa sau Dinh Gia Long nên phải dùng cửa trước.
Nhiều người hiếu kỳ muốn xem cành đào đẹp cỡ nào, nhưng không ai dám mạo phạm mở lớp giấy dầu, giấy nylon. Một tùy viên của Tổng Thống Diệm mang lá thư của Đại Sứ Ấn Độ, chủ tịch UHQTKSĐC lên trình Tổng Thống Diệm.
Sau khi xem thư, Tổng Thống Diệm xuống lầu, ra lịnh gỡ giấy. Cành đào tuyệt đẹp  hiện ra với tấm băng lụa màu hồng có những dòng chữ mang nét viết thật mỹ thuật.
Mọi người tái mặt khi đọc nhưng dòng chữ này, chỉ riêng Tổntg Thống Diệm là sắc mặt không đổi, có lẽ đã biết lai lịch cành đào từ lá thơ của ông Đại Sứ Ấn Độ.
 Với giọng Huế thường nhật, Tổng Thống Diệm bảo ông Giám Đốc Sở Nội Dịch : "mần răng kiếm cái thống lớn, đặt vô trông mơí đẹp..." Sau khi Tổng Thống Diệm trở lên lầu, mọi người bu lại xem cho kỹ những dòng chữ trên tấm lụa hồng : "Chủ Tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Kính Tặng Tổng Thống Ngô Đình Diệm". Ngày nay người Việt hải ngoại, qua những hồi kỳ đã ấn hành, ai cũng biết ông Diệm tuy là Tổng Thống một nước Cộng Hòa, nhưng hành xử rất phong kiến, không kém vua chúa thời xưa. Nào là xem thuộc cấp sỗ sàng như quan sát một quái vật, nào là tiếp kiến Tổng Thống xong phải đi lui, không được quay lưng lại... Một trong những cái phong kiến ấy là thủ tục "Chúc Thọ" ông ngày Tết.Mùng một Tết năm ấy, lúc 10 giờ sáng, trên con đường Ngô Đình Khôi (tên anh ruột Tổng Thống Diệm, một vị Tổng Đốc, đường này trươc đó mang tên De Gaulle), hàng trăm xe du lịch nối đuôi nhau, trên kiếng xe có tên và chức vụ của từng người.
Nha Nghi Lễ Phủ Tổng Thống dùng máy phóng thanh mời những Bộ Trưởng, Tướng Lãnh...nhập Dinh Gia Long. Bộ Trưởng thì khăn đóng áo dài. Tướng Lãnh thì đồ đạt lễ trắng, ngực đeo huy chương.
Bước vô phòng khánh tiết Dinh Gia Long ai cũng ngạc nhiên, trầm trồ  cành  đào tuyệt  đẹp. Tấm  băng lụa màu hồng có những chữ đề tặng đã không cánh mà bay.
Nhân lúc Tổng Thống chưa xuống lầu, mọi người xì xào bàn tán, đoán già đón non rằng cành đào đó không thể xuất phát từ miệt cao nguyên Lâm Viên. Ông Giám Đốc Nha Nghi Lễ được hỏi, câu trả lời lập tức truyền ra, chẳng mấy chốc mọi người đều biết cành đào do ông Đại Sứ Ấn Độ, chủ tịch UHQTKSĐC đem từ miền Bắc về. Chẳng ai  thắc mắc, vì  phi  cơ  của  UHQTKSĐC thường xuyên ra vô liên lạc giữa hai miền Nam Bắc, mỗi tuần hai lần, nên chuyện ông Đại Sứ Ấn Độ mua cành đào ở một nơi nào đó trên đất Bắc mang vào Nam cũng đơn giản như ta mua hoa ở chợ Nguyện Huệ Sàigòn mà thôi.Người ta tiếp tục bàn tán, ông Đại Sứ Ấn Độ thật là một nhà ngoại giao lỗi lạc, một người tế nhị, đã chịu khó tìm hiểu phong tục tập quán của người Việt Nam, có lẽ ông ấy cũng đã mua một cành mai thiệt lớn ở miền Nam, mang ra Bắc tặng Hồ Chi Minh.
Nhân viên phục vụ Tổng Thống Phủ đã thấy tấm băng lụa màu hồng, giờ tấm băng lụa biến mất, họ không dám hở môi, cũng không dám hỏi nhau và dĩ nhiên không dám hỏi cụ Tổng Thống.Tổng Thống Diệm bước xuống lầu  trong  tiếng chúc tụng hoan hô. Cầm ly Champagne trên tay, Tổng Thống đi lại, chuyện trò tự nhiên với các Bộ Trưởng, Tướng Lãnh và không đề cập gì đến lai lịch cành đào. Hôm ấy, cụ vui vẻ ra mặt. Ngoài những lời chúc thọ kinh cẩn, các Bộ Trưởng, Tướng Lãnh...dĩ nhiên còn khen cành đào :
- Cành đào đẹp là dấu hiệu của một tương lai thạnh trị, thanh bình.
- Chế độ Cộng Hòa sẽ mãi mãi tươi sáng, ngai rồng sẽ đời đời bên vững.
- Dạ, cành đào có nhiều nhánh, trông như cái "lọng", cái "tán", chứng tỏ vận nước "vượng" lắm, thưa Tổng Thống.
- Dạ, cành đào trổ thiệt nhiều hoa, Tổng Thống sẽ sống lâu trăm tuổi.
- Trình cụ, từ thuở nhỏ, con chưa hề thấy một cành đào nào đẹp như vậy.
- Bẩm cụ, cả đời con, con mới thấy cành đào đẹp như thế này là lần thứ nhất, ôi chu choa, đẹp sao là đẹp...
Cách mạng 1 tháng 11 năm 1963 bùng nổ, nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ, ông Diệm và ông Nhu bị thảm sát, chuyện "cành đào chính trị" mới được "xì" ra cùng với những lời bình luận, những nghi vấn :
- Băng  lụa  màu  hồng, với  lời  đề tặng của Hồ Chí Minh đã bị ông Diệm hoặc người nhà gỡ đi vì họ Hồ đã "chơi chữ". "Chủ tịch Nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa kính tặng Tổng thống Ngô Đình Diệm", "nước Việt Nam Cộng Hòa" đã không được họ Hồ đề cập đến. Chánh quyền Đệ Nhị Cộng Hòa đưa ra những hình ảnh, trong đó hai vợ chồng cố vấn Ngô Đình Nhu đã nhiều lần khoản đãi phái đoàn UHQTKSĐC tại khu vực nghỉ mát nằm trên quốc lộ 1, gần Tháp Chàm, trên đoạn đường Phan Rang - Nha Trang.
Trong những buổi họp mặt, ngoài vợ chồng ông bà Nhu, có  ông  Đại Sứ  Ấn  Độ, chủ  tịch  UHQTKS ĐC, đại diện cho chánh quyền Ấn Độ thân cộng và ông Mieczylau Maneli, Đại Sứ nước cộng Sản Ba Lan, tuyệt nhiên không có Đại Sứ Canada ....
 (Để tưởng nhớ đến tác giả quyển "Khổ Qua Đắng Khổ Qua Đèo", tôi đã trích đoạn vừa qua. Đó là, nhà giáo Thái Minh Kiệt tức nhà văn Nguyễn Văn Ba, đồng nghiệp thân quý tôi, anh sanh năm 1947 tại Sa Đéc. Trước 1975 nhân  viên  giảng  huấn tại Viện Đại Học Cần Thơ, sau 1975, anh làm chuyên  viên Canh  Nông  tại  Đại Học Saskatchewan, Canada, nơi gia đình anh tạm định cư. Ngoài ra, anh đã viết những tác phẩm giá trị như sau : Làm Mai, Lãnh nợ, Gát cu, Cầm chầu - Phận Đàn Bà (viết chung với Nguyễn Thị Bạch Mai tức phu nhân của anh) - Thành Đô Gió Bụi - Cây Trái Quê Mình - Tự Truyện - Khổ Qua Đắng Khổ Qua Đèo - Từ Miền Đất Lạnh... anh còn góp phần những bài viết trên các sách báo khác ở hải ngoại, cũng như tham gia vào Hội Văn Bút Hải Ngoại.
Nhưng anh lại đột ngột ra đi vào lúc 1 gìờ sáng ngày 14 tháng 8 năm 1998, nhằm ngày 23 tháng 7 âm lịch năm Mậu Dần tại Canada sau cơn bạo bịnh, hưởng dương 51 tuổi. Anh mất đi mọi người thương tiếc, các văn hữu mất một người bạn quý, các độc giả mất một cây viết về quê hương dân tộc. Riêng gia đình anh mất con, chồng và cha thương mến).
 Mặt khác, Cụ Cao Xuân Vỹ, năm 2002 cụ đả 82 tuổi hiện ở thị xã Huntington Beach, Nam California Hoa  Kỳ, đã  từng  Tổng Ủy Viên Thanh  Niên   Cộng Hòa,Tổng Giám Đốc Thanh Niên của Chánh Phủ rất thân cận với chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa và là người đưa Tổng Thống Diệm và Ông Cố Vấn Nhu rời khỏi Dinh Độc Lập khi đảo chánh 1-11-1963 để sau cùng đến nhà thờ Cha Tam. Cụ Cao Xuân Vỹ cũng  xác nhận  về"Cành   Đào"  do  Đại  Sứ  Ấn  Độ,  chủ Cụ Cao Xuân Vỹ   tịch  UHQTKS ĐC mang  cành   đào  của Hồ Chí Minh vào miền Nam trao tặng Tổng Thống  
Ngô Đình Diệm.
Ngoài ra, Cụ Cao Xuân Vỹ còn cho biết năm 1962 (chớ không phải năm 1963 như đã trích dẫn ở trước), Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã có gặp tay đôi với Phạm Hùng, Bí Thư Trung Ương Cục R của Cộng Sản ở miền Nam tại khu rừng ở Tánh Linh, mà đã Cụ đả có đi tháp tùng.
Riêng về Giáo Sư Tôn Thất Thiện  hiện đang sống tại Canada, theo lời Cụ Cao Xuân Vỹ nói :"Khoảng giữa tháng 10 năm 1963, giáo sư Tôn Thất Thiện với tư cách Tham Vụ Báo Chí Phủ Tổng Thống, ông làm thông dịch cho ông Nhu trong một cuộc tiếp xúc với sau nhà báo ngoại quốc. Một nhà  báo Úc  hỏi ông Nhuvề nguồn tin rằng Việt Nam Cộng Hòa đang có những cuộc thương thảo riêng với Hà Nội. Theo lời thuật lại của giáo sư Thiện, ông Nhu giơ tay chỉ chiếc ghế mà nhà báo Úc đang ngồi và nói rằng : Tướng Trần Độ của Hà Nội đã vào Dinh Độc Lập gặp ông và ông Độ ngồi trên cái ghế đó... (nếu quý độc giả cần tìm hiểu thêm, xin tìm đọc "Giai Phẩm Xuân Nhâm Ngọ 2002" của tạp chí Việt Tide, phát hành tại Nam California Hoa Kỳ, từ trang 77 đến 79 do Nguyễn Xuân Nghĩa ghi).Như ở trang trước, các quan khách có nói đến ý nghĩa cành đào to lớn lại xum xuê, khoe sắc tốt tươi  tuyết đẹp đầu năm đặt trong dinh Tổng Thống Ngô Đình Diệm : "Chế độ Cộng Hòa sẽ mãi mãi tươi sáng, ngai rồng sẽ đời đời bên vững.", tôi nhớ lại trong quyển Đệ Nhất Phu Nhân tập 1 của Hoàng Trọng Miên, nơi Chương XI I : Triều Đại Nhà Ngô, xin trích đoạn tại đầu trang  505 như sau :
"Trưa hôm Ba Cụt rơi đầu trên máy chém, tại dinh Độc Lập, một bữa tiệc lớn tụ họp anh em họ Ngô nhân dịp lễ thánh bổn mạng đứa con trai đầu của vợ chồng Lệ (tức Ngô Đình Nhu & Trần Lệ Xuân).Diệm gọi cháu trai đến bên mình võ vai nói : "Cháu lớn lên rồi bác nhường ngôi Tổng Thống lại cho"Lệ cười nói : Anh làm như  ghế Tổng  Thống là ngôi hoàng đế "truyền tử lưu tôn" không bằng.Chớ thím nghĩ không phải sao? Tôi ngồi chức Tổng Thống hai nhiệm kỳ cũng mười năm, rồi nhường lại cho chú, thêm mười năm nữa, thì vừa cháu lớn lên, đủ tuổi tiếp tục ba cháu để trị vì, nối dõi cho họ Ngô. Còn ai vô đó nữa? Với tâm trạng tự cho mình có sứ mạng thiêng liêng, như một vị thiên tử từ xưa, Ngô Đình Diệm xem địa vị Tổng Thống không khác nào ngôi vua danh riêng cho gia đình họ Ngô, với tất cả những quyền tối thượng..."
Trở lại, việc Cố Vấn Ngô Đình Nhu thỏa hiệp với CSBV đã đề cập ở trước, nay xin mời quý độc giả đọc tiếp từ trang 18 đến trang 22 trong tác phẩm Một Kiếp Người của Tướng Huỳnh Văn Cao (Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao đã từng Tư Lệnh Quân Đoàn 4 /Vùng 4 Chiến Thuật, là người rất thận cận với anh em Ngô Đình Diệm, hiện nay ở Hoa Thanh Đốn, U.S.A),  ấn hành năm 1963 tại Hoa Kỳ. Xin trích có liên quan đến : Trận Ấp Bắc như sau :
18                                 Huỳnh Văn Cao
...
 Một ngày trước khi hành quân ấp Bắc băt đầu, Tham  mưu  trưởng  Quân  
đoàn  và  cố  vấn Trưởng Quân đoàn đem lệnh hành quân của Sư doàn 7 có bản đồ và phóng ảnh đính kèm, trình cho tôi xem. Nhận thấy kế hoạch hành quân của Sư đoàn hoàn toàn khác hẳn với kế hoạch do tôi khuyến nghị, không thích ứng với địa hình địa vật, khônng dồn nỗ lực chính vào mục tiêu, cho nên tôi đã nói trước mặt cố vấn trưởng và tham mưu trưởng Quân đoàn  :"Ngày mai Sư đoàn 7 sẽ thất bại".
Sáng ngày hành quân ấp Bắc, được tin Sư đoàn 7 bị tổn thất ngay khi vừa mới lâm trận, đụng độ với địch, bị rơi một trực thăng, cháy một M113, tôi bay đến Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Đoàn 7, hội thảo với Tư Lệnh Sư Đoàn 7. Muốn chuyển bại thành thắng, tôi "khuyến nghị" một thế đánh mới : xin Bộ Tổng Thaml Mưu tăng phái ngay một đaị đội Nhảy Dù, nhảy vào 1 giờ trưa, DZ là một thửa ruộng nơi cánh quân thiết vận xa M113 đang chiếm giữ, mục đích  (a) tăng cường lực lượng cho M113 xung phong chiếm mục tiêu ấp Bắc, (b) quân Dù nhẩy xuống giữa mặt trận sẽ kích thích tinh thần chiến đấu của quân ta, (c) đồng thời làm nao núng tinh thần của quân địch. Nguyên tắc hành quân là phải kịp thời tiến chiếm mục tiêu nội trong ngày, giải quyết chiến trường trước khi trời tối.Nhân dịp  tôi phải về Sàigòn  có  công việc, tôi nhận giúp Tư Lệnh Sư Đoàn 7 trình với Bộ Tổng Tham Mưu, xin tăng cường  hành  quân  cấp  kỳ. Đến  Bộ  Tổng Tham Mưu, tôi đã gặp Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Tham Mưu  Trưởng Liên Quân, có Trung Tướng Charles Timmes hiện diện. Tham Mưu Trưởng Liên Quân và tôi đi sang phòng bên cạnh, để tôi tiện trình bày chi  tiết mọi thỉnh cầu của Sư Đoàn 7. Xong nhiệm vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đi vào Dinh Độc Lập yết kiến Tổng Thống, có Đại Biểu Chính Phủ Miền Tây và Tư Lệnh Sư Đoàn 21 chờ tôi tại Dinh Tổng Thống. Tại chiến trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 và tôi nhận thấy DZ chỉ vừa cho một đại đội nhảy xuống, thời gian gấp rút, chỉ cần một đại đội  lên máy bay nhảy xuống mật trận kịp 1 giờ trưa, như vậy mới có thì giờ tập trung quân Dù sau khi nhảy xuống, rồi phối hợp  với M113 để tấn công vào mục tiêu trươc tối. Thế nhưng, sau khi tôi rời Bộ Tổng Tham Mưu thì kế hoạch laị hoàn toàn đổi mới. Bộ Tổng Tham Mưu cho một lực lượng nhảy Dù gồm 2 đại đội, có một bộ phận  chỉ huy, sắp xếp như vậy thì ĐÚNG sách vở, mà KHÔNG ĐÚNG với thực tế chiến trường. Chờ cho máy bay chuẩn bị đầy đủ để chở một lực lượng Nhảy Dù thì gần hết ngày, thả quân Dù xuống mặt trận thì trời sắp tối, và khi máy bay thả Dù xong thì trời tối om. Có số nhảy xuống đúng DZ, nhưng chỉ để nằm tại chỗ qua đêm, có số mắc tòn ten trên cây trong
Một kiếp người                                19 
 làng, có số nhảy xuống giữa vị trí địch. Hành quân như thế, tất nhiên không tránh khỏi thất bại, và cũng không thể quy trách nhiệm cho Tư Lệnh Sư Đoàn 7, chỉ huy cuộc hành quân ấp Bắc.Tại đồng bằng sông Cửu Long, quy luật hành quân phải là thanh toán mục tiêu ban ngày, giải quyết chiến trường trước khi trời tối. Nếu không xong, thì Việt cộng không bao giờ ngồi qua đêm tại chỗ, để chờ quân ta tấn công vào ngày kế tiếp. Sự thật về mọi diễn tiến trong Trận Ấp Bắc là như vậy...
Để tìm hiểu chi tiết của Trận Ấp Bắc như thế nào? xin quý độc giả tìm đọc tạp chí Đông Phương, phát hành miền Đông Hoa Kỳ tháng 8 năm 2001, từ trang 36 đến trang 40 do Cựu Tướng Lý Tòng Bá, người chỉ huy Sư Đoàn 7 của trận Ấp Bắc.Hành quân bắt được LÊ DUẨN nhưng cuối cùng được cố vấn Ngô Đình Nhu thả ra sao?
 Mùa Thu 63, tin tình báo Mỹ tại Sàigòn, ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương đều biết rằng Cộng Sản Hà Nội sẽ gởi một lãnh tụ cao cấp vào miền Nam hội họp với Xứ Uỷ Nam Bộ, để chuẩn bị cho một chính sách mới, giải pháp mới. Ước tính tình hình và thời điểm,MACV ra                         
20                               Huỳnh Văn Cao
lệnh cho tất cả các đại đội trực thăng Mỹ khăp trên lãnh thổ VNCH đều nghỉ bay để bảo trì đến mức hoàn hảo nhưt, để có thể sử dụng được eố tối đa trực thăng hiện có. Mục đích la thực hiện một cuộc hành quân trực thăng vận  to lớn nhứt, gọi là Hành Quân Liên Vùng II và III, dự trù vào một mục tiêu tại vùng liên ranh ba biên giới, nơi sẽ có cuộc hội nghị cao cấp và quan trọng nhưt của Cộng Sản. Vùng II do Tướng Nguyễn Khánh và vùng III do Tướng Tôn Thất Đính làm tư lệnh.
Làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV và vùng IV Chiến Thuật, tôi thường xuyên theo dõi và ước tính tình hình trong vùng và trong nước, luôn luôn sắp sẵn các giải pháp quân sự để đối phó kịp thời. Tôi đồng ý là sẽ có hội nghị của phía Cộng Sản sẽ xảy ra nay mai, vì đương nhiên al chúng biết chắc sắp có đảo chánh tại miền Nam; nhưng tôi không đồng ý về địa điểm hội nghị tại cùng ba biên giới, mà trái lại tôi nghĩ rằng, địa điểm hội nghị của Cộng Sản sẽ ở tại Miền Đồng Bằng Sông Cửu Long. Thẩml định tình hình một cách kỹ lưỡng, tôi đoan chắc là cộng Sản sẽ mở hội nghị tại Hậu Giang. Vì Sao? Vì lãnh tụ cao cấp từ Bắc vào Nam, sau ông Hồ già lão, thì chỉ có Tổng Bí Thư Cộng Sản Lê Duẩn, mà Lê Duẩn đã từng là Xứ Ủy Nam Bộ, Lê Duẩn đã từng lặn lội khắp miền Tây, đặc biệt ở Hậu Giang, từ Chương Thiện, Chắc Băng, Thới Bình, Biện Nhị, Cà Mau.Trung tá Phạm Ngọc Thảo, hiện là sĩ quan của miền Nam, diện hồi chánh, nhưng đã từng là bạn thân của Lê Duẩn, ngày đám cưới của Thảo tại Thiên Hộ Đồng Tháp thì Lê Duẩn đã đích thân đến dự. Khi tôi còn là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 kiêm Khu Chiến Thuật Tiền Giang, thì Thảo làm Tỉnh Trưởng  kiêm Tiểu Khu Trưởng Kiến Hòa, người được Tổnt Thống Diệm tin cậy. Trong những giây phút thân tìn, Thảo đã thỏ thẻ với tôi :"Nếu Đại Tá Tư Lệnh muốn quen biết với ông Lê Duẩn thì tôi có thể sắp xếp được". Cho nên, đã có lần tôi thưa với Cụ Diệm : "Sao Cụ cứ để Trung Tá Thảo làm Tỉnh Trưởng Kiến Hòa lâu vậy, Cụ không sợ Thảo rủ rê cháu theo Cộng Sản hay sao?". Lúc ấy, tôi đã hiểu là Tổng Thống Diệm tin chắc không thể nào Thảo rủ rê tôi được, nhưng đồng thời có nghĩa là Tổng Thống Diệm biết rõ Thảo là Cộng Sản.
Trong mấy tháng vừa qua, Thảo đã mạo hiểm đến Hậu Giang, thăm viếng vùng ở Chương Thiện, Cà Mau, thăm Biên Nhị, Thới Bình, Sông Ông Đốc. Tiếp đó, Biên Nhị Cái Nước bị thất thủ, vùng an toàn của Cộng Sản rộng mở thênh thang giữa 2 cánh rừng U Minh Thượng và U Minh Hạ. Do đó, Tư  Lệnh Vùng IV có lý để đoan chắc là Cộng Sản sẽ mở hội nghị gần mé biển giữa U Minh Thượng và U minh Hạ, mà chỗ lý tưởng an toàn nhứt là vùng Heng Mây.Cũng bởi vì, muốn chọn lộ trình đi từ Bắc vào Nam, lãnh tụ cao cấp Cộng Sản chỉ cần xuống một chiếc tàu biển của Liên Sô hoặc của                       
Một kiếp người                             21
một nước nào đó trong khối Cộng Sản, đi từ Hải Phòng đến Sihanouk Ville, rồi từ hải cảng Sihanouk Ville đi bằng ghe biển có máy đẩy, qua các đảo chung quanh Phú Quốc, đến U Minh một cách mau chóng, dễ dàng và an toàn. Ngoài ra, dương Đông kích Tây là chiến thuật trí trá cơm bữa của Cộng Sản, khi chúng tung tin họp ở Núi thì chúng sẽ họp ở đồng bằng; ngày D  mà chúng tiết lộ thì chúng lại họp 1, 2 ngày sớm hơn, để chúng ngồi rung đùi nhìn quân ta tấn công vào mục tiêu trống rỗng.Thẩm định tình  hình như thế, và sau  khi rà sát các hoạt động thường ngày của Việt Cộng tại các tỉnh Chương Thiện, Cà Mau, kiểm  chứng tin tức các đường giao liên của Tiền Giang và Hậu Giang, của miền Đông và miền Tây, tìm hiểu khả năng tập họp Xứ Ủy Nam Bộ đến địa điểm hội nghị, Tư Lệnh  Vùng IV quyết định mở hành quân ở U Minh. Xin được tăng cường tàu Hải Quân để : (a) chở một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến  đổ bộ từ ngoài biển vào, (b) bao vây mặt biển  để chận bắt toàn thể hội nghị tìm đường thoát thân ra các đảo trong Vùng Phú Quốc. Bởi vì, Cộng Sản đương nhiên phải dự trù nhiều phương án rút lui, mà tốt nhứt cho chúng là ra phía biển.Quân Đoàn IV cũng xin 2 đại đội trực thăng dùng để đổ quân Sư Đoàn 21 xuống mặt trận, làm thành 3 cánh quân tấn công vào mục tiêu. Bình thường thi 2 đại đội trực thăng của Mỹ, đóng ở Bạc Liêu và ở Vĩnh Long là để sử dụng cho Vùng IV Chiến Thuật, nhưng lần này tôi muốn sử dụng thì Mỹ không cho.Thẩm định tình hình, tôi nắm chắc phần thắng mà bị cản trở, tôi nóng nảy bay về Sàigòn, cầu cứu Tổng Thống Diệm. Cụ Diệm điện thoại ngay cho Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Đại Tướng nói chuyện liền với Đại Tướng Harkins, MACV buộc lòng phải ra lệnh cho 2 đại đội trực thăng đóng ở vùng IV, đặt thuộc quyền sử dụng hành quân của tôi.Chiều ấy, tức ngày D-1, tôi bình  thản  ngồi  tại tư dinh, lúc 6 giờ chiều Đại Tá cố vấn trưởng từ Sàigòn về, đến thẳng tư dinh tôi, gặp tôi với bộ mặt hớt hãi lo âu, Connor nói : "Ông tướng ơi! Cả Sàigòn phẫn nộ về ông, bảo rằng ông ỷ thế Tổntg Thống, phá hoại cuộc hành quân liên vùng nhằm đánh vào cuộc hội nghị cao cấp cuả Cộng Sản. Việc này rất quan trọng, mọi người ở MACV, Tổng Tham Mưu, Toà Đại Sứ, đều đổ tội cho ông phá hoại. Ngày mai, nếu hành quân không có kết quả, thì ông và tôi phải lấy một cái bè bơi ra Thái Bình Dương, chứ không sống trên đất liền này được nữa" Tôi bảo với Connor :"Đại Tá Connor ạ! Ông sống gần tôi mấy tháng qua, ông đã thấy tôi làm đúng, quyết định đúng, và ngày mai hanh quân cũng đúng thôi. Đừng có lo".
Ngày hành quân, các cuộc đổ bộ bằng trực thăng cũng như bằng tàu hải quân đều nhịp nhàng đều đặn. Tôi ở tại Bộ Chỉ Huy Hành
22                                 Huỳnh Văn Cao
quân tại Cà Mau, các cánh quân báo cáo về, có chạm súng lẻ tẻ, tiến vào một nơi xem như sào huyệt của chúng, cánh quân khác khám phá  hầm súng đạn và công binh xưởng, canh quân khác thì giải thoát hơn 80 quân nhân công chức bị Cộng  Sản cầm tù trong rừng U  Minh. Bây giờ  đến  lượt màn lưới bao vây mặt biển báo cáo, một tàu hải quân bắt được một ghe biển có máy đẩy, từ U Minh đổ ra, chở mười mấy người  toàn đàn ông, có vài phụ nữ, một tàu hải quân khác chận bắt một chiếc ho-bo biển, có máy mạnh gấp mấy lần ho-bo của Mỹ, cũng tư U Minh đổ ra, trêbn đó chỉ có một người khách và một tài công. Từ tàu hải quân đến các cánh quân trung đoàn, radio thông báo cho nhau là đã bắt được Lê Duẩn.Tôi ra lệnh cho các tàu hải quân đem tất cả  các người bắt được về Bộ Tư Lệnh Hành Quân, hãy đối xử lịch sự vơí họ? Và các cánh quân bắt đầu rút lui. Chiều lại, tôi giao cho Tư Lệnh Sư Đoàn 21 chỉ huy cuộc hành quân. Tôi và cố vấn Connor bay về Cần Thơ.
Lối 8 giờ tối, Connor điện thoại cho tôi :"Ông Tướng ơi! Tàu hải quân thả Cộng Sản  hết rồi" Tôi bảo : "Tôi đã ra lệnh đem về cho tôi, ai dám ra lệnh thả chúng?" Đại Tá Connor nói  tiếp :" Thế mà, tàu hải quân đã thả đi rồi. Bây giờ, tôi đề  nghị sáng mai, ông Tướng khỏi về Cà Mau làm gì nữa. Nhưng xin ông vui lòng tiếp 3 người khách từ Sàigòn đến, và họ ăn cơm trưa với ông tại tư dinh ông. Có 2 tướng 1 đại tá". Tôi bảo Connor cùng đến  ăn cơm luôn thể. Cố vấn Connor nói tiếp :"Ngày mai tôi sẽ ra sân bay đón khách, đem đến nhà ông, rồi tôi xin kiếu về, ông hãy tiếp họ một mình". Tại tư dinh Tư Lệnh Vùng, phía  Mỹ  có  tướng 2 sao, 1 tướng 1 sao và 1 đại tá. Gặp nhau thì chào hỏi lịch sự thân tình, nhưng trên mặt của 3 vị khách vẫn còn nét nóng nảy. Tướng Mỹ 2 sao nói : "Cả một cuộc chiến tranh chỉ có một cơ hội duy nhứt, cuộc diện chiến tranh này tùy thuộc nơi người Cộng Sản ấy, thế mà sao ông thả cho họ đi?".Ngồi thoải mái tại phòng khách, tôi nhẹ nhàng nói : "Vì tinh thần chóng Cộng của tôi, với khả năng và kinh nghiệm chiến trường của tôi và vì danh dự một tướng lãnh, tôi đã lấy hết can đảm để mở cuộc hành quân, quyết bắt cho được họ. Bắt được họ rồi, tôi đã ra lệnh cho cánh quân ngoài biển giải họ về cho tôi. Tôi điên gì mà ra lệnh thả họ đi".Chúng tôi  sang phòng ăn, dùng bữa trưa. Mọi việc trắng đen trong các cuộc Hành Quân tại Sư Đoàn 7 và vùng IV Chiến Thuật là trung thực rõ ràng như vậy. Thế mà một số tác giả Mỹ đã nói rằng tôi nghe lời khuyến dụ của Tổng Thống Diệm nên đã để cho Việt Cộng chạy thoát trong các cuộc hành quân....Để cho rõ ràng Lê Duẩn do ai ra lệnh thả? tác giả viết thơ nhờ Cụ Lê Tấn Bửu, Cựu Thượng Nghị Sĩ VNCH, rất thân quen cũng là người hàng xóm với tướng Huỳnh Văn Cao ở Arlington, VA, Hoa Kỳ, để hỏi tướng Cao hư thực như thế nào? may thay được Cụ Lê Tấn Bửu, cựu Thượng Nghị Sĩ VNCH gởi thơ cho biết như sau :
http://daovang.free.fr/ThoOngLETANBUUcopy.jpgXin trích dẫn từ trang 458 – 459 tập 1 50 năm qua (1963-2013) đã đăng Anh em Ngô Đình thỏa hiệp với CSBV cho nên sau khi bị đảo chánh 1-11-1963 phải chạy trốn nhà Mã Tuyên để hy vọng được CSBV tiếp cứu....

3-Theo ông VIỆT THƯỜNG
(Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam):

"... Nguyễn công Tài đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu hàng núi hồ sơ về gia đình nhà ông Ngô Đình Diệm và những người kế cận, cũng như những người đối lập. Tài liệu cập nhật từ nhiều nguồn, nhưng phần đóng góp của nội gián Phạm ngọc Thảo là rất quan trọng. Làm sao phải chọn người tiếp xúc thật đúng mà lại bảo toàn bí mật. Cuối cùng, sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, Nguyễn công Tài đã lựa nhân vật Mã Tuyên, người Tàu ở Chợ-lớn đang làm công việc kinh tài cho gia đình ông Ngô Đình Diệm.

Thông qua dịch vụ buôn bán táo bạo, Nguyễn công Tài đã tiếp xúc trực tiếp được với Mã Tuyên. Và, cái thời điểm để đưa ý kiến cho Mã Tuyên "gợi ý" với anh em ông Ngô Đình Diệm là sau tháng 2-1962, sau cái ngày mà hai trung uý của quân đội ông Diệm là Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử ném bom dinh Độc Lập làm đảo chính. Sự việc của hai trung uý Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử tuy không thành công nhưng nó lại là lý do hợp thời để Nguyễn Công Tài làm cuộc tiếp xúc với anh em ông Diệm, Nhu thông qua thương gia người Tàu ở Chợ-lớn là Mã Tuyên. Tín hiệu có thuận lợi. Quả nhiên ông Nhu nhận sự tiếp xúc một cách thận trọng và kéo dài thời gian để mặc cả cho cái giá đi đêm. Nguyễn công Tài có nhận xét là anh em ông Diệm, Nhu tuy học ở Pháp và Mỹ về nhưng óc bài ngoại cực đoan như "Tự Đức" và cũng có mộng Việt Nam sẽ gồm cả Miên và Lào và phải là cường quốc ở châu Á.

Sự việc tin đi mối lại chỉ dừng ở đó. Phải cho đến lúc được phép của ông Line, Nguyễn công Tài cung cấp cho ông Nhu một số tài liệu chứng minh người Mỹ muốn lưu lại ông Diệm còn vợ chồng ông Nhu phải đi lưu vong nước ngoài, cũng như họ trước sau cũng buộc ông Diệm phải từ bỏ chế độ độc tài, gia đình trị, phải chia quyền lãnh đạo cho các đảng phái cũng như phải có chính sách bình đẳng tôn giáo. Ông Nhu chấp nhận một cuộc gặp gỡ với phái viên đặc biệt của ông Line. Có thể đây chỉ là giải pháp phòng ngừa mà cũng có thể ông Nhu muốn hiểu rõ hơn ý đồ của địch. Những điều này còn là bí ẩn đi theo ông Nhu xuống tuyền đài.

Phạm Hùng nhận những chỉ thị toàn quyền hành động từ ông Line tại phủ toàn quyền Đông Dương ở Ba-Đình (Hà-nội) và cấp tốc đi Nam bằng cả ba thứ phương tiện: thủy, bộ và hàng không.

Đầu tháng 2-1963, cuộc họp "bí mật" giữa ông Ngô Đình Nhu và Phạm Hùng diễn ra tại một địa điểm kín đáo ở quận Tánh Linh, tỉnh Bình Tuy. Trong cuộc họp này có cả Nguyễn công Tài cũng được dự. Khi chia tay, cả hai bên đều hỷ hả. Nội dung cuộc họp vẫn còn nằm trong bí mật cho đến nay.

Đầu tháng 11-1963, các tướng trong quân đội của ông Diệm làm đảo chánh thành công. Anh em ông Diệm, Nhu theo đường hầm trốn vào Chợ-lớn ở nhà Mã Tuyên. Phải chăng hai anh em ông Diệm, Nhu định chờ người của Phạm Hùng và Nguyễn công Tài đến đón ra bưng biền?

Người duy nhất còn lại là Nguyễn công Tài, sau này "tình cờ" làm cái việc xét căn cước, cảnh sát của miền Nam đã bắt được Nguyễn công Tài. Người Mỹ đã cho giam Nguyễn Công Tài ở Bạch Đằng (Sài-gòn), cho hưởng mọi tiện nghi vật chất rất cao và cũng được ngồi xe hơi (tất nhiên có bảo vệ) đi "tham quan" phố xá Sài-gòn. Đến 1975, trước khi đứt phim miền Nam, Mỹ đã thả Nguyễn công Tài ra...

4-Theo ông QUANG PHỤC
(Ký giả, chủ nhiệm “Góp Gió”):


Chúng tôi nhận định rằng chính gia đình ông (Ngô Đình Diệm), cụ thể là ông bà Ngô Đình Nhu, và Đảng Cần Lao của ông ta đã làm hại ông, khi âm mưu thỏa hiệp với CS Hà Nội từ năm 1958 khi ra lệnh cho các Tỉnh trưởng ngưng bắt các cán bộ cộng sản và thu hồi vũ khí tự động của Bảo An, Dân Vệ, thay vào đó bằng súng mousqueton và dao găm.” (Hồi ký Công và Tội của Nguyễn Trân, trang 269)
(trích từ cuốn “Hãy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử” của Quang Phục Võ Văn Sáu, 2004, trang 39)

5-Theo Trung Tướng HUỲNH VĂN CAO:
“Đọc hồi ký Một Kiếp Người của Trung tướng Huỳnh Văn Cao, tới đây thì vấn đề ông Nhu có liên hệ với CS không cần bàn cãi nữa. Cả tướng (Trần Văn) Đôn, tướng Huỳnh Văn Cao và Nha An Ninh Quân Đội của Đại tá Đỗ Mậu đều báo cáo (rằng) Đại tá Phạm Ngọc Thảo là VC nằm vùng, nhưng cả 2 ông Diệm và Nhu lẫn cha Thục vẫn cứ cố ý bảo vệ cho Thảo. Trong hồi ký Một Kiếp Người của Huỳnh Văn Cao cho biết Đ/tá Thảo còn dám cả gan “móc nối” ông Cao (lúc còn Đại tá), đòi giới thiệu để ông Cao làm quen với Tổng bí thư Lê Duẫn, các sĩ quan dưới quyền ông Cao rất tức giận vì biết Thảo là VC nằm vùng, đòi giết Thảo (các trang 79-80). Ông Nhu nghe Thảo báo cáo bèn dọa “Kẻ nào đụng tới Thảo (tôi) sẽ bỏ tù rục xương” (trang 90). Đồng thời, nơi trang 84, Tướng Huỳnh Văn Cao còn cho biết cả Đại tướng Harkins cũng nghi ngờ TT Diệm. Bởi vì cuộc hành quân nào của QLVNCH sắp mở ra mà báo cho Tổng Thống phủ thì VC đều biết trước! Cho thấy người Mỹ, CIA đã biết và theo dõi bám sát ông Ngô Đình Nhu từ lâu. Và người Mỹ nhiều lần đòi Tổng Thống Diệm loại trừ ông Nhu. Các tướng lãnh cũng đòi loại trừ ông Nhu nhưng ông Diệm  cương quyết giữ ông Nhu!.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét