Từ ngày trận hải chiến Hoàng Sa xảy
ra đến nay, tôi vẫn giữ im lặng, không viết ra những điều mắt thấy tai
nghe những gì xảy ra trong trận chiến, vì nghĩ rằng trận chiến Hoàng Sa
là một thất bại vì đã không giữ được đảo Hoàng Sa. So với những chiến
tích lẫy lừng cửa tiền nhân trong lịch sử thì chúng tôi đã không làm nên
được tích sự gì, vì vậy tôi cảm thấy hổ thẹn khi phải viết ra.
Nhưng nay đã có nhiều người viết về
trận Hoàng Sa, trong đó có Hải quân Đại tá Hà Văn Ngạc là người chỉ huy
trận chiến, và Trung úy Hải quân Đào Dân thuộc HQ-16. Nay lại có thêm
Hải quân Trung tá Vũ Hữu San, Hạm trưởng HQ-4 viết một cuốn sách nói về
trận chiến Hoàng Sa. Trong các bài viết cũng như cuốn sách đó, mỗi người
nói một cách, không ai giống ai. Nếu ai chỉ đọc một bài thôi thì có thể
tin đó là thật, nhưng nếu người đọc tinh ý thì vẫn có thể tìm thấy một
vài chi tiết chứng tỏ người viết thiếu thành thật hay nói vu vơ phô
trương nhiều hơn những gì cần nói. Còn nếu đọc hết tất cả các bài viết
thì sẽ thấy người nói hươu kẻ nói vượn, chẳng biết tin ai. Người đọc sẽ
đánh giá thấp Hải quân Việt Nam Cộng hòa và sẽ thắc mắc không biết trận
chiến Hoàng Sa thật sự như thế nào.
Chính vì lý do này mà tôi phải lên
tiếng.Tôi biết trong Hải quân có một số người biết sự thật, nhưng ai nói
sai họ vẫn mặc kệ, miễn người viết đề cao Hải quân, còn nói thật thì họ
cho là mất mặt Hải quân.Vì vậy khi viết bài này, tôi biết trước là sẽ
có nhiều người bất mãn vì bài viết của tôi, không những bất mãn mà tệ
hơn, còn lên án tôi là kẻ bêu xấu Hải quân, nhưng tôi vẫn phải viết để
nói lên sự thật và nói thay cho những người đã chết trong trận Hoàng Sa.
Tôi cũng xin độc giả hiểu cho rằng
trong các quân binh chủng, hàng tướng tá, úy, sĩ quan hay trong bất cứ
tập thể nào cũng có người tốt kẻ xấu, người có trình độ cao, kẻ trình độ
thấp, do đó xin quí vị không nên vơ đũa cả nắm. Hơn nữa bây giờ ra hải
ngoại rồi, chúng ta phải nhìn nhận sự thật Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ
chính vì cấp lãnh đạo và những người có trách nhiệm chứ đừng đổ lỗi cho
đồng minh phản bội để chối tội.
Trước khi vào bài, tôi xin nêu lên vài ý
kiến về bài viết của Trung úy Đào Dân vì ông ta cùng ở trên HQ-16 với
tôi. Những gì xảy ra trên HQ-16, Trung úy Dân viết có thể đúng nhưng
chưa chắc đã thấy hết mọi chuyện xảy ra trên HQ-16 vì ông chỉ ở một vị
trí nào đó trên chiến hạm chứ không thể có mặt ở trên khắp mọi nơi,
ngoài ra ông còn phải lo làm phận sự của ông chứ không thể ngồi không mà
quan sát trận chiến. Những gì ông viết về HQ-4, HQ-5 và HQ-10 là hoàn
toàn không đúng sự thật. Chính tôi là người chỉ huy HQ-16 mà cũng không
biết những hoạt động của HQ-4, HQ-5 làm sao ông Dân biết được ?
Tôi nghĩ là ông Dân muốn viết về trận
chiến Hoàng Sa mà ông có tham dự, nhưng khi muốn viết cho đầy đủ, ông
phải nói đến các chiến hạm khác mà ông không biết hoạt động của các
chiến hạm này nên phải tưởng tượng ra hoặc dựa vào phần nào bài viết của
Đại tá Hà Văn Ngạc mà bài viết của Đại tá Hà Văn Ngạc thì hoàn toàn sai
sự thật (tôi sẽ đề cập sau), điều này chắc chắn ông Dân cũng biết nên
ông dễ dàng phóng bút theo mà không dám nói sự thật.
Ông Dân nói Trung Cộng đặt đài quan sát
trên đảo, xây dựng doanh trại, và toán người nhái đổ bộ trong ngày cuộc
chiến xảy ra báo cáo là có cả một tiểu đoàn quân Trung Cộng trú đóng,
là không đúng sự thật. Chỉ có một dãy nhà gỗ đang xây cất dở dang. Còn
người nhái không đổ bộ trong ngày cuộc chiến xảy ra và cũng chưa bao giờ
lên được đảo.
Ông Dân viết: « Khi chúng tôi được lệnh
tiến về phía đảo, HQ-10 hình như có vẻ chần chừ vì khoảng cánh giữa
chúng tôi ngày càng xa và hạm trưởng HQ-16 đã nhiều lần thúc dục HQ-10
phải chạy sát nhau hơn » . Đây là chuyện không có. Sự thật, trong trận
chiến HQ-16 tiến một hướng, HQ-10 tiến hướng khác để vào lòng chảo quần
đảo Hoàng Sa chứ không tiến cùng một hướng. Từ đầu đến cuối trận chiến ,
HQ-10 đã làm đúng những gì tôi nói với Hạm trưởng HQ-10 tối hôm 18
tháng 1 năm 1974 trước ngày khai chiến 19 tháng 1 năm1974.
Ông Dân nói việc các chiến hạm hải hành
tập đội để phô trương lực lượng là hoàn toàn không có. Đã đi đánh trận
mà còn phô trương lực lượng thì không còn gì ngớ ngẩn bằng.
Ông Dân nói HQ-4 dùng mũi tàu để ủi tàu
Trung Cộng ra xa đảo Hoàng Sa là chuyện không đúng sự thật và cũng
không thể nào làm như vậy được. Cũng như phóng đồ kế hoạch điều quân của
ông Dân cho thấy HQ-4 và HQ-5 tiến vào lòng chảo để tác chiến cũng là
không thật nữa. Hướng tiến quân của HQ-4, HQ-5 vào lòng chảo chính là
hướng tiến quân của HQ-10. Ông Dân đưa thêm HQ-4, HQ-5 vào cho đủ bộ
thành trật lất. Sự thật là HQ-4 và HQ-5 chỉ ở vòng ngoài chứ không tham
dự trận chiến trong lòng chảo.
Nếu HQ-4 và HQ-5 có mặt trong lòng chảo thì khi HQ-16 và HQ-10 bị trúng đạn thì HQ-4 và HQ-5 làm gì không thấy ông Dân nói đến !
Trên đây là các điểm tôi muốn đính
chính về bài viết của Trung úy Đào Dân. Và sau đây là những gì xảy ra
trong trận chiến mà tôi đã chứng kiến. Trước khi nói đến trận đánh, tôi
xin sơ lược về quần đảo Hoàng Sa.
Quần đảo Hoàng Sa (gọi chung là
Paracels) cách bờ biển Đà Nẵng 180 hải lý về phía đông. Như quí vị thấy
trong bản đồ, quần đảo Hoàng Sa gồm một số đảo ghi trong bản đồ quây
quần nhau làm thành một lòng chảo, muốn vào bên trong lòng chảo đó phải
theo hai lộ trình mà chúng tôi thường gọi là cái « pass ». Một cái ở
giữa đảo Hoàng Sa và đảo Cam Tuyền. Cái kia ở giữa bãi đá ngầm Antelope
và đảo Quang Hòa.
Bản đồ này tỷ lệ xích quá nhỏ nên các
đảo chỉ bằng lóng tay hay chỉ là những dấu chấm. Hoàng đảo Hoàng Sa
không chỉ có bấy nhiêu đảo trong bản đồ mà còn một số đảo khác nữa nằm
rải rác ở phía đông bắc. Những đảo trong bản đồ là những đảo tận cùng
phía nam của quần đảo Hoàng Sa . Nhìn vào bản đồ, quí vị thấy các đảo
rời nhau, có khoảng trống ở giữa, những tàu bè không chạy qua được vì đá
ngầm và san hô ở dưới mặt nước, chỉ ra vào lòng chảo bằng hai cái «
pass » tôi nói ở trên.
Quần đảo Hoàng Sa có đảo lài, có đảo
cao nhưng cũng chỉ cao hơn mặt biển chừng vài chục thước. Các đảo phần
nhiều trơ trụi, hiếm có cây cao, toàn đá lởm chởm, chỗ cao chỗ thấp, ít
có nơi bằng phẳng. Gần bờ thì có đá ngầm, san hô. Hết đá ngầm, san hô
thì biển rất sâu. Đáy biển cũng có đá nên neo tàu không an toàn. Quần
đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa không thể lập căn cứ hải quân được vì
không có chổ ẩn núp cho tàu bè, chỉ có thể lập căn cứ trên đảo mà thôi.
Tất cả các đảo đều không có nước ngọt,
trừ đảo Hoàng Sa mà chúng tôi thường gọi là « đảo khí tượng » vì có đài
khí tượng do người Pháp thiết lập và sau này luôn luôn có nhân viên khí
tượng Việt Nam làm việc cho đến ngày trận chiến Hoàng Sa xảy ra. Người
Pháp xây một hồ chứa nước bên trong nhà, có các máng xối hứng nước mưa
chuyền vào bên trong hồ chứa để dùng cho cả năm.
Trên đảo Hoàng Sa mấy năm đầu tiên có
một trung đội Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ. Về sau vì nhu cầu chiến
trận, Thủy Quân Lục Chiến phải rời đảo và được thay thế bởi Địa Phương
Quân của tiểu khu Quảng Nam. Họ phải ở trên đảo Hoàng Sa vì chỉ đảo này
mới có nước ngọt. Thủy Quân Lục Chiến hay Địa Phương Quân đều được trang
bị xuồng cao su để di chuyển quanh các đảo mà kiểm soát.
Sau khi biết tổng quát vị trí các đảo,
quí độc giả có thể theo dõi diễn tiến trận chiến Hoàng Sa sau đây. Tôi
cũng xin thưa trước là những gì xảy ra tôi không nhớ chính xác giờ giấc,
chỉ phỏng chừng. Nhưng những sự kiện thì xác thực. Ngày giờ và sự kiện
xảy ra đều có ghi trong «nhật ký hải hành» và «nhật ký chiến hạm» nhưng
nay không có thể tham khảo được.
Ngày 15 tháng 1 năm 1974 tàu tôi,
HQ-16, được lệnh ra công tác đảo Hoàng Sa, chở theo một cố vấn Mỹ và một
Thiếu tá bộ binh thuộc Quân đoàn 1 (mà nay tôi không còn nhớ tên).
Tàu khởi hành tối ngày 15 tháng 1 năm
1974 và đến Hoàng Sa sáng 16 tháng 1 năm 1974. Khi đến nơi, Địa Phương
Quân trên đảo thấy tàu đã lái xuồng ra đón viên Thiếu tá Bộ binh lên
đảo. Trong khi chờ đợi đưa Thiếu tá Bộ binh về lại Đà Nẵng, tôi vận
chuyển tàu rời đảo Hoàng Sa ra biển, thả trôi tàu gần đảo Quang Hòa. Tôi
lấy ống nhòm nhìn lên các đảo chung quanh để ngắm nhìn phong cảnh và
tiêu khiển thì giờ.
Khi nhìn lên đảo Quang Hòa thì thấy có
một dãy nhà sườn gỗ còn đang xây cất dở dang, chỉ có sàn nhà, chưa có
mái. Tôi thấy lạ, liền gọi máy về Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải
(BTL/HQ/VIZH) hỏi thì nơi đây hỏi lại tôi là có biết người nào trên đó
không? Tôi trả lời chỉ thấy bốn, năm người di chuyển tới lui nơi dãy nhà
đang xây cất chứ không biết là ai. Họ ăn mặc thường dân, có người ở
trần, nhưng có nhà xây cất thì chắc là người ngoại quốc mà không ai khác
hơn là Trung Cộng, vì cách đảo Quang Hòa chừng 20 hải lý về phía đông
bắc có căn cứ của Trung Cộng, cũng nằm trong quần đảo Hoàng Sa.
HQ-16 vẫn thả trôi tàu để chờ Thiếu tá Bộ binh và chờ lệnh từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải.
Trưa ngày 16 tháng 1 năm 1974 một chiến hạm Trung Cộng xuất hiện trong vùng.
Tối ngày 17 tháng 1 năm 1974 Bộ Tư Lệnh
Hải Quân gởi ra một toán người nhái do HQ-4 chở ra. Toán người nhái này
rời HQ-4 bằng xuồng cao su để lên HQ-16.
Sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974 HQ-5 và
HQ-10 có mặt ở khu vực Hoàng Sa. Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc ở trên HQ-5
là người chỉ huy cuộc chiến.
HQ-5 do Trung tá Phạm Trọng Quỳnh (khoá 11) chỉ huy.
HQ-16 do tôi, Trung tá Lê văn Thự (khoá 10) chỉ huy.
HQ-4 do Trung tá Vũ Hữu San (khoá 11) chỉ huy.
HQ-10 do Thiếu tá Ngụy Văn Thà (khoá 12) chỉ huy.
Khoảng 10 giờ sáng ngày 18 tháng 1 năm
1974 Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho tôi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng
Sa, sau đó cho toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa và một toán của
HQ-16 lên giữ đảo Vĩnh Lạc.
Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo
Hoàng Sa, tôi vận chuyển HQ-16 bên trong lòng chảo để đến gần đảo Quang
Hòa đổ bộ toán người nhái lên đảo thì một tàu Trung Cộng xuất hiện, cản
trước mũi, không cho tàu tôi tiến gần đến đảo (xin xem hình 1).
Tôi phải ngưng máy, vận chuyển để tránh
đụng tàu. Nhưng cả hai tàu cũng cọ vào nhau làm dẹp một số trụ căng dây
an toàn chung quanh tàu Trung Cộng và làm rách bè nổi của tàu Trung
Cộng. Nhờ xáp lại gần, tôi thấy tàu Trung Cộng số hiệu 271, dài chừng 70
mét, có súng tương đương với súng 76.2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên
12.7 của tàu tôi. Tàu Trung Cộng nhỏ hơn tàu tôi nhưng vận chuyển nhanh
nhẹn hơn.
Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc những gì
xảy ra. Sau đó tôi lái tàu ra khỏi lòng chảo và đổ bộ toán người nhái
vào mặt ngoài biển (mặt nam) của đảo Quang Hòa vào chiều ngày 18 tháng 1
năm 1974.
HQ-16 chỉ ở cách xa bờ một, hai hải lý
rồi người nhái thả xuồng cao su có trang bị máy mà chạy vào bờ chứ HQ-16
không thể vào sát bờ được vì đá ngầm và san hô. Toán người nhái rời tàu
chừng non một tiếng thì gọi máy báo cáo là ở trong bờ bắn ra. Tôi hỏi
người liên lạc máy là có thấy người ở trên bờ không và các anh đã lên
được bờ chưa? Họ trả lời là đang lội nước ngang ống chân, còn vài chục
thước nữa mới tới bờ. Họ cũng cho biết là không thấy người trên bờ.
Vài phút sau thì nghe báo cáo là một
Thiếu úy người nhái bị bắn chết. Họ xin rút lui vì không thể vào bờ an
toàn được. Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc và xin cho người nhái rút lui.
Toán người nhái đã trở về lại HQ-16.
Chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974, khoảng 6
giờ, Đại tá Ngạc gọi máy cho tôi và ra lệnh cho tôi chỉ huy HQ-10, bằng
mọi giá phải đổ bộ cho được toán người nhái lên đảo Quang Hòa. Sau khi
đại tá Ngạc ra lệnh này xong, thì từ đó về sau tôi không còn nghe lệnh
lạc gì thêm từ Đại tá Ngạc nữa.
Đến tối ngày 18 tháng 1 năm 1974 máy
liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung Cộng phá rối tần số, không liên
lạc được. Tôi không thể gọi Đại tá Ngạc, HQ-4 hay bộ tư lệnh Hải Quân
Vùng I Duyên Hải. Tôi chỉ liên lạc được với HQ-10 bằng máy PRC-45 là
loại máy truyền tin xách tay, chỉ liên lạc được trong vòng 10 hải lý.
Sau khi nhận lệnh, tôi nghĩ chỉ còn
cách đổ bộ toán người nhái vào ban đêm mới may ra lên được đảo, nhưng
chưa chắc toán người nhái đã vào trót lọt được vì có thể tàu Trung Cộng
theo dõi và liên lạc chỉ điểm cho người của họ trên đảo canh chừng để
bắn khi người nhái vào bờ. Ngoài ra thức ăn, nước uống không có, làm sao
toán người nhái có thể hoạt động lâu hơn một ngày được, và ít nhất cũng
phải có một tiểu đội hay trung đội Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ gần bờ yểm
trợ cho toán người nhái khi họ rút lui nếu bị phát hiện hay khi gặp lực
lượng địch mạnh hơn. Vì thế, muốn thi hành lệnh của Đại tá Ngạc, tôi
nghĩ chỉ còn cách là phải tiêu diệt tàu Trung Cộng trước rồi mới tính
chuyện đổ bộ người nhái lên đảo sau.
Lúc này phía Trung Cộng xuất hiện thêm hai chiếc tàu nữa cùng loại với chiếc đã có trước.
Tôi gọi Thiếu tá Thà HQ-10 và nói ý
định của tôi: Đêm nay HQ-16 và HQ-10 ra thật xa đảo, làm tối chiến hạm
(không cho ánh sáng lọt ra ngoài) để tàu Trung Cộng không biết chúng tôi
ở đâu. Sáng mai (19 tháng 1 năm 1974) sẽ tiến vào lòng chảo. HQ-16 vào
cái “pass” gần đảo Hoàng Sa, HQ-10 vào cái “pass” gần đảo Quang Hòa (xin
xem hình 2).
Tôi cũng nói với Thiếu tá Thà là anh
cũng như tôi, phải cố gắng hết sức mình. Nếu một trong hai đứa mà loạng
quạng, chỉ còn lại một, thì bọn chúng (ba chiếc tàu Trung Cộng) xúm lại,
mình không thể nào chống nổi.
Đêm hôm đó (18 tháng 1 năm 1974) khoảng
nửa đêm, tôi tập họp thủy thủ đoàn HQ-16 để thông báo ngày mai sẽ tiến
vào đánh tàu Trung Cộng. Tôi cũng nói với thủy thủ đoàn là tất cả mọi
người phải can đảm, cố gắng hết sức mình, ai làm phần việc của mình cũng
phải nhanh nhẹn, chính xác mới mong thắng và còn sống. Nhất là các ổ
súng và toán phòng tai phải lo chuẩn bị trước, xem xét lại súng ống, đạn
nước phải đem từ hầm đạn lên để sẵn ở các ụ súng, ống nước cứu hoả phải
trải sẵn ra. Máy bơm nước phải sẵn sàng.
Sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974 HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo như dự định.
Tôi gọi máy cho Thiếu tá Thà và nói là nếu chừng nào thấy tôi khai hỏa là phải khai hỏa theo liền.
Khi HQ-16 và HQ-10 qua khỏi hai cái
“pass” và vừa tầm súng, tôi quay ngang tàu HQ-16 đưa phía hữu hạm của
HQ-16 hướng về ba tàu Trung Cộng. Mục đính của tôi là để tận dụng tất cả
súng từ mũi ra sau lái. Nếu hướng mũi tàu về phía tàu Trung Cộng thì
chỉ sử dụng được hỏa lực ở phía trước mũi thôi.Với lợi thế sử dụng tối
đa hỏa lực nhưng cũng có cái bất lợi là hứng đạn của địch nhiều hơn.
Nhưng vì tôi đánh phủ đầu tàu Trung Cộng nên phải sử dụng tối đa hỏa
lực. So với tàu Trung Cộng, tàu tôi có đủ loại súng tàu Trung Cộng có,
ngoài ra còn có thêm khẩu 127 ly mà tàu Trung Cộng không có. HQ-10 chỉ
có hỏa lực ngang bằng tàu Trung Cộng.
Khi đang tiến vào lòng chảo, tôi đã
mừng thầm khi thấy ba tàu Trung Cộng đều ở trong lòng chảo, tức là những
mục tiêu tốt cho HQ-16 và HQ-10 tác xạ. Nếu chúng ở rải rác, chiếc
trong chiếc ngoài lòng chảo thì tôi cũng chưa biết tính sao vì tàu Trung
Cộng tuy nhỏ nhưng linh động hơn, nếu chúng ra ngoài biển thì khó bắn
trúng hơn vì nó nhỏ và chạy nhanh, còn tàu tôi lại là mục tiêu tốt cho
tàu Trung Cộng vì to con nên nặng nề, chậm chạp nên dễ lãnh đạn hơn.
Nhưng nay thì cả ba tàu địch bị vây trong vòng chảo vì hai cái “pass” đã
bị HQ-16 và HQ-10 chặn rồi.
Khi đã ở đúng vị trí và vị thế dự định
(xin xem hình 2), HQ-16 cách HQ-10 chừng một hải lý, hai tàu HQ-16 và
HQ-10 cách ba tàu Trung Cộng từ 3 đến 4 hải lý, tôi ra lênh lần chót:
các ổ súng phải luôn luôn theo dõi mục tiêu, mục tiêu nào thuận lợi thì
bắn mục tiêu đó. Sau khi hỏi tất cả các ổ súng đã sẵn sàng chưa, tôi ra
lệnh khai hỏa.
HQ-16 và HQ-10 đứng yên một chỗ còn ba
tàu Trung Cộng di chuyển loanh quanh sát vòng cung lòng chảo gần đảo Duy
Mộng và bắn trả chúng tôi.
Tôi hy vọng trong 5,10 phút là triệt hạ
được tàu Trung Cộng vì khai hỏa trước và sử dụng tối đa hỏa lực trong
khi tàu Trung Cộng bị tấn công bất ngờ vì ngày hôm trước, tàu tôi bị họ
chặn, tôi bỏ đi mà không có gì xảy ra nên họ không ngờ rằng tôi sẽ tấn
công họ.
Mười phút trôi qua mà chưa thấy tàu
Trung Cộng hề hấn gì, tôi bắt đầu sốt ruột, trong khi đó tôi nghe tiếng
lách tách, lép bép trên trời như tiếng pháo bông, giữa tàu tôi và HQ-10
và về phía HQ-10 nhiều hơn. Tôi nghĩ chắc là đạn thời chỉnh tức là đạn
tự động nổ mà không cần chạm mục tiêu. Trận chiến vẫn tiếp tục. Chừng
khoảng phút thứ 20 hay 30, tôi thấy một tàu Trung Cộng bốc khói, một tàu
khác có thể bị trúng đạn làm hư hệ thống tai lái nên tàu cứ xoay quanh
như gà trống chạy lòng vòng trước khi đạp mái.
Tiếp đến HQ-10 báo cáo Hạm trưởng bị
thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay quyền chỉ huy, đồng thời đặt ống
nhòm nhìn sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ cháy ở đài chỉ huy có thể
dập tắt được bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan sát phía sau lái
HQ-10 tôi thấy 4, 5 cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi không biết
chuyện gì xảy ra trên HQ-10 vì không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán
chừng vì Hạm trưởng bị thương nặng nên HQ-10 như rắn mất đầu. Một số nhỏ
nhát gan sợ tàu cháy hay trúng đạn nổ nên đã nhảy xuống biển. Nhưng
HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng bằng, không nghiêng một chút nào cả.
Sau đó hầm máy hữu HQ-16 báo cáo trúng
đạn ở lườn tàu dưới mặt nước. Nước tràn vào tàu.Trung sĩ điện khí Xuân
bị thương. Nhân viên cứu hỏa tìm cách bít lỗ thủng. Chừng vài phút sau,
tàu bắt đầu nghiêng. Hầm máy báo cáo lỗ thủng bít không được vì nước vào
quá mạnh, chỗ thủng nằm trong kẹt không có chỗ cho nhân viên cứu hỏa xử
dụng đà chống để chặn tấm bố và tấm gỗ bít lỗ thủng. Nước ngập đến đầu
gối. Tôi ra lệnh nếu không bít được lỗ thủng thì đóng nắp hầm máy lại
đừng cho nước chảy ra khỏi hầm máy. (Tôi nhớ hầm máy hữu trúng đạn mà
trong bài viết của ông Dân thì lại viết là hầm máy tả !).
Tàu chỉ còn một máy tả và một máy điện,
phòng vô tuyến liên lạc truyền tin bị gián đoạn vì mất điện. Nhận thấy
tình thế không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, tôi vận chuyển tàu quay
trở ra theo cái “pass” đẻ rời lòng chảo.
Tàu mỗi lúc một nghiêng thêm (trên 10°)
và chỉ còn một máy nên vận chuyển rất khó khăn. Hầm máy hữu báo cáo
nhân viên phải rời hầm máy vì tàu sắp chìm.
Thấy độ nghiêng của tàu đến mức gần hết
độ an toàn, có thể tàu sẽ lật, nên tôi ra lệnh: toàn thể nhân viên vào
nhiệm sở đào thoát vì sợ họ không còn thì giờ đào thoát kịp. Ra lệnh
xong, tôi nắm lấy tay lái tiếp tục lái thay cho nhân viên ra nhiệm sở.
Trong khi tôi đang lái thì Đại úy Hiệp,
cơ khí trưởng, chạy lên đài chỉ huy, nói với tôi: “Vì sao hạm trưởng
cho nhiệm sở đào thoát? Tôi đang ráng làm cân bằng tàu”. Tôi nói là tàu
mỗi lúc một nghiêng thêm, không biết sẽ lật chìm lúc nào nên phải chuẩn
bị đào thoát.
Lúc này tàu nghiêng đã đến độ bão hòa
(không nghiêng thêm nữa) vì nước đã vào đầy hầm máy. Tôi cho giải tán
nhiệm sở đào thoát và vào lại nhiệm sở tác chiến. Lúc này ở đài chỉ huy
có Trung úy Đoàn Viết Ất, tôi nói với Trung úy Ất: “Tàu nghiêng như thế
này, khó mà lái ra biển an toàn được, chắc tôi phải ủi tàu vào đảo khí
tượng (đảo Hoàng Sa) để cố thủ và chờ HQ-4, HQ-5 tiếp viện”.
Trung úy Ất nói với tôi: “Xin Hạm
trưởng đừng ủi tàu vào đảo khí tượng. Mình sẽ bị Trung Cộng bắt làm tù
binh. Làm tù binh Trung Cộng thì kể như chết rục xương trong tù, không
còn thấy cha mẹ, vợ con, quê hương xứ sở. Xin Hạm trưởng cứ lái ra biển.
Tàu có chìm thì đào thoát vẫn còn cơ may sống sót. Nếu chết thì chết
trên biển vẫn sướng hơn”.
Bây giờ viết lại câu nói này của Trung
úy Ất tôi vẫn còn xúc động đến chảy nước mắt. Nghe Trung úy Ất nói, tôi
suy nghĩ thêm: Nếu tôi cứ ủi vào đảo khí tượng thì cũng không thể nào ủi
sát vào bờ được vì gần bờ đá ngầm rất nhiều. Nếu ủi, tàu sẽ mắc cạn,
lườn tàu sẽ bị đá ngầm rạch nát, nước sẽ vào thêm, tàu sẽ hoàn toàn tê
liệt mà thủy thủ đoàn cũng không thể nào lên đảo được. Do đó tôi tiếp
tục lái tàu ra khỏi “pass” đồng thời ra lệnh nhân viên hướng súng về
đằng sau và về phía quần đảo Hoàng Sa canh chừng tàu Trung Cộng truy
kích theo.
Khi rời Hoàng Sa, tôi hết sức ân hận đã
bỏ lại trên đảo một toán nhân viên 8 người do Trung úy Liêm chỉ huy khi
có lệnh đưa nhân viên lên giữ đảo. Trung uý Liêm và toán nhân viên sau
đó đã mạo hiểm vượt biển bằng bè vì không muốn Trung Cộng bắt làm tù
binh. Sau hơn mười ngày lênh đênh trên biển, bè trôi về tận ngoài khơi
Qui Nhơn, được ngư phủ cứu và đưa vào bệnh viện Qui Nhơn cấp cứu. Họ
vượt biển mà không chuẩn bị thức ăn nước uống nên Hạ sĩ quản kho Nguyễn
Văn Duyên đã chết vì kiệt sức khi đưa vào Qui Nhơn.
Ra khỏi “pass” tôi hướng tàu về Đà
Nẵng, lúc này khoảng 5 – 6 giờ chiều ngày 19 tháng 1 năm 1974. Tàu chỉ
còn một máy và nghiêng nên chạy chậm. Khi trời bắt đầu tối, tàu cách
Hoàng Sa chừng 15 hải lý. Lúc này tôi mới thở ra nhẹ nhõm vì chắc tàu
Trung Cộng cũng bị thương tích cả người lẫn tàu nên không truy kích tàu
tôi.
Bây giờ mối lo khác lại đến với tôi là
tàu có thể lật chìm bất cứ lúc nào nếu có sóng chếch xuôi rất dễ làm tàu
lật. Tôi cho nhân viên chuẩn bị các bè nổi, xem xét lại cách xử dụng để
khi hữu sự thì làm cho nhanh chứ khi tàu lật thì không có thì giờ mà mò
mẫm.
Lúc này hệ thống truyền tin vừa được
sửa chữa xong. Nhân viên vô tuyến báo cáo tình trạng chiến hạm về Bộ Tư
lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, nhưng không thấy HQ-4 và HQ-5 lên tiếng.
Một tin làm bàng hoàng mọi người trên
chiến hạm là Trung sĩ Điện khí Xuân trút hơi thở cuối cùng vì vết thương
quá nặng mà không được săn sóc đúng mức.
Đại úy Hiệp mang họa đồ chiến hạm các
khoang hầm trên tàu lên đài chỉ huy cho tôi biết đã làm cân bằng tàu
bằng cách bơm nước và dầu từ hầm này sang hầm khác và dồn về phía tả
hạm, nhưng tàu cũng không bớt nghiêng bao nhiêu. Đại úy Hiệp nói: “Bây
giờ chỉ còn cách bơm xả nước ngọt và dầu ra biển may ra mới làm tàu bớt
nghiêng”. Xả nước ngọt và dầu ra biển thì tôi rất ngại mà cũng không
chắc là khi xả xong tình trạng có khá hơn không hay lại tệ hơn vì phải
biết trọng tâm con tàu trước và sau khi xả nằm ở đâu rồi mới dám làm.
Học môn lý thuyết thuyền bè trong
trường Hải Quân nhưng ra trường lâu ngày và gặp lúc hữu sự, lại không
còn nhớ cách tính trọng tâm con tàu nên tôi không dám bảo Đại úy Hiệp
làm và giữ nguyên tình trạng như vậy mà chạy về Đà Nẵng. Cũng may nhờ
biển rất êm nên không có gì xảy ra.
Sáng 20 tháng 1 năm 1974, khoảng 7 – 8
giờ, tàu vào vịnh Tiên Sa Đà Nẵng nhưng tôi không vận chuyển cặp cầu
được. Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải phải xin tàu dòng từ Ty
Thương Cảng Đà Nẵng, kẹp ngang hông HQ-16 mà cặp cầu quân cảng Đà Nẵng.
Cặp cầu xong, Thủy xưởng Đà Nẵng sang
bơm dầu, nước ngọt ra, làm nhẹ tàu cho tàu nổi lên rồi tìm cách bít tạm
lỗ thủng dưới nước (do người nhái lặn xuống nước mà bít, tôi nhớ như vậy
không biết có đúng không?). Sau đó bơm nước ngập hầm máy ra và hàn lại
lỗ thủng ở hầm máy.
Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I
Duyên Hải xin toán tháo gỡ đạn dược từ Quân đoàn I sang để tháo gỡ viên
đạn còn nằm lại trên tàu. Viên đạn được bắn vòng cầu, rơi xuống nước
gần HQ-16, do tốc độ của viên đạn nên khi xuống nước gặp sức cản của
nước, viên đạn không đi thẳng xuống nước mà bị lệch hướng rồi đâm vào
lườn tàu HQ-16 dưới mặt nước. Viên đạn vẫn còn tốc độ di chuyển, xướt
qua một góc máy điện, xuyên đứt tay Trung sĩ điện khí Xuân kế đó rồi
chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm ở đó. May là viên đạn
không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ!
Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn
dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn “made in USA” và cỡ 127 ly. Sau
này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn.
Sau khi sửa chữa xong, sơn phết lại,
làm sạch sẽ, chiến hạm HQ-16 được lệnh về Sài Gòn làm lễ tiếp đón chiến
hạm trở về từ Hoàng Sa. Phần thượng tầng kiến trúc của chiến hạm bị lỗ
chỗ các lỗ thủng do đạn 40 ly và 20 ly bắn vào vẫn để y nguyên, mục đích
cho dân chúng Sài Gòn ai tò mò muốn xem chiến hạm dự trận Hoàng Sa về
ra sao, khi lên tàu xem sẽ thấy dấu tích còn để lại trên tàu. Tàu cặp
cầu B ở bến Bạch Đằng.
Trong buổi lễ tiếp đón, tôi cùng 4 – 5
nhân viên được Tư Lệnh Hải quân gắn huy chương. Sau buổi lễ dân Sài Gòn
được lên xem tàu.Và phóng viên BBC là ông Tôn Thất Kỳ phỏng vấn tôi. Ông
hỏi tôi có thấy máy bay phản lực Trung Cộng dự chiến trong trận Hoàng
Sa không? Tôi trả lời là tôi không thấy.
Ngày hôm sau, Khối Chiến Tranh Chính
Trị Bộ Tư Lệnh Hải Quân (lúc đó Đại tá Trần Văn Triết làm trưởng khối
thì phải), phái một Thiếu úy hay Trung úy (mà tôi không nhớ tên hay cấp
bậc), xuống HQ-16. Anh ta nói với tôi “Tại sao Hạm trưởng trả lời phỏng
vấn đài BBC là không thấy phản lực cơ Trung Cộng?”
Tôi trả lời vị sĩ quan đó: “Anh về nói
lại trên Bộ Tư Lệnh là tôi không thấy nên tôi trả lời không có. Nếu Bộ
Tư Lệnh muốn tôi nói có thì phải báo trước cho tôi biết”.
Tôi nghĩ nguồn tin này do Đại tá Ngạc
báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân nên Bộ Tư Lệnh Hải Quân muốn tôi trả lời
phỏng vấn cho phù hợp với nguồn tin. Cũng như Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ
Tư Lệnh Hải Quân: HQ-10 và HQ-16 mất tích.
Lúc HQ-16 về Sài Gòn, tôi nghe nói lại
(không biết có đúng không) là khi nhận được tin HQ-16, HQ-10 mất tích,
Đại tá Võ Sum, Trưởng khối Truyền tin Hải quân, đã dùng con lắc (một
loại dụng cụ cảm ứng) để xem thử HQ-16 còn hay mất. Tôi không nghe nói
kết quả của việc dùng con lắc này.
2. II
Sau khi trình bày chi tiết những gì xảy ra trong trận Hoàng Sa, tôi xin nêu lên những nhận xét của tôi về trận chiến này:
1. Trong trận Hải chiến Hoàng Sa, Hải
Quân Việt Nam không có loại tàu thích hợp cho trận chiến. HQ-5, HQ-16,
HQ-10 là loại tàu cồng kềnh, vận chuyển chậm, súng quay bằng tay nên
theo dõi mục tiêu khó khăn cũng như nhịp bắn chậm. Chỉ có HQ-4 là tối
tân nhất, các súng đều sử dụng bằng điện, tốc độ bắn nhanh, radar có tầm
xa, vận tốc chiến hạm cao. Nhưng HQ-4 lại không xung trận.
Lúc trước sở phòng vệ Duyên Hải ở Đà
Nẵng có loại tàu PT chuyên đi bắn phá phía bắc vĩ tuyến 17 là loại chiến
hạm thích hợp với trận chiến Hoàng Sa. Nhưng tôi nghe nói Hoa Kỳ đã thu
hồi lại loại tàu này khi họ rút quân khỏi Việt Nam, trước ngày trận
chiến Hoàng Sa xảy ra.
2. Không có kế hoạch hành quân. Kể từ
khi có mặt ở Hoàng Sa, tôi chỉ có biết một lệnh duy nhất từ Đại tá Ngạc
qua máy âm thoại, chỉ định tôi chỉ huy HQ-10 và có nhiệm vụ phải đổ bộ
toán người nhái, mà trong bài viết của ông, ông gọi là Biệt Đội Hải
Kích, lên đảo Quang Hòa bằng bất cứ giá nào. Ngoài ra tôi không biết gì
về hoạt động của HQ-4 và HQ-5 cũng như nhiệm vụ của họ.
Gần đây đọc bài “Tường Thuật Trận Hải
Chiến Lịch Sử Hoàng Sa” của Đại tá Ngạc, tôi mới biết là ông chia bốn
chiến hạm thành hai phân đoàn:
· Phân đoàn I gồm HQ-4 và HQ-5 (Đại tá Ngạc ở trên HQ-5), do Hạm trưởng HQ-4 chỉ huy là nổ lực chính.
· Phân đoàn II gồm HQ-10 và HQ-16 do Hạm trưởng HQ-16 chỉ huy là nổ lực phụ.
Nội việc chỉ định Hạm trưởng HQ-4 chỉ
huy Phân đoàn I là sai nguyên tắc chỉ huy, vì Đại tá Ngạc ở trên HQ-5,
như vậy thì Hạm trưởng HQ-4 (Trung tá Vũ Hữu San) chỉ huy luôn cả Đại tá
Ngạc sao? Đại tá Ngạc là người chỉ huy trận chiến thì phải kiêm luôn
chỉ huy Phân đoàn I mới đúng. Suốt trận chiến, HQ-4 và HQ-5 làm gì tôi
không được biết. Và cho đến lúc rời Hoàng Sa về Đà Nẵng, tôi chẳng thấy
HQ-4 và HQ-5 đâu.
Sau trận chiến, tôi thấy phải đổi lại
Phân đoàn I (gồm HQ-4 và HQ-5) là nỗ lực phụ. Phân đoàn II (gồm HQ-10 và
HQ-16) mới đúng vì Phân đoàn II trực chiến với tàu Trung Cộng trong
lòng chảo, trong khi Phân đoàn I chỉ ở bên ngoài “wait and see”. Và vì
quá lo sợ Trung Cộng nên tin chắc thế nào Phân đoàn II cũng bị đánh
chìm, Đại tá Ngạc mới ra lệnh HQ-5 bắn vào lòng chảo 5-7 phát trước khi
rút lui. Tôi không trách HQ-4 và HQ-5 vì họ chịu sự điều động của Đại tá
Ngạc.
Vì không có kế hoạch hành quân nên máy truyền tin bị Trung Cộng phá rối không liên lạc được mà không có tần số dự trù thay thế.
3. Muốn thanh toán quân Trung Cộng trên
đảo (tôi nghĩ không nhiều, chừng một tiểu đội) mà dự định đổ bộ một
toán người nhái 9, 10 người thì khó mà thành công. Phải có 1, 2 tiểu đội
Thủy Quân Lục Chiến tăng cường yểm trợ mới được. Cần thêm xuồng cao su
để đổ bộ quân, tiếp tế lương thực, nước uống và vật dụng.
4. Ra lệnh đưa quân lên giữ đảo mà
không cung cấp lương thực, nước uống đầy đủ. Thủy thủ đoàn không có kinh
nghiệm tác chiến trên bộ, chỉ có súng cá nhân và một ít đạn bắn chừng
nửa tiếng là hết, làm sao giữ được đảo. Nếu chiến hạm bận tác chiến hay
bị thiệt hại thì số quân nhân đưa lên đảo phải bị bỏ rơi như trường hợp
HQ-16. Đúng là lệnh lạc kiểu mang con bỏ chợ. Phải có kế hoạch đưa Bộ
binh hay Thủy Quân Lục Chiến giữ đảo và phải có kế hoạch tiếp tế.
5. Không có bác sĩ trên chiến hạm, chỉ
có y tá không kinh nghiệm cứu thương cũng như ngoài khả năng của họ nên
ai bị thương thì khó mà sống sót.
6. Trận chiến Hoàng Sa rất giản dị,
chẳng có chiến thuật gì rắc rối, phức tạp cả. Tôi chỉ khai thác sơ hở
của ba chiến hạm Trung Cộng tập trung một chỗ trong lòng chảo để tấn
công. Nếu thủy thủ đoàn HQ-10 và HQ-16 có kinh nghiệm tác xạ, HQ-16
không bị trúng đạn của HQ-5 và Hạm trưởng HQ-10 không bị thương thì chắc
chắn ba tàu Trung Cộng phải bị đánh chìm. Tôi còn nghi vấn về Hạm
trưởng HQ-10 bị thương là do đạn thời chỉnh của Trung Cộng hay của HQ-4,
HQ-5 ?
7. Sau trận chiến, Bộ Tư Lệnh Hải Quân
hay ít nữa là Bộ Tư Lệnh Hạm Đội cần có một buổi hội gồm các cấp chỉ huy
các đơn vị tham dự trận chiến để mỗi người trình bày những hoạt động
của đơn vị mình, nói lên những nhận xét để rút kinh nghiệm học hỏi, cùng
những đề nghị nếu được áp dụng thì trận chiến sẽ có kết quả tốt hơn để
mọi người cùng thảo luận. Đằng này mọi chuyện đều cho trôi xuôi luôn.
–—
Bài viết của tôi đến đây xem như đã
trình bày xong trận chiến Hoàng Sa, nhưng cũng xin nối tiếp thêm bài
viết “Tường thuật trận hải chiến lịch sử” của Đại tá Hà Văn Ngạc.
Toàn bài viết của Đại tá Ngạc từ đầu
đến cuối là sai sự thật. Những điều ông nói khó mà kiểm chứng. Chỉ những
người ở trên HQ-4, HQ-5, HQ-10 và HQ-16 mới thấy là hoàn toàn do óc
tưởng tượng dàn dựng ra. Tôi chỉ nêu lên một số chi tiết mà tôi thấy vô
lý hoặc có liên hệ đến tôi mà sai sự thật.
Ông viết: “Bất thần về phía đông vào
khoảng 11 giờ 25 sáng, cách xa chừng 8 đến 10 hải lý, xuất hiện một
chiến hạm của Trung Cộng loại có trang bị mỗi bên một giàn phóng kép hỏa
tiễn loại hải – hải đang tiến vào vùng giao tranh”. Cách xa chừng 8 đến
10 hải lý khó mà thấy được mỗi bên một giàn phóng hỏa tiễn. Chỉ tưởng
tượng thôi!
Sau đó cũng chẳng thấy ông nói đến
chiến hạm Trung Cộng này làm gì. Ngoài ra ông còn lo sợ cả phản lực cơ
và tiềm thủy đỉnh Trung Cộng. Vì quá lo sợ nên không còn tinh thần để
chiến đấu nữa. Ông Ngạc viết: “Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng 1, 1974
thì hai chiến hạm Phân đoàn I về tới căn cứ an toàn. Tuần dương hạm
HQ-16 cũng đã về bến trước đó ít lâu …”.
Sự thực, sáng ngày 20 tháng 11 năm
1974, HQ-16 về đến quân cảng Đà Nẵng và sau đó chẳng thấy HQ-4 và HQ-5 ở
Đà Nẵng. Chỉ một mình tôi lên trình diện Tư Lệnh Phó Hải Quân trong
phòng hội của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải để trả lời những câu
hỏi liên quan đến tổn thất giữa địch và ta trong trận chiến.
Ông Ngạc viết: “Sau khi di tản các
chiến sĩ thương vong và tử vong lên căn cứ thì chỉ có ba vị Đô đốc cùng
Hải Quân Đại tá Nguyễn Viết Tân, chỉ huy trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải
lên Tuần dương hạm HQ-5 và vào phòng Hạm trưởng để dự cuộc thuyết trình
về trận đánh. Ba vị Hạm trưởng (HQ-5, HQ-16 và HQ-4 – ghi chú của người
viết) đều có mặt để trình bày chi tiết về chiến hạm của mình .v.v…”.
Tôi (Hạm trưởng HQ-16) đâu có mặt trên HQ-5 như Đại tá Ngạc viết.
Trong bài của ông có viết HQ-4, HQ-5 bị
trúng đạn, thiệt hại khá nhiều, định chạy về Subic Bay Phi Luật Tân để
xin Hoa Kỳ sửa chữa.
Sự thật HQ-4 và HQ-5 chẳng bị trầy một
mảnh sơn nào cả. Cả Hải quân đều biết. Vì thế cho nên chỉ một mình HQ-16
được tiếp đón ở Sài Gòn và gắn huy chương chứ không có Đại tá Ngạc hay
HQ-4 và HQ-5.
Trong bài viết “Biển Đông dậy sóng” của
ông Trần Bình Nam, có câu: “Đại tá Ngạc biết có một cái gì đó sau lưng
trận đánh nên đã dè dặt đôi lời trước khi viết rằng, … vân vân …”. Cái
gì sau lưng đó, nay được ông Trần Bình Nam nói ra: Đó là chuyến công du
Trung Quốc ngày 10 tháng 11 năm 1973 của ông Henry Kissinger mà nội dung
ghi lại trong cuốn hồi ký chính trị “Years of Upheaval” và được ông
Trần Bình Nam trích ra trong bài viết của ông ta. Đại khái là Hoa Kỳ bắt
tay với Trung Cộng để chống lại Nga Sô và qua một vài câu dẫn chứng,
ông Trần Bình Nam kết luận có lẽ có sự thỏa thuận giữa Mao, Chu và
Kissinger để Trung Quốc chiếm quần đảo Paracels của Việt Nam Cộng Hòa.
Ông Trần Bình Nam viết: “Một tháng sau
khi ông Kissinger rời Bắc Kinh, hải quân Trung Quốc lén lút đổ bộ quân
lên chiếm một số đảo trong quần đảo Paracels và vân vân …” Phần tiếp
theo của đoạn này chỉ dựa vào những chi tiết sai sự thật trong bài viết
“Tường thuật trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa” của Đại tá Ngạc. Như trước
ngày trận chiến xảy ra, quân Trung Cộng đã chịu rời đảo mà họ đã chiếm
khi có quân từ các chiến hạm Việt Nam đổ bộ chiếm lại đảo (Trung Cộng
chỉ chiếm một đảo duy nhất là đảo Quang Hòa. Còn quân từ các chiến hạm
chỉ đổ bộ lên các đảo không có quân Trung Cộng như đảo Cam Tuyền, Vĩnh
Lạc. Toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa nhưng bị bắn nên phải rút
ra – lời người viết).
Những điều ông Trần Bình Nam viết chỉ
là những phỏng đoán, chẳng có gì chứng tỏ được Hoa Kỳ ngầm thỏa thuận
cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Ngược lại, theo nhận xét của tôi, khi dự
trận chiến Hoàng Sa, tôi thấy Trung Cộng rất dè dặt trong việc xâm chiếm
Hoàng Sa. Trước sau họ chỉ đưa ra vỏn vẹn có ba chiến hạm không thuộc
loại tối tân, có thể vì họ ngần ngại có sự can thiệp của Hoa Kỳ. Họ
không đưa ra một lực lượng hùng hậu để đánh chiếm Hoàng Sa vì họ sợ nếu
Hoa Kỳ phản ứng thì sẽ thành lớn chuyện khó xử. Ngoài ra họ còn sợ dư
luận thế giới nữa.
Ông Trần Bình Nam nói, nhờ Hoa Kỳ can
thiệp nên Trung Cộng đã nhanh chóng trao trả (qua ngả Hồng Kông) số quân
nhân và dân chính trên đảo Hoàng Sa cùng một số ít thủy thủ đoàn của
HQ-10 còn sống sót. Tôi không chắc có phải do Hoa Kỳ can thiệp không.
Theo tôi, Trung Cộng đã chiếm được đảo Hoàng Sa rồi thì sá gì mấy chục
mạng người mà không trao trả. Giữ để làm gì? Không cần Hoa Kỳ can thiệp
họ cũng tự động dàn xếp để trao trả, vừa được tiếng nhân đạo vừa xoa dịu
sự công phẫn của dân chúng Miền Nam Việt Nam và có thể của cả dư luận
thế giới nữa.
Có sự bắt tay giữa Hao Kỳ và Trung Cộng
để hai bên rảnh tay chống lại Nga Sô nhưng không chắc có sự thỏa thuận
của Hoa Kỳ để Trung Cộng chiếm Hoàng Sa. Có thể một trong những lý do
Trung Cộng chiếm Hoàng Sa là để thăm dò mức độ hợp tác giữa Hoa Kỳ và
Trung Cộng sau khi đã ngầm bắt tay nhau. Trung Cộng chỉ cần đưa tới
Hoàng Sa ba chiếm hạm để thăm dò vừa Hoa Kỳ vừa Việt Nam Cộng Hòa.
Nếu Việt Nam Cộng Hòa sợ oai hùm của
anh khổng lồ mà tháo lui thì họ không còn gì mong đợi hơn nữa. Còn nếu
Việt Nam Cộng Hòa tận lực bảo vệ về đánh thắng họ thì họ sẽ chờ lúc
khác, chắc cũng không lâu, nếu Hoa Kỳ không tỏ thái độ trong lần này.
Còn giả sử nếu có sự thỏa thuận của Hoa Kỳ để Trung Cộng chiếm Hoàng Sa
đi nữa thì dân nước Việt chúng ta có đánh hay không?
Nếu có ai hỏi Đại tá Ngạc hay ông Trần
Bình Nam là những người thức thời, nhìn xa hiểu rộng, thì tôi chắc hai
người này sẽ dõng dạc công khai tuyên bố: “phải đánh”. Còn đánh như thế
nào, đồng tâm hiệp lực mà đánh hay đánh chiếu lệ, nửa nạc nửa mỡ, xem
đồng đội như vật hy sinh, thì cái đó không phải là chuyện công khai …
Lê Văn Thự
March 2004
2004-04-28 11:57:30
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét