Hoàng Sa nỗi buồn lịch sử
Long Ly
Tôi
nhớ lại lời dặn đã được lập đi lập lại của huấn luyện viên…một phi công
lái F105, đã bay hơn 100 phi vụ oanh tạc Bắc Việt…là ” Khi không chiến,
phải xem kẻ thù cùa mình là phi công giỏi nhất thế giới”.
Không
chần chờ, quan sát chung quanh, nhanh chóng phán đoán tình hình, có
phản ứng nhanh ,đúng, kịp thời, chính xác, không để mất bóng phi cơ
địch, khai hoả thật nhanh, và hổ trợ cho người bạn của mình. Tôi vẫn
biết lý thuyết là thế, nhưng trên thực tế, ngoài khả năng của phi công
còn có những yếu tố khác như : khả năng nhào lộn, tốc độ thăng tốc cúa
máy bay, vũ khí trang bị trên phi cơ, vị thế đầu tiên của phi cơ địch và
thời tiết nữa.
Hôm
nay thực sự những bài học kinh nghiệm huấn luyện về không chiến sắp
được ứng dụng, có lẻ chỉ khoảng nửa giờ sau khi cất cánh từ Đà Nẳng. Tôi
đã nóng lòng chờ những giây phút ấy, chưa bao giờ xảy ra trong đời, tôi
thầm nhủ phải coi chừng những chiếc Mig 21, khó nuốt, nhưng không thắng
thì huề,nhất định không chịu thua.
Đến
1 giờ, vẫn chưa thấy dấu hiệu gì chuẩn bị cất cánh, ông Thiếu Tá Giàu-
người chỉ huy trận đánh- đi họp vẫn chưa về. 1giờ 30 , 2giờ, 2 giờ 30,
rồi 3 giờ ,vẫn chưa được lệnh.Lúc đó tôi nghĩ đi trể như vậy, lúc về tối
mất, không mấy thuận lợi nếu phải về trong trường hợp ít xăng và đáp
xuống phi trường Phù Cát còn khá xa lạ với những phi cơ F5. Khoảng 5 giờ
chiều mới biết cuộc hành quân oanh tạc Hoàng Sa bị huỷ bỏ vì :
“Mỹ không cho đánh “???.
Ngày
hôm sau, tôi không có tên trong lịch trình trực bay , nhưng không đi
đâu được, vì đang cấm trại 100% nên vẫn quanh quẩn ở phòng trực phòng
không. Tại Đà Nẳng, lúc nào cùng có 3 phi tuần F5 trực phòng không. Phi
tuần Xray trực 5 phút, Zulu trực 15 phút, Whisky trực 30 phút ( có nghĩa
khi báo động , phi tuần Xray bằng mọi cách phải cất cánh trong vòng 5
phút, sau đó phi tuần Zulu được đôn lên thành 5 phút, sẵn sàng cất cánh
nếu cần, phi tuần Whisky đôn lên thành 15 phút và sẽ thành trực 5 phút
nếu phi tuần Zulu phải cất cánh.)
Khoảng
3 giờ chiều, tình hình vẫn bình thường. Trung uý Chinh người trực phi
tuần 5 phút đến gặp tôi, xin tôi trực thế cho một lát, để về đưa con đi
bác sĩ. Tôi nhận lời vì chúng tôi vẫn thường giúp nhau, xem như anh em.
Tôi lấy mủ bay ra phi cơ, gở mủ bay của Trung uý Chinh ra, nối ống dưỡng
khí và dây vô tuyến vào ( vì mỗi người có mủ bay riêng, đã được điều
chỉnh cho phù hợp với đầu của mình ).Khoảng 3 giờ 30, lúc đó Trung uý
Chinh vừa chạy xe vào khu vực phòng không, đang mặc bộ G suit thì báo
động.
Tôi vội chạy ra phi cơ,Trung uý Chinh cũng chạy theo gọi tôi; Long để tôi bay cho.
Tôi
vừa chạy vừa trả lời :Không kịp đâu, tôi đã đổi mủ bay rồi.Nói xong,
tôi liền leo vào phòng lái, mở nút battery, khoát hai quai dù vào, khoá
Seat Belt lại, đội mủ bay, đeo mặt nạ dưỡng khí vào.
Trong
khi tôi làm những việc đó một chuyên viên phi đạo vừa nổ máy, vừa giúp
tôi nối giây G suit. Khi anh ta bước xuống, rút cầu thang là tôi đóng
ngay nắp phòng lái, tống ga vọt khỏi ụ đậu.
Đài
kiêm soảt không lưu Đà Nẳng thông báo ngay trên tần số vô tuyến cao độ
20.000 ngàn feet và hướng bay 045 mà đài kiểm báo Panama- ở trên đỉnh
núi Sơn Chà- yêu cầu để dể dàng nhận thấy mục tiêu.
Lúc
ấy mọi chuyện xảy ra rất nhanh, tôi không còn nhớ gì ngoài những phương
thức cất cánh khẩn cấp, chạy ra phi đạo, không chần chừ, tống ga tối
đa, mở afterburner, chiếc số 1 chạy trước, tôi bám sát theo, phi cơ lao
nhanh trên phi đạo.
Hôm
ấy vì chuẩn bị đánh Hoàng Sa nên phi cơ mang ba bình xăng phụ, phải
chạy hơn một nửa phi đạo mới cất cánh được. Có lẻ từ khi báo động đến
khi chúng tôi gấp bánh lại khoảng 3 phút rưỡi, không lâu hơn khoảng thời
gian ấy. Khi đang bay lên cao, chúng tôi liên lạc với đài kiểm báo
Panama xin diển tả mục tiêu.
Được
cho biết hai phi cơ Mig 21 cất cánh từ Hải Nam bay về hướng Đà Nẳng còn
cách phi tuần chúng tôi vào khoảng 100 dặm. Tôi bay dạt ra xa, hơi lùi
về phía sau đối với chiếc số 1 trong đội hình không chiến. Trung uý Tảo
bay số 1 liên tục hỏi Panama về mục tiêu vì 100 dặm tuy mắt thường không
nhìn thấy nhưng hai phi cơ siêu thanh bay đối đầu nhau (head on ) thì
chỉ chốc lát là ở bên cạnh nhau ngay..
Chúng
tôi tập trung quan sát kỹ lưỡng chung quanh , chưa thấy Mig đâu, lúc
đó, ở phi đoàn gọi hotline lên Panama dặn chúng tôi nhớ vứt ba bình xăng
phụ trước khi không chiến. Tôi vừa bay vừa nghĩ, chắc đụng thật rồi,
nút nhả ba bình xăng phụ ở vi trí Standby chỉ cần bấm nút là ba bình
xăng phụ sẽ tách rời khỏi máy bay.
Tôi
liếc nhanh hoả tiển Sidewinders đã sẵn sàng khai hoả, tôi vặn nút
volume tầm nhiệt của hoả tiển không không nghe cho rõ, để khi không
chiến, hoả tiển bắt được hơi nóng của phi cơ địch sẽ báo lên bằng âm
thanh nghe được bằng head phone gắn trong mủ bay.
Trung
uý Tảo vừa liên lạc với Panama vừa quan sát mục tiếu, tôi cũng thế,
theo dấu chiếc số 1, đồng thời cũng quan sát thật kỹ, mình phải thấy Mig
trước, nhưng Panama im lặng vô tuyến một lát rồi yêu cầu chúng tôi giữ
cao độ 20.000 feet và bay vòng trở lại , vì hai phi cơ Mig 21 của Trung
Cộng đã quẹo về hướng Hải Nam.
Chúng
tôi bay bao vùng vòng tròn ngoài biển cách phi trường Đà Nẳng khoảng
80-100 dặm.Thực ra Trung Cộng muốn thử phản ứng của Không Quân VNCH và
chúng ta đã phản ứng rất nhanh, cất cánh ngay trước khi Mig xâm nhập
khộng phận và nếu có xảy ra không chiến thì chúng ta kể như có lợi thế
vì gần Đà Nẳng và khá xa Hải Nam.
Sau
khi đã chỉ định danh sách những người bay các phi tuần còn lại, nếu tôi
nhớ không lầm là khoảng 10 phi tuần, mỗi phi tuần hai chiếc. Phi cơ cất
cánh bay cuối cùng là một chiếc RF-5, do một vị thiếu tá phi đoàn 522
lái có nhiệm vụ bay qua chiến trường chụp hình kết quả cuộc oanh tạc do
những chiếc F5 bay trước ném bom xuống.
Khoảng
10 giờ sáng, tất cả những phi công tham dự cuộc hành quân đặc biệt này
lên Sư đoàn họp, nghe thuyết trình kế hoạch đánh Hoàng Sa. Chẳng mấy khi
những cấp sĩ quan cấp nhí như tụi tôi được vào phòng họp này, nên thấy
có vẻ hơi lạ.
Đại
Tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn I Không Quân thuyết trình tình hình và kế hoạch
ném bom. Từng phi tuần cất cánh từ Phi trường Đà Nẳng, cách bờ biển 100
dặm, nếu thấy chiếc tàu nào đều đánh chìm vì Hải Quân của chúng ta đã
rút về phòng thủ ở trong vòng 100 dặm, các tàu của các nước khác đã được
thông báo và yêu cầu tránh xa vùng Hoàng Sa.
Chỉ
có 10 phút không chiến, không được ở lâu, khi về bay chếch xuống hướng
Nam, đáp xuống phi trường Phù Cát chứ không về Đà Nẳng nữa sợ phi cơ Mig
bay chận hậu. Nếu máy bay Mig đuổi theo những chiếc F5 bay về Phù Cát,
thì nó sẽ bị những chiếc F5 cất cánh từ phi trường Đà Nẳng lên chận đuôi
nên sẽ không dám bay xa xuống hướng Nam.
Khi
nghe thuyết trình như vậy, lúc ấy tuy còn rất trẻ nhưng tôi đã hình
dung được chưa chắc mình đã bay được đến Hoàng Sa mà chắc chắn trận
không chiến sẽ diển ra vào khoảng không phận 120 dặm cách Đà Nẳng cũng
như đảo Hải Nam của Trung Cộng, vì khi chúng ta cất cánh lên bay về
hướng Hoàng Sa, máy bay Mig sẽ lên nghênh cản ngay và cuộc đối đầu sẽ
diển ra trong khoảng toạ độ đó.Đến khi thuyết trình về hệ thống cấp cứu
nếu chúng tôi phải nhảy dù trong trường hơp khẩn cấp. Đại Tá Tư Lệnh Phó
SDIKQ cho biết…Cách bờ biển 50 dặm sẽ có hai chiếc tàu Hải Quân . Trên
mỗi tàu có hai chiếc trực thăng, sẽ bay đi cấp cứu trong vòng 50 dặm
nữa.
Như
vậy, nếu mấy anh nhảy dù trong vòng 100 dặm thì cứu được, còn ngoài 100
dặm sẽ không cứu được vì quá xa. Một vị Trung Uý hỏi…Đệ thất hạm đội Mỹ
có cấp cứu khi chúng tôi nhảy dù ngoài tầm cấp cứu của chúng ta ? Đại
Tá trả lời ngay:” Đệ Thất Hạm Đội từ chối không cứu”.
Lúc đó chúng tôi hiểu ngay Mỹ đã bật đèn xanh và làm ngơ cho Trung Cộng cướp đảo Hoàng Sa của chúng ta.
Là
những chiến sĩ VNCH ai không đau lòng khi bị Trung Cộng chiếm Hoàng Sa,
lấy mất mảnh đất do cha ông đã đổ bao công lao, xương máu tạo nên, giữ
gìn cho đến ngày nay…
Những
cuộc chiến đấu dũng cảm, đẫm máu như Tết Mậu Thân 1968, tái chiếm cổ
thành Quảng Trị năm 1972, những trận đánh lừng danh trên khắp lãnh thổ
Miền Nam Việt Nam,nhất quyết không để một tấc đất vào tay kẻ thù, vậy mà
Trung Cộng lại ngang nhiên, công khai xăm lấn Hoàng Sa, với sự im lặng
ủng hộ của CSVN, với sự phủi tay của Hoa Kỳ.
Những
phi công F5 được chỉ định oanh tạc Hoàng Sa không ai từ chối, trái lại
tinh thần rất cao, sẵn sàng tung cánh dầu không có sự yểm trợ của Không
Quân và Đệ Thất Hạm Đội Mỹ.
Trước
khi vào nghe thuyết trình, chúng tôi vẫn đinh ninh sẽ có sự tham dự ném
bom của Không Quân Hoa Kỳ như họ đã từng bay những phi vụ yểm trợ, đánh
phá Việt Công tại miền Nam cũng như tại miền Bắc trước khi có hiệp định
Paris .Hoặc ít ra không trực tiếp oanh tạc, phi cơ Mỹ cũng bay Air
Cover cho KQVNCH an toàn oanh tạc Hoàng Sa.
Nhưng
thực tế, họ đã từ chối, tại sao vậy ?.Lúc đó chúng tôi không hiêu có
phải Mỹ đã bỏ rơi chúng ta hay họ muốn thử xem thực lực của KQVNCH có
khả năng vươn nổi cánh sắt đến những mục tiêu xa xôi như Hoàng Sa ?.
Buổi
thuyết trình hành quân đang khựng lai vị hệ thống cấp cứu rất hạn chế
thì bổng cửa phòng hop mở ra Đại Tá Võ Văn Sĩ, Không Đoàn Trưởng Không
Đoàn 63 Chiến Thuật ở phi trường Biên Hoà và môt sĩ quan Không Quân cao
câp khác tôi không biết tên, cả hai bước vào phòng họp.
Đại
Tá Sĩ chỉ ngay vào Thiếu tá Hồ Kim Giàu nói :”Giàu ,đừng nóng “Hai vị
sĩ quan cao cấp mới đến tiêp xúc với Đại TaTứ Lệnh Phó Sư Đoàn I KQ một
lát và sau đó ra lệnh cho tất cả các phi công rời phòng họp.
Về
khu trực phòng không, chúng tôi được lệnh chuẩn bị cất cánh, có lẽ vào
khoảng 1 giờ chiều.Ai nấy sẵn sàng, kiểm tra lại G suit, xem lại những
dụng cụ cấp cứu trong chiếc áo lưới, cân thận gài chặt khẩu súng P38,
biết đâu đến lúc cần đến nó !Tôi mở sẵn bản đồ hành quân.Hoàng Sa nhỏ bé
thật, có nhiều đảo nhỏ nhưng không có một mục tiêu được chỉ định rõ
ràng.
Tôi
cố học thuộc lòng tần số liên lạc của phi trường Phù Cát để khi trở về
không lạng quạng mò mẩm. Tôi hình dung lại những bài học không chiến đã
được tập luyện kỹ lưỡng tại Hoa Kỳ cũng như những phi vụ thực tập hàng
ngày ở Phi Đoàn 538.
Tôi
có niềm tự tin không đến nổi nào, có thể sẽ thắng. Khi thực tâp tại
vùng sa mạc Arizona, đã nhiều lần tình cờ không chiến với các phi cơ F4.
F100 ( cũng bay những phi vụ huấn luyện về không chiến) Chính tôi cũng
thấy ngang ngữa, không có gì thua sút họ cả.
Tôi
ôn lại những kỷ niệm năm xưa với những dự tính oanh tạc Hoàng Sa năm
1974 của phi đoàn mà tôi phục vụ để thấy những nỗi đắng cay của chúng
ta, của một nước kém phát triển, của một quốc gia còn non trẻ nhưng gặp
thảm hoạ chiến tranh đã bị các nước lớn khuynh đảo.
Hoa
Kỳ đã dùng xương máu của những người Việt Quốc Gia chống lại sự bành
trướng của CS. Đã dùng Việt Nam làm điểm nóng, làm tiêu hao sinh lực
khối Cộng Sản quốc tế trong cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu với CS. Chúng
ta là nạn nhân của sự xung đột ý thức hệ, là tụ điểm va chạm nảy lửa
của hai khối CS và Tự Do.
Trong
cuộc chiến đấu chống Cộng tại Việt Nam. Hoa Kỳ chủ trương không muốn
thắng, duy trì chiến tranh làm Liên Xô, Trung Cộng phải “xuất huyết” hao
tiền tốn của để viện trợ cho CS Bắc Việt.
Đó
là cuộc chiến tranh của những nước lớn, nhưng lại dùng quê hương chúng
ta làm chiến trường. Để rồi, một thời điểm nào đó, vì quyền lợi của Hoa
Kỳ, người Mỹ phủ phàng bỏ rơi, để hàng chục triệu người vô tội rơi vào
địa ngục Cộng Sản.
Ôi
còn xót xa nào hơn thân phận của các nước nhược tiểu chỉ hứng lấy những
sai lầm và là nạn nhân của các cuộc xung đột quốc tế. Hoa Kỳ đã mắc
phải những sai lầm rất lớn trong cuộc chiến tranh Việt Nam trước đây, họ
có trách nhiệm phải xoa dịu những nỗi thống khổ hiện nay của những
người dân và Chiến Sĩ Quốc Gia mà quá khứ đã dũng cảm chiến đấu cho tự
do bên cạnh Hoa Kỳ bằng những nổ lực làm tan dần đại hoạ CS VN.
Năm
1972, Hoa Kỳ nghĩ rằng bắt tay với Trung Cộng có rất nhiều điều lợi như
tạo được sự chia rẽ giữa Liên Xô và Trung Cộng, Xâm nhập kinh tế trung
Cộng bằng dự án đầu tư thương mại. Hoa Kỳ cứ tưởng ” Nắm đầu Trung Quốc “
Tức
đã nắm được CSVN nhưng chính Trung Quốc đã bị CSVN phản bội, bỏ rơi để
chạy theo Liên Xô. Vì vậy, năm 1979, Trung Cộng đã đem quân qua trừng
phạt, dạy cho CSVN một bài học đó là thiếu trung tín bất lương.
Sau
này, có khi chúng tôi tập bay không chiến khá xa bờ biển, có khi khoảng
80 dặm, tôi nhìn biển xanh rộng mênh mông, Đà Nẳng nhìn thấy mờ mờ như
trong sương mai. Biển bao la qúa, tôi thấy tội nghiệp cho những anh hùng
Hải Quân VNCH đã dũng cảm, đơn côi chiến đấu với bọn cướp hung hản
Trung Cộng.
Các
anh chiến đấu không ai yểm trợ, biển lạnh sóng gió chập chùng, muốn mau
về bến bờ, về thăm nhà cũng mất cả ngày, còn chúng tôi chỉ lát nữa đây,
sau khi đáp xuống Đà Nẳng, là có dịp đi dạo phố hoặc quây quần cùng gia
đình.
Đã
34 năm trôi qua, nhớ lại những kỹ niệm của thuở làm trai thời loạn,
những ngày tung cánh vẫy vùng trong không gian, những ngày đâm xuống ném
bom vào đầu giặc thù, những ngày trực phòng không dài lê thê, những
ngày mưa dầm kéo dài cả tuần, mây mù che phủ Đà Năng thảm thương.
Hoàng
Sa đánh dấu một trong những bước khởi đầu của tiến trình bỏ rơi VNCH.
Đó là một nỗi buồn lịch sử báo động cho một đại hoạ sắp xảy ra cho VNCH.
Tôi nhớ những người bạn cùng khoá đã anh hùng ra đi vĩnh viễn.
Nguyễn anh Tuấn - Đinh thành Trung - Nguyễn thăng Long - Lê mậu Trung - Đặng minh Toàn - Trần anh Tiên - Lê trường Sa…
Từ
khi còn trong quân trường, các anh và chúng tôi đã cùng hát: Đây đó,
hồn nước ơi , Không Quân Việt Nam lướt trên ngàn mây gió, ù u u u u ú,
ôi phi công danh tiếng muôn đời “. Danh tiếng muôn đời lại mở đầu bằng
tiếng “ôi” não nùng.!!!
Các
anh đã thực hiện những chuyến bay dũng cảm, gieo kinh hoàng khủng khiếp
cho kẻ thù, và các anh đã chết để giang sơn được sống, để đồng bào được
ấm no nhưng người Mỹ đã buông xuôi, hậu qủa là nước mất nhà tan, người
Việt Nam lưu lạc bốn phương trời.
Những cánh chim sắt của Không Quân VNCH đành phải xếp cánh và có lẽ sẽ không còn cơ hội nào tung bay như ngày xưa nữa.
Xin
dành một phút tưởng niệm đến tất cả những anh hùng Hải Quân đã hiên
ngang dũng cảm hải chiến với tàu Trung Cộng để bảo vệ Hoàng Sa và đã
chọn đại dương là mồ an nghỉ cuối cùng.
Xin
dành một phút tưởng niệm đến tất cả những phi công VNCH đã trải dài
thân xác mình trên khắp quê hương thân yêu vì chính nghĩa Quốc Gia và Lý
Tưởng Tổ Quốc Không Gian.
Ngày
nay, khi cộng Sản Việt Nam lại ký kết hiệp ước biên giới dâng đất, dâng
biển, dâng một phần giang sơn của tổ tiên và tiền nhân để lại, cho
Trung Cộng, thật tỏ rõ CSVN thật sự là quân bán nước.
Đọc
kỹ lịch sử bán nước của CSVN, tôi mới biết ngày 14-9-1958. Phạm Văn
Đồng thừa lệnh của Hồ Chí Minh đã ký dâng hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cho Trung Cộng.
Có
lẽ trước năm 1974. Trung Cộng không dám đụng đến vì trên đảo có quân
lính VNCH trấn giữ và Hoa Kỳ vẫn còn sát cánh với QLVNCH chống cộng.
Nhưng khi biết Mỹ có ý định rút quân ra khỏi miền Nam.
Trung
Cộng tấn chiếm để xem phản ứng của chúng ta và Hoa Kỳ như thế nào rồi
từ đó cố vấn cho CS Bắc Việt đẩy mạnh cuộc xâm lược để chiếm miền Nam
Việt Nam.. Và thảm hoạ đã đến, ngày đó, tôi thật ngây thơ khi nghĩ cuộc
chiến Hoàng Sa chỉ là âm mưu ăn cướp một hòn đảo nhỏ và người Mỹ cũng
không quan tâm vì mất đảo Hoàng Sa không có nghĩa mất đi một vị trí
chiến lược có ảnh hưởng đến sự sống còn và tồn vong của của VNCH.
Với
tư cách người lính chiến đấu bảo vệ quê hương, với những hiểu biết rất
hạn chế về thời cuộc, mình đâu có nhìn thấy tiến trình bỏ rơi của Mỹ và
hiểm hoạ CS mỗi ngày một lớn, để rồi vẫn bình thản bay bổng làm tròn
trách nhiệm và bổn phận của mình cho đến ngày mất nước.
Bây
giờ đã 34 năm qua, nghĩ về Hoàng Sa, về quê hương mà lòng buồn vô hạn,
biết đến bao giờ mình mới lấy được quê hương, lấy được gì mình đã mất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét