Việt
Nam Cộng Hòa bỏ mặc Hoàng Sa cho Trung Cộng thoải mái chiếm đóng. Không
có nỗ lực quân sự nào nhằm khôi phục lãnh hải. Không có nỗ lực ngoại
giao nào đưa vấn đề ra Liên Hiệp Quốc, đưa kiến nghị tới SEATO và các
quốc gia ký kết Định Ước Ba Lê...
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai (trái) đãi tiệc Tổng thống Mỹ Richard Nixon (giữa) trong chuyến thăm lịch sử năm 1972 - Ảnh: Corbis
Biến
cố Hoàng Sa xảy ra cách nay đã tròn 40 năm (1974-2014). Trong biến cố
này, người viết đã bị sa cơ vào tay Trung Cộng và bị giữ tại Trại Thu
Dung Tù Binh huyện Huyền Hóa, tỉnh Quảng Đông, thành phố Quảng Châu đúng
4 tuần lễ (bị bắt ngày thứ bảy và trả về cũng ngày thứ bảy 4 tuần sau)
sau khi lênh đênh trên biển trong vùng lãnh hải Hoàng sa chỉ có 4 ngày.
Tuy
đã 40 năm nhưng mọi sự kiện vẫn như in, tưởng như đang diễn tiến từng
giây từng phút, mặc dầu vài chi tiết nhỏ nhặt về thời gian có thể không
chính xác, vì tuổi tác gặm nhấm trí nhớ khiến đôi lúc cũng hay lang
thang đâu đó.
Viết
lại biến cố Hoàng sa với tiêu đề HOÀNG SA NỔi SÓNG là vì sau trận hải
chiến, khi trở về, người viết có ghi lại từng chi tiết trận đánh trong
một cuốn hồi ký hơn 300 trang đặt tựa đề là HOÀNG SA NỔI SÓNG, nhưng
tiếc thay tập hồi ký đã bị hẩm hiu nằm trong xó tủ vì Bộ Thông Tin Dân
Vận Chiêu hồi thời điểm đó không chấp nhận cho xuất bản với văn thư trả
lời là: “Hồi ký HOÀNG SA NỔI SÓNG của Thiếu tá Phạm Văn Hồng chưa thích
hợp trong giai đoạn này!”
Hôm
nay, tóm lược lại sự kiện, người viết không muốn tường thuật lại trận
đánh, bởi việc này, theo thiển ý, đó là nhiệm vụ của bên Hải quân, và
thực sự họ cũng đã làm. Những con số tổn thất đôi bên phải dựa vào nhật
ký hành quân thì may ra mới có những con số tạm chấp nhận được.
Người
viết chỉ xin được tự trả lời cho câu hỏi của chính mình là tại sao lại
xảy ra trận hải chiến Hoàng sa dù rằng câu trả lời có thể là chủ quan và
sự hiểu biết quá hạn hẹp.
Trận
Hải chiến Hoàng sa, không phải là một trận tao ngộ chiến, tình cờ Tuần
Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ 16 có nhiệm vụ chở phái đoàn chúng tôi có 6
người gồm tôi, Trưởng đoàn, ông Gerald Kosh, nhân viên toà lãnh sự Hoa
Kỳ tại Đà Nẵng, Trung uý công binh Vũ Hà thuộc liên đoàn 8 công binh
kiến tạo, Trung uý Lê văn Đá thuộc liên đoàn 10 công binh chiến đấu và
hai Hạ sĩ Quan công binh đi theo hai trung uý kể trên, gặp phải lực
lượng Trung Cộng rôì dẫn đến trận chiến. Trái lại, tất cả đều được sắp
xếp kỹ lưỡng từ trước mà phía Việt Nam Cộng Hoà chúng ta không lường
được.
Theo
lệnh được thượng cấp trao phó thì tôi có nhiệm vụ hướng dẫn phái đoàn
ra Hoàng Sa để thám sát và thiết lập một phi trường cho phi cơ cỡ C123,
C119 hoặc DC 3, DC 4 đáp được. Đảo Hoàng Sa là một đảo nằm trong quần
đảo Hoàng Sa gồm 10 đảo, chia làm hai nhóm: Nhóm Tuyên Đức phía Bắc gồm 5
đảo, nhóm Nguyệt Thiềm phía Nam gồm 5 đảo là Quang Hòa, Duy Mộng, Kim
Ngân, Cam Tuyền và Hoàng Sa. Bốn đảo trên không có người ở, duy chỉ có
Hoàng Sa là có nhóm khí tượng thường là 4 người để ngày ngày ghi những
yếu tố thời tiết gởi về Nha khí tượng, và một trung đội Điạ Phương Quân ở
chung với nhóm khí tượng để bảo vệ đảo.
Sự
liên lạc giữa đảo và đất liền rất nhiêu khê, cứ 3 tháng mới có một lần
thay quân và toán khí tượng cũng theo lịch trình này mà thay đổi nhân
sự.
Chính
vì vậy mà thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa là cần thiết và
hữu lý nhất là, nếu củng cố lực lượng đủ mạnh để kiểm soát được toàn
vùng lãnh hải Hoàng sa là 1 ưu điểm chiến lược, chúng ta có thể kiểm
soát được toàn bộ hải trình quốc tế trong vùng lãnh hải Đông Nam á.
Phái đoàn chúng tôi có nhiệm vụ nghiên cưú để thiết lập phi trường là thế. Nhân vật G. Kosh là điều rất đáng chú ý.
Nếu
ở trong nội địa, một phi trường cỡ nhỏ xử dụng cho C 123 trở xuống thì
công binh của VNCH họ thực hiện dễ dàng như lấy kẹo trong túi. Nhưng
thực hiện ở giữa hải đảo cách đất liền (Đà Nẵng) 230 hải lý là việc
không đơn giản.
Cứ
theo nguyên tắc mà nói, thì 2 sĩ quan Công binh sẽ lo về đất đai địa
thế và đo đạc kích thước để thực hiện. Yếu tố thời tiết thì đã có nhóm
khí tượng cung cấp cho đủ chu kỳ 1 năm. Còn G.Kosh thì sẽ nghiên cưú,
giám định để mở hầu bao. Phần tôi, vì là Sĩ quan lãnh thổ Quân Đòan nên
tôi có nhiệm vụ đúc kết tất cả phúc trình của mỗi thành phần để trình
thượng cấp xét duyệt và thực hiện. Không nói thì ai cũng hiểu là yếu tố
hầu bao là yếu tố quyết định, vì thực hiện 1 phi trường ngoài hải đảo xa
xôi thì chi phí không phải là ít. Từ một giọt nước cho đến một hạt cát
cũng phải chở từ đất liền ra, rồi cơ giới của công binh chuyển vận ra,
rồi lại còn phải thiết lập đầu cầu cho cơ giới công binh có thể từ tầu
vận chuyển lên đảo (Tầu thủy không thể cập vào sát bờ vì vướng san hô,
còn cầu tầu để tầu thủy có thể cập bến xưa kia vận chuyển phân chim nay
đã hư hỏng hoàn toàn).
Cả
ngàn lẻ một dữ kiện ấy đủ chứng tỏ rằng sự quyết định mở hầu bao của
phía Mỹ là quan trọng, nhất là vào thời điểm đó, ngân sách quốc gia của
VNCH đang ở trong tình trạng cạn kiệt (300 triệu đô la cũng không xong
).Tất cả dữ kiện hữu lý ấy chỉ là bề ngoài. Sự thực phi trường Hoàng sa
chỉ là phi trường ẢO nghĩa là không có thực, mà đây chỉ là một dàn cảnh
tuyệt vời của người bạn “đồng minh” của chúng ta! Họ đã phối hợp với kẻ
xâm lăng bành trướng từ lâu rồi.
Tôi
xin được tường trình cùng quý độc giả những dữ kiện mà tôi biết được
sau khi biến cố đã xảy ra và mọi bí ẩn sau 40 năm ngày nay đã được bạch
hóa.
Trước
hết, thời điểm 1974 là thích hợp nhất cho bọn cướp nước vì những toan
tính rút lui, nhường miền Nam lại cho Cộng Sản Bắc Việt đã gần kề
(1975). Nếu để cho miền Bắc xâm chiếm toàn miền Nam rồi, bọn Trung Cộng
mới chiếm đánh thì anh em “ môi hở răng lạnh” của bọn chúng sẽ trở
thành” há miệng mắc quai”.
Ngoài
ra, theo lời Trung uý Phạm Hy là trung đội trưởng Địa Phương Quân có
nhiệm vụ giữ đảo đã kể lại với tôi thì khoảng hồi tháng 10 vừa qua là
tháng thường có mưa bão ở miền Trung, có 1 thương thuyền không rõ của
nước nào đã tấp vào đảo và xin tránh bão (Đơn vị ĐPQ này có gởi công
điện về Tiểu khu Quảng Nam và tôi với trách nhiệm Sĩ quan lãnh thổ Quân
Đoàn I tôi cũng nhận được thông báo này của Tiểu khu Quảng Nam)
Khi
lên đảo, những thương nhân này đã tỏ ra rất thân thiện, họ đem lên đảo
tặng các chiến sĩ canh phòng những bộ bài cào “36 kiểu” để làm qùa. Rồi
họ lại giả đò chơi những trò chơi trốn tìm, cút bắt, thì ra đó là tầu do
thám của tụi Trung Cộng chúng giả làm thương lái để lên thám sát đảo.Từ
căn cứ phòng ngự cho đến vũ khí, quân số trên đaỏ chúng nắm rõ từng chi
tiết, nhất là vũ khí thì tất cả đều được khóa cẩn thận trên giá súng,
bởi lẽ, theo Trung uý Phạm Hy, nếu giao súng cho binh sĩ giữ, có thể họ
sẽ bắn nhau mỗi khi có sự xích mích vì lính ở đây tất cả đều là những
quân nhân bị kỷ luật; đơn vị nào của Tiểu khu Quảng Nam có quân nhân bị
kỷ luật sẽ gom lại thành một trung đội để gửi ra Hoàng Sa. Chính Trung
uý Phạm Hy cũng là 1 Sĩ quan bị 15 ngày trọng cấm!
Phải
thành thực mà nhìn nhận, quan niệm gửi quân ra Hoàng Sa giữ đảo xem ra
rất nhẹ vì nào có bao giờ phải chiến đấu để bảo vệ đảo đâu. Chiến sĩ ra
đảo chỉ là để cho có mặt. Công sự phòng thủ nào có ai dòm ngó tới bao
giờ. Nói một cách trung thực là chẳng có phòng thủ gì hết. Chiến sĩ ở
đây hằng ngày giết thời gian bằng cách đi câu cá, bắt hải sâm hoặc mò ốc
tiên (một loài ốc có hoa văn rất đẹp) cho hết nhiệm kỳ 3 tháng là trở
về đất liền vì có toán khác ra thay thế!
Xem thế thì đủ biết địch biết rất rõ ta còn ta thì không biết gì về địch đã quá rõ ràng.
Trở
lại với phái đoàn chúng tôi, chúng tôi rời quân cảng Tiên sa – Đà nẵng
khoảng 5-6 giờ chiều ngày 15-1-1974. Sau một cơn vật vã ói mửa mật xanh
mật vàng, sáng hôm sau tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao, tôi cố gượng dậy
ra boong tầu ngắm trời ngắm biển thì ra tôi đã ở Hoàng sa lúc nào tôi
không hay biết. Toán chúng tôi được Hải Quân Trung tá Lê văn Thự, hạm
trưởng cho lệnh hạ 2 xuồng cao su đưa 6 người chúng tôi vào đảo. Tôi bị
một cơn say đất còn tàn bạo hơn cơn say sóng. Ông trưởng đài khí tượng
có nhã ý nhường chiếc ghế bố của ông cho tôi nằm nghỉ, nhưng sao chiếc
ghế bố cứ chồm lên nhảy xuống chứ không chịu nằm yên.Tôi đang bị say đất
là thế.
Đến
chiều hôm đó, anh em đã tạm phục hồi sức khỏe, 2 sĩ quan công binh lo
đo đạc và thu thập các yếu tố về điạ chất.Thời tiết thì khỏi lo.Còn anh
G.Kosh thì không động tĩnh gì cả. Đi theo tôi là chỉ để cho có mặt.
Trong lúc trò truyện với nhau, tôi được biết anh này vốn là Trung uý
thuộc lực lượng mũ xanh, nay sang làm tại tòa Lãnh sự.Về phong tục tập
quán của người Việt nam thì anh rất quen thuộc với nước mắm, mắm tôm và
cả … thịt chó. Nói thế là quí độc giả sẽ biết ngay anh là thành phần nào
rồi. Vì đi cạnh tôi nên anh ta cũng ăn cơm gạo sấy và thịt hộp với tôi.
Bất
giác trong một lúc anh ta mở túi xách của anh ra, tình cờ tôi thấy anh
mang tới 2 cây thuốc lá (20 gói) rồi một túi nhỏ đựng rất nhiều đồ mưu
sinh thoát hiểm như lưới, bẫy sập,lưỡi câu v..v.. Tôi lại tự hỏi: đi
công tác vài ngày mà làm chi phải mang tới vài chục gói thuốc? Dù có hết
thuốc thì trên chiến hạm thiếu gì, mua bao nhiêu mà chẳng có. Mãi sau
này tôi mới vỡ lẽ.
Nhiệm
vụ đã xong, chúng tôi được anh em Địa Phương Quân tặng cho một ít vỏ ốc
tiên cũng như hải sâm khô mang về làm quà. Tôi nói anh hiệu thính viên
của Công binh gọi C 25 liên lạc với chiến hạm đón chúng tôi về, nhưng
sao ở thêm một ngày nữa mà không thấy tầu cho xuồng cao su vào đón. Mãi
đến ngày 17-01 chúng tôi mới lên lại HQ 16, nhưng mặt biển lúc này đã
nóng bỏng một cách khác thường, bây giờ trên biển có thêm HQ 5 cũng là 1
Tuần Dương Hạm giống hệt như HQ 16 và 1 khu trục hạm HQ 4, chiếc này
nhỏ hơn HQ5 và HQ 16 nhưng hỏa lực thì mạnh hơn nhiều, xa xa lại còn một
chiếc nữa mà sau này tôi mới được biết đó là HQ 10 vì tầm nhìn quá xa.
Trước
mũi tầu HQ 16 của chúng tôi luôn luôn có 1 tầu nhỏ của Trung Cộng lấy
danh nghĩa là tầu đánh cá đậu chặn ngang trước mũi tầu, rõ rằng là có ý
định khiêu khích.Trung tá hạm trưởng chỉ thị cho chiến sĩ người Việt gốc
Hoa lấy máy phóng thanh gọi loa yêu cầu họ đi nơi khác vì đây là haỉ
phận của Việt Nam. Họ cũng dùng máy gọi lại y như vậy mà nói rằng yêu
cầu các anh đi nơi khác vì đây là hải phận của Cộng Hòa nhân dân Trung
Quốc! Mà tầu đánh cá laị sơn mầu ô- liu và có trang bị thượng liên,
không có lưới mà chỉ có cần câu. Các ngư phủ chỉ dùng cần câu để câu cá.
Đi đánh cá xa bờ mà laị dùng cần câu để câu từng con cá sao? Biển rộng
mênh mông thiếu gì chỗ câu sao lại chỉ đậu trước 1 chiến hạm khoảng cách
chỉ vài chục mét? Rõ ràng là để chọc giận.
Đến
chiều ngày 18-01, khoảng 4,5 giờ, tôi đang nằm nghỉ trong phòng thì
nghe tiếng loa gọi “mời Thiếu tá Hồng lên gặp Hạm trưởng” Tôi lên phòng
chỉ huy thì thấy không khí vô cùng ngột ngạt. Các Sĩ quan người nào cũng
mang vẻ mặt hết sức căng thẳng.
Trung
tá Hạm trưởng cho tôi biết là Hải đội trưởng (sau này tôi mới biết là
Hải quân Đại Tá Hà văn Ngạc) bên HQ5 yêu cầu phái đoàn chúng tôi chuyển
qua bên đó cho an toàn. Thế là chúng laị xuống xuồng cao su để chuyển
sang HQ 5,nơi có HQ Đại tá Ngạc đặt bộ chỉ huy ở bên đó.
Mới
được có mấy tiếng đồng hồ thì khỏang 10 giờ đêm lại nghe tiếng loa
phóng thanh “Mời Thiếu Tá Hồng lên đài chỉ huy gặp Hải độ trưởng. Đây là
giây phút đầu tiên tôi gặp trực tiếp Hải đội trưởng HQ Đại tá Hà văn
Ngạc, ông đã ôn tồn vỗ vai tôi và nói: “Toa à, anh Kosh này là bạn của
moa, anh ta muốn xuống lại đảo vì anh sợ ở trên này không được an toàn,
thôi toa cùng anh em cảm phiền vui lòng chuẩn bị xuống đảo”.
Chúng
tôi xuống đảo đã nửa đêm 18-01 anh em Điạ Phương Quân và toán khí tượng
tất cả đều ngon giấc. Chúng tôi vào tận chỗ ngủ của anh em mà không ai
hay biết gì hết thì đủ biết rằng việc phòng thủ gác sách như thế nào.
Tôi
choàng tỉnh dậy vì tiếng heo kêu quá lớn…Thì ra anh em Địa Phương Quân
họ mổ heo (đem theo từ khi họ thay phiên ra giữ đảo) cúng ông Táo. Lúc
này khoảng 10 giờ sáng. Đang đánh răng thì Trung uý Hy chạy đến tôi và
nói: “Không xong rồi Thiếu Tá ơi. Tầu chiến đôi bên gờm nhau dầy đặc
trên biển rồi”
Tôi vội vàng leo lên sân thượng để quan sát. Quả thật đôi bên đang ở thế cài răng lược. Và rồi súng nổ.
Tôi
vào phòng truyền tin cùa đài khí tượng, anh hiệu thính viên của Công
Binh cũng theo tôi vào đây, chỉ ít phút sau thì HQ 16 liên lạc được với
chúng tôi và trên máy HQ 16 đã nhờ chúng tôi liên lạc với Bộ Tư Lệnh Hải
Quân vùng I Duyên hải là HQ 16 đã bị hư mắt thần, tầu nghiêng 30 độ, hệ
thống viễn liên đã bất khiển dụng!
Trời
đất! tôi gọi từ Hoàng Sa về Đà Nẵng bằng… C 25.Tôi chỉ còn trông cậy
vào máy Motorola của khí tượng, nhưng khốn nỗi, khí tượng họ chỉ liên
lạc với nhau vào mỗi đầu giờ, mà bây giờ đã khoảng 10 giờ 20 rồi. Nhưng
may sao họ mò mẫm lại bắt được liên lạc với Phú Quốc còn trên máy.
Không
nói chuyện trưc tiếp được với khí tượng Đà Nẵng, tôi bắt buôc phải đi
đường vòng. Tôi nhờ khí tượng Phú Quốc gọi khí tượng Sài Gòn. Nhờ khí
tượng Sài gòn điện thọai ra khí tượng Đà nẵng. Quả nhiên may sao ít phút
sau thì khí tượng Đà nẵng lên máy với chúng tôi. Tôi lại nhờ khí tượng
Đà nẵng gọi điện thoại cho phi trường Đà nẵng. Phi trường Đà Nẵng liên
lạc bằng điện thoại với tổng đài Uy Dũng của Quân Đoàn I và tôi nhắn tin
là trung tâm hành quân Quân Đoàn I cử người sang đài khí tượng Đà Nẵng
tọa lạc trong phi trường Đà Nẵng để liên lạc trực tiếp với tôi! Đọc đoạn
này không thôi, chắc quí vị độc gỉa cũng thấy vã mồ hôi vì trong lúc
dầu sôi lửa bỏng thế này mà tôi phải vòng vo tam quốc nhiêu khê vạn dặm
đến thế.
Lúc
này thì mặt trận trên biển đã im bặt chỉ sau chừng mươi mười lăm phút
súng nổ. Mấy chiến hạm của ta đã quay lưng lại với phía đảo Hoàng Sa của
chúng tôi và hình bóng của họ mỗi lúc một nhỏ dần cho đến khi mất hút.
Ngược
lại thì hàng chục con tầu của Trung Cộng lại đang vây kín chúng tôi,
tất cả đều hướng mũi vào đảo và súng bắt đầu nổ. Trung úy Phạm Hy điều
động hơn hai chục chiến sĩ dưới tay như thế nào tôi cũng không biết. Rồi
phòng truyền tin của khí tượng cũng không còn một bóng người ngoại trừ
tôi và anh hiệu thính viên Công binh. Trong máy nghe tiếng súng nổ nên
khí tượng Đà Nẵng đã hỏi tôi là trên đảo đang có tiếng súng sao? họ nói
với tôi là bên Hải Quân vùng I Duyên Hải nhắn với Thiếu tá Hồng là hãy
bình tĩnh sẽ có Không quân ra yểm trợ cho Thiếu tá.
Trong
lúc này thì tiếng súng lớn nhỏ đang chát chúa xung quanh chúng tôi, một
vài mảnh tường của tòa nhà khí tượng đã bị phá từng mảng lớn. Tôi đành
chào vĩnh biệt khí tượng.
Tôi
và anh hiệu thính viên lao ra những lùm cây để ẩn thân. Tôi quyết định
trốn kỹ im lìm trong lùm cây để chờ chuyện trống mái một phen chứ nhất
định không ra đầu hàng. Xung quanh tôi những âm thanh của tiếng Tầu đang
như cái chợ. Chúng đã tràn ngập trên đảo. Tôi chờ mong phi cơ chiến đấu
của không lực VNCH ra thả bom tại đảo cho dù chúng tôi có chết, thì bọn
tầu phù cũng chết banh xác pháo…
32 chiến sĩ trận chiến Hoàng Sa bị Trung cộng bắt, đã trở về
Nhưng
rồi sự im lặng vẫn mãi mãi im lặng. Phi cơ đâu chẳng thấy. Tôi nằm im
trong bụi rậm suốt 3 tiếng đồng hồ mà chẳng được nghe tiếng gầm thét của
các chiến đấu cơ. Trong khi đó tiếng Tầu mỗi lúc một ồn ào hơn, gần sát
chỗ tôi ẩn núp. Cuối cùng chúng vạch từng gốc cây và phát hiện ra tôi,
chúng chĩa súng vào tôi và hô lên: Thiếu Tá.
Thì
ra suốt 2-3 giờ đồng hồ qua chúng đã tràn ngập trên đảo và sau khi khai
thác tù binh chúng đã điểm danh đầy đủ và biết chắc rằng còn một Thiếu
Tá và 1 anh công binh mang máy truyền tin rồi.
Tôi
trở lại hai tòa nhà của khí tượng và anh em Địa Phương Quân thì tất cả
đã bị bắt giữ. Anh Kosh thì bọn Trung Cộng đang nói chuyện với anh ta
bằng anh ngữ.
Rõ
ràng đây là điểm mấu chốt. Họ đã biết rõ trên đảo có một người Mỹ, họ
đã cử thông dịch viên ra làm việc. Nếu bình thường; một trận chiến tình
cờ trên biển thì đào đâu ra người Tầu biết nói tiếng Anh? nhất là vào
thời điểm đó bên kia bức màn sắt và thế giới tự do hoàn toàn cách biệt.
Lại
nữa, khi tấn công lên đảo, tất cả họ đã tác xạ không có tính cách sát
thương. Đại bác bắn vào những bức tường toàn bắn trên tầm cao.
Càng
rõ hơn nữa là cuối ngày 19-01-74 thì kết quả trận đánh đã quá rõ ràng.
Bốn năm giờ sáng 20-01 chúng tôi được đưa lên tầu chở về đảo Hải Nam.
Đêm 20-01 tôi trưởng đoàn, cùng 2 Trung uý Công Binh, Trung Uý Địa
Phương Quân Phạm Hy giữ đảo, 1 Trung Uý Hải Quân bị bắt trên đảo Cam
Tuyền (chỉ mới thả xuống đảo vài ngày để giữ đảo) và anh Kosh được chở
bằng máy bay từ Hải Nam về Quảng Châu rồi tiếp tục chở bằng xe hơi về
trại Thu Dung tù binh huyện Huyền Hóa, tỉnh Quảng Đông thành phố Quảng
Châu. Số Hạ sĩ quan, Binh sĩ và 4 người khí tượng còn lại thì mãi 2 ngày
sau họ mới nhập về trại với chúng tôi vì họ được chở về bằng tầu thủy.
Sáng
sớm ngày 21-01 những cán bộ của trại bắt đầu làm việc với chúng tôi.
Chúng tôi được sắp xếp cho ở một dẫy nhà có 5 phòng. Tôi ở 1 phòng, 4
trung úy kia thì 2 người 1 phòng. Một phòng ăn và 1 phòng dành cho việc
tọa đàm. Người bị phỏng vấn nhiều nhất là Trung uý HQ Lê văn Dũng để họ
lấy ngay những yếu tố kỹ thuật của Hải Quân hầu họ ứng phó kịp thời nếu
cuộc chiến sẽ tái diễn. Còn tôi, khai thác sơ khởi trên đảo họ đã biết
quá rõ phái đoàn đặc biệt của tôi nên họ không cần khai thác thêm nhiều.
Anh
Kosh thì được lưu giữ ở đâu chúng tôi không biết. Anh được đi xe riêng,
Khi xuống phi trường Quảng Châu là anh đã được tách rời chúng tôi rồi.
Ngồi
trong phòng tọa đàm, họ nói chuyện dưới hình thức thân mật. Họ cho
chúng tôi biết là: hiện nay tiến sĩ Kisinger đang ngồi ở Bắc Kinh. Tối
nay chúng tôi sẽ mở đài Bắc Kinh cho các anh nghe. Quả vậy, đúng giờ
chương trình tiếng Việt của đài Bắc Kinh, họ đã đến và mở cho chúng tôi
nghe bản tin đúng như lời họ nói. Lân la mọi chuyện họ mở luôn cả các
đài VOA, BBC, Úc Đại Lợi cho chúng tôi theo dõi. Tất cả đều loan tin
giống nhau. Dĩ nhiên là các đài đều lấy tin của các hãng thông tấn nên
loan tin phải giống nhau rồi.
Trở
lại về anh Kosh, khi xuống đảo lần thứ nhất, anh còn ăn chung với tôi,
nhưng lần thứ hai thì không. Anh nói là anh bị bệnh. Bệnh đây cũng là
bệnh được sắp đặt trước. Quả vậy, chỉ 1 tuần sau khi bị bắt, anh ta là
người đầu tiên được thả với lý do bị bệnh mãn tính kinh niên, cần được
thả sớm để kịp về điều trị! Ấy thế mà 1 tháng sau, sau khi tôi trở về
Quân Đoàn, anh ta có về Mỹ điều trị đâu vẫn làm việc như thường lệ!
Buổi
trưa hôm 19-01 sau khi tàn cuộc chiến trên đảo, chỉ một mình anh Kosh
là được giữ những trang bị cá nhân sau khi bị bắt, còn chúng tôi thì
không. Đến xế trưa, đã quá đói vì từ sáng đến giờ chúng tôi có được ăn
uống gì đâu Kosh bèn lấy trong túi xách ra hộp cá, nhỏ hơn bao thuốc lá,
anh chia cho tôi một lát mỏng cỡ như thanh kẹo cao su chúng ta thường
mua khi đi xem chiếu bóng ở Sài gòn. Tôi nghĩ bụng, một lát cá như thế
này thì thấm béo gì. Như hiểu được ý tôi, anh ta nói ngay: Thiếu tá cứ
ăn đi sẽ đỡ đói đấy. Mà đỡ đói thật. Thì ra họ đã tiên liệu rôì. Họ
trang bị rất kỹ lưỡng từ răng cho đến chân. Còn chúng ta, chúng ta có
biết gì đâu!
Hai
chục gói thuốc lá, những dụng cụ thoát hiểm mưu sinh, những hộp đồ ăn
đặc biệt, những cơn bệnh bất thường là những yếu tố làm tôi suy nghĩ tới
những sự kiện… bất thường!
Chưa
hết, sau này khi được trả về, qua tìm hiểu, phối kiểm cũng như nghe
những chuyện được kể lại, tôi mới được biết, khi trận hải chiến xảy ra,
chiến hạm Mỹ cũng ở sát nách với chúng ta mà nào họ có cứu vớt những bè
thoát hiểm của anh em Hải quân. Cụ thể nhất là có một bè trôi dạt về tận
Qui Nhơn mới được chiếc thương thuyền Kopionella của Hòa Lan cứu thóat.
Không cần nói đến tính liên hệ đồng minh, chỉ cần nói đến lòng nhân đạo
thôi, họ đã cất giấu tình người đi đâu mất rồi?
Thêm
một chi tiết sau này khi được Trung tướng Tư Lệnh tiền phương Quân Đoàn
I chỉ thị tôi ra Huế thực hiện 2 cuộc thuyết trình tại Hội trường Phú
Văn Lâu, một vào buổi sáng cho các cơ quan hành chánh Thừa thiên Huế và
một vào buổi chiều cho các đơn vị quân đội đồn trú quanh Thị xã Huế, mỗi
buổi có đến hơn một ngàn người, đứng chật cả hội trường, tràn ra cả
phía tiền đường để nghe qua loa phóng thanh. Khi về Bộ Tư lệnh Tiền
phương, tôi được gặp Đại Tá Tham mưu trưởng Tiền phương QĐ I, ông đã nói
với tôi: “Moa có nói chuyện về biến cố Hoàng sa với tên cố vấn Quân
Đoàn, ông ta đã thản nhiên hỏi moa rằng “anh ngạc nhiên về chuyện này
sao”. Moa biết là bị hố nên moa đã chữa ngay rằng tôi không ngạc nhiên
nhưng tôi chỉ thắc mắc là tại sao bọn Trung Cộng lại chọn đánh chiếm
Hoàng Sa vào thời điểm này.” Rõ ràng đây là một màn kịch đã được sắp xếp
từ trước.
Trở
lại chuyện tôi nhận được tin sẽ có phi cơ ra oanh tạc Hoàng sa sao
không thấy thực hiện, tôi đã hỏi Trung tá Lê Lâm, phó trưởng phòng 3
Quân Đoàn I, ông đã giải thích với tôi rằng tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng,
một phi đội phản lực từ Biên Hòa đã ra phi trường Đà Nẵng sẵn sàng tham
chiến, Quân Đoàn dự trù kế hoạch cho chiến hạm ra giữa đường tiếp đón
phi công nhảy dù nếu phi cơ không đủ nhiên liệu trở về, nhưng rồi kế
hoạch phải hủy bỏ vì phía Mỹ họ lý luận rằng nếu thực hiện, đối phương
có thể trả đũa từ nơi xuất phát, như vậy sẽ rất nguy hiểm cho cư dân
thành phố Đà Nẵng.
Trong
khi đó, tôi được bên Không quân cho biết là phi công Viêt Nam đã sẵn
sàng thi hành những phi vụ vô cùng ngọan mục và can trường chẳng khác
nào phi công Nhật khi xưa, nhưng tiếc thay người Mỹ họ chơi trò… (trò gì
mà mấy Sĩ quan Không quân nói với tôi nhưng nay tôi đã quên mất vì đây
là từ ngữ kỹ thuật chuyên môn đại khái được hiểu là máy bay có gắn bom
thì những quả bom này chỉ là những khối sắt vô tri không thể nào kích
hỏa được. Tóm lại là đối sách nào cũng bị kỳ đà cản mũi.
Nếu
để tất cả những dữ kiện rời rạc nêu trên đứng riêng lẻ một mình thì hẳn
qúi độc giả sẽ cảm thấy chúng không nói lên được điều gì trong trận hải
chiến Hoàng sa, nhưng nếu ghép chúng lại thành toàn cảnh của một bức
tranh thì ngược lại, chúng ta sẽ thấy một thảm kịch cho việc đã được
người bạn đồng minh dàn cảnh rất tỉ mỉ từng chi tiết:
Vào
thời điểm đó, Tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu kết thân vơí Trung Cộng. Dĩ
nhiên quyền lợi của Hoa Kỳ và tham vọng của Tầu Cộng vẫn là tối thượng,
Tầu cộng đã nghiên cứu kỹ lưỡng sự bố phòng của chúng ta. Lực lượng tham
chiến của họ đã chuẩn bị sẵn sàng. Vấn đề chỉ là làm sao họ đánh chiếm
chúng ta cho hữu lý và có kết quả. không thể nào tự nhiên họ đem quân ra
đánh chiếm một đơn vị giữ đảo mà trên đó chỉ là một đài khí tượng đã
hiện diện một cách hợp pháp và chính đáng từ bao lâu nay rồi và lại chưa
hề bao giờ có sự hiềm khích với họ. Vậy thì người Mỹ sẽ tạo cho họ một
cái cớ.
Mấu
chốt của vấn đề nằm ở chỗ này. Hoa Kỳ đã gợi ý giúp chúng ta xây cất
một phi trừờng chiến lược để kiểm soát được toàn bộ haỉ trình quốc tế
trong vùng Đông Nam Á. Bùi tai quá hữu lý quá. Anh Kosh đi theo để giám
định chi tiền lại càng chứng tỏ người Mỹ muốn giúp thực sự, chúng ta đã
lọt bẫy điệu hổ ly sơn. Chiến hạm của chúng ta chở phái đoàn ra thám sát
để thực hiện kế hoạch, những con mồi nhử đã chờ sẵn. Họ khiêu khích
chúng ta đến độ cơn giận của chúng ta không kìm hãm nổi. Là một đơn vị
quân đội, chúng ta chỉ có một biện pháp duy nhất để phản ứng: NỔ SÚNG!!!
Họ
chỉ chờ có thế. Vài con tầu nhỏ (sau này tôi mới được biết đó là
Kronstadt) làm vật tế thần có thấm béo gì so với một nước có tới 7-8
trăm triệu dân vào thời điểm đó. Chiến thuật biển người là ngón sở
trường của bọn bành trướng. Lực lượng trên đảo chỉ có hơn hai chục tay
súng (mà chúng đã biết rất chính xác) trong khi chúng tràn lên đảo đến
một tiểu đoàn thì cục diện sẽ thế nào ai cũng có thể khẳng định được.
Nhân đây, tôi cũng xin kể hầu quí độc giả thêm vài sự kiện đau lòng trong thời gian bị lưu giữ trong trại thu dung tù binh:
Ngày
ngày, 5 Sĩ quan chúng tôi gồm tôi và 4 Trung uý (1 Hải quân, 2 Công
binh và 1 Điạ phương quân) phải ngồi đồng (tọa đàm) suốt 8 tiếng đồng hồ
để goị là học tập chính trị và giải thích về chủ quyền quần đảo Hoàng
Sa thực sự thuộc về ai. Tất cả những cán bộ Trung Cộng tiếp xúc với
chúng tôi toàn nói bằng tiếng Việt giọng Bắc rất chính xác. Chính xác
đến độ mà Trung Uý Công Binh Vũ Hà người Huế nói chữ SỮA Honda họ đã sửa
lưng rằng không có SỮA Honda mà chỉ có SỮA Ông Thọ! Phải nói là SỬA
Honda mới đúng!
Có
một lần, vì cao hứng bất tử, có một tên cán bộ đã nói với Trung Uý Địa
Phương Quân Phạm Hy là đi từ Huyện Đại Lộc đến Hội An nên đi lối tắt nào
gần nhất. Trung uý Hy thổ lộ với tôi rằng tuy là ngừơi địa phương, từng
lội bộ nát nước ở quê hương xứ Quảng của mình nhưng cũng chưa bao giờ
biết đi tắt từ Đại Lộc đến Hội An bằng đường nào. Thôi rồi! người anh em
môi hở răng lạnh, núi liền núi, sông liền sông đã cõng rắn về cắn gà
nhà hay đúng hơn là dẫn voi về dày mả tổ.
Rồi
đến ngày chúng tôi được trả về, khi ăn bữa cơm trưa cuối cùng tại tô
giới Thẩm Khuyến – Hồng Kông, tiễn tôi ra lằn ranh để bước sang phía tự
do, một Sĩ quan cao cấp thuộc Lộ quân bộ đội tỉnh Quảng Đông đã siết
chặt tay tôi nói với tôi một câu chắc nịch rằng: “hẹn gặp các anh trong
một ngày rầt gần đây TRÊN ĐƯỜNG NGOẠI GIAO”.
Thành
thật mà nói, khi thoạt nghe câu nói vừa kể, phản xạ tự nhịên của tôi là
tên này quá hão huyền, giữa thế giới tự do của chúng tôi và bên kia bức
màn sắt của các anh làm quái gì có bang giao mà gặp nhau trên đường
ngọai giao. Nhưng đau lòng thay, chỉ một năm sau; Miền Nam Việt Nam bị
tràn ngập làn sóng đỏ tôi mới bừng tỉnh rằng ở nước ngoài thân phận miền
Nam đã được an bài; mà chỉ cần những cán bộ cấp trung của họ cũng đã
biết rồi.
Nói
về nỗi lòng của tôi khi Hoàng Sa bị thất thủ mà tôi hiện diện trong đó,
xin được thú nhận rằng, từ tấm bé cho đến khi trưởng thành, bây giờ mới
là lúc tôi hiểu thế nào là tình yêu quê hương, thế nào là lòng ái quốc.
Quả
vậy, từ thuở còn tung tăng chân sáo, ngày ngày cắp sách đến trường,
những bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư và Tâm hồn cao thượng, tôi đã được
thầy cô giảng dậy rất kỹ về lòng ái quốc, nhưng thực lòng những chữ lòng
ái quốc và tình yêu quê hương là những từ ngữ vô cùng trừu tượng. Tôi
chẳng hề có một chút xúc cảm nào. Ấy thế mà khi một mảnh đất thật xa xôi
mù mịt của quê hương tôi bị bọn xâm lăng chiếm đoạt, tất cả 5 anh em Sĩ
quan chúng tôi khi thổ lộ tâm tình với nhau, ai cũng vô cùng đau xót.
Suốt
4 tuần lễ nằm trong lãnh thổ giặc thù chúng tôi thương nhớ quê hương da
diết. Ngày được trả về, khi vừa bước qua vệt sơn ngăn cách giữa Hồng
Kông và Thẩm Khuyến; Ông Tổng Lãnh Sự Việt Nam Cộng Hòa muốn chờm tới,
ông bị người cảnh sát Anh chặn lại, ông bèn cất tiếng hỏi: “Có anh Hồng ở
đây không? Có Thiếu Tá Hồng đó không?” Ông không nhận dạng được tôi vì
tôi chưa có quân phục mà tất cả 43 người vừa trở về đều mặc bộ quần áo
mầu xanh đậm giống nhau do bọn Trung Cộng phân phát. Chỉ mới nghe một
giọng nói Việt Nam dầu tiên, tiếng của quê hương tôi, tôi đã muốn oà
khóc. Tôi đã nghẹn họng, cố gắng lắm tôi mới thốt lên được 2 tiếng “tôi
đây” rồi tôi cứ ứ lên cổ không nói thêm được một tiếng nào nữa.
Thiếu Tá Phạm văn Hồng, người tù binh trong ngày trở về.
Đến
khi ngồi trên phi cơ từ Hồng Kông trở về Sài Gòn, từ trên cao nhìn
xuống mặt biển, mỗi khi gặp một hòn đảo nào nhô lên mặt nước dù đó không
phải là Hoàng Sa nhưng lòng tôi vẫn thấy đau xót xốn xang. Trong đời
quân ngũ, đã hơn một lần tham dự hành quân, không phải là chúng tôi trăm
trận trăm thắng, trái lại, lác đác cũng có đôi lần bị đối phương chiếm
mất mục tiêu, nhưng lòng tôi vẫn an nhiên tự tại bởi vì chắc chắn chúng
tôi sẽ có những cuộc hành quân tái chiếm và nắm chắc thế nào chúng tôi
cũng sẽ lấy lại được phần đất đã mất. Hoàng Sa thì không. 43 con người
trở về từ đất địch, cả 43 tấm lòng đều cùng có một tâm trạng như nhau:
đau lòng đến tột độ!
Phi
cơ chạm đất, nhìn vào khu nhà ga hàng không, cờ xí rợp trời , người
người như thác lũ. Cánh cửa phi cơ mở ra, tôi là người đầu tiên bước
xuống cầu thang, biển người trước mặt quá to lớn đối với đôi tay nhỏ bé
của tôi, song tôi vẫn muốn dang ra cho thật rộng để ôm hết làn sóng
người vào lòng tôi. Tất cả là của riêng tôi. Đây là đồng bào của tôi.
Đây là quê hương của tôi. Đây là ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi. Và đây mới đích
thực là lúc tình yêu quê hương. LÒNG ÁI QUỐC của tôi đang trỗi dậy.
Tôi
tiến bước vào khu phòng khách danh dự, rất nhiều phóng viên báo chí vây
kín quanh tôi. Đa phần họ hỏi tôi về bên kia bức màn sắt, nhưng bất ngờ
cũng có một phóng viên hỏi tôi một câu không biết có phải là anh ta có
dụng ý muốn nắn gân, thử phổi tôi không:” Thưa Thiếu Tá, nếu bây giờ
Thiếu tá được lệnh phải tái chiếm Hoàng Sa, Thiếu Tá có sẵn sàng trở lại
Hoàng Sa hay không?”
Không
cần đắn đo suy nghĩ, tôi lập tức trả lời: Tôi là một Sĩ quan hiện dịch,
xuất thân trường Võ Bị Quốc Gia, đối với tôi LỆNH LÀ THI HÀNH. Trả lời
câu này, tôi thầm nghĩ, tôi đã khóa họng anh ta, không để anh ta đánh
gía tôi là hèn yếu, nhưng cũng không thể phê phán tôi là ngạo mạn kiêu
căng. Tôi chỉ có một ước muốn khiêm nhường là làm sao nói lên được lòng
yêu nước và cố giữ đúng phong thái của một Sĩ quan xuất thân trường Võ
Bị Quốc Gia Việt Nam.
Phạm Văn Hồng K 20
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét