31 tháng 7, 2017

2 bài báo về hiệp định Genève 1954

Đã 63 năm trôi qua nhưng những bài học lịch sử về hội nghị này vẫn còn chưa được tìm hiểu và khai thác hết, hiệp định này nay càng có nhiều lý do để các nhà chính trị, ngoại giao và lịch sử mổ xẻ, phân tích. 

BBT copy lại 2 bài viết này, một của nguyên PTT Vũ Khoan (đồng thời là 1 nhà ngoại giao kỳ cựu của VN) và một của nhà báo Hạ Mai (cũng là 1 nhà báo chuyên viết các bài về lịch sử, chính trị).

Mặc dù cả 2 bài viết đều rất nghiêm túc, có trích dẫn nguồn đầy đủ, nhưng chúng ta thấy cách nhìn, cách tiếp cận của 2 tác giả khác hẳn nhau. Đối với những người có quan tâm đến các vấn đề lịch sử, chính trị thì đọc những tài liệu này cảm thấy rất hấp dẫn.

Quan niệm thống nhất chung là phải nhìn các sự kiện lịch sử một cách chân thực và đặt chúng trong bối cảnh của lịch sử. Hiệp định Geneve chắc chắn sẽ còn là đề tài để các chuyên gia phân tích nhiều hơn nữa, cái được cái mất của hiệp định này sẽ còn ảnh hưởng nhiều đến tận hôm nay. 


Giơ-ne-vơ để lại bài học gì?
Vũ Khoan

Nguồn: http://www.viet-studies.info/kinhte/VuKhoan_GeneveBaiHocGi.htm

Thấm thoắt đã 60 năm kể từ khi diễn ra hai sự kiện lịch sử của nước ta liên quan mật thiết với nhau. Đó là chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông dương. Về hai sự kiện này đã có cơ man bài viết, cuốn sách; bổ sung điều gì mới mẻ thật khó. Tuy nhiên mỗi người lại có thẻ rút ra điều gì đó có ích cho mình và tôi muốn chia xẻ vài suy ngẫm rất riêng tư về những bài học rút ra qua Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 qua một số tài liệu vừa đọc được.

Lúc Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, tôi còn rất trẻ, mới 17 tuổi, đang theo học tại Khu học xá Nam ninh (Quảng Tây – Trung Quốc) và đương nhiên không hiểu biết gì nhiều về sự kiện này. Trong tiềm thức của tôi chỉ còn đọng lại kỷ niệm về niềm hân hoan trong buổi lễ chào mừng Đoàn đại biểu Chính phủ ta ở Hội nghị Giơ-ne-vơ do Phỏ Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu trên đường về nước ghé thăm Trường Niềm vui ấy chộn lẫn đôi chút nỗi buồn không được về lại Hà nội giải phóng sau 9 năm xa cách mà phải đi Liên Xô học tiếng Nga để chuẩn bị phục vụ các chuyên gia Liên Xô sắp sang giúp ta xây dựng lại miền Bắc. Thế rồi số phận run rủi, đang học mới hơn 1 năm, tôi được lấy ra làm việc tại Đại sứ quán nước ta ở Liên Xô và từ ngày đó cuộc đời tôi gắn bó với nghiệp ngoại giao. Xem như vậy có thể nói Hiệp định Giơ-ne-vơ vô hình chung đã tạo nên bước ngoặt trong đời tôi.

Làm việc trong ngành ngoại giao, đương nhiên tôi phải đi sâu tìm hiểu lịch sử ngoại giao Việt Nam, trong đó Hiệp định Giơ-ne-vơ là một mốc quan trọng. Võ vẽ vào nghề, lâu dần tôi ngộ ra một điều là muốn hiểu được các sự kiện quốc tế thì trước hết phải tìm hiểu xem sự kiện ấy diễn ra trong bối cảnh nào? Đối với Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 tôi mầy mò tìm kiếm tư liệu để giải mã cho bản thân một số điểm còn thắc mắc. Trước hết đó nguồn gốc xuất xứ của Hội nghị từ đâu, do ai đề xuất, để làm gì…?

Hóa ra mọi chuyện đều do sự dàn xếp giữa các nước lớn: Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ. Còn nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa lúc ấy chưa lấy lại được ghế ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nên không được tham gia dàn xếp việc triệu tập Hội nghị.

Đầu những năm 50 thế kỷ trước là cao điểm của “chiến tranh lạnh”. Dưới tác động của nó, thế giới chia thành hai phe rõ rệt và đã trải qua sự đụng đầu trong cuộc khủng hoảng Béc-lin năm 1948 và các cuộc chiến tranh Triều tiên 1951 và Đông dương đã kéo dài 9 năm trời.

Đúng lúc đó, J.Xta-lin qua đời, nội bộ lãnh đạo Liên Xô trượt dần vào khủng hoảng và có nhu cầu hòa hoãn với phương Tây. Không biết lãnh đạo ta thời đó đánh giá thế nào về cục diện thế giới? Mới đây Nhà xuất bản Chính trị quốc gia có phát hành cuốn “Điện biên phủ, Hội nghị Giơ-ne-vơ. Văn kiện Đảng”, trong đó tôi tthấy tại cuộc họp ngày 31/3 và 1-2/4/1953 của Ban Thường trực Liên Việt Tổng Bí thư Trường Chinh có nhận định:” Làm cho tình hình thế giới bớt căng thẳng, đó là lo lắng chính của phe ta hiện nay trên thế giới…(phe) ta đề ra các vấn đề xung đột có thể giải quyết hòa bình giữa các nước có liên quan…”[1]

Còn Pháp kiệt quệ do chiến tranh Đông dương, Anh muốn vớt vát vai trò quốc tế đang mai một dần nên chấp nhận sáng kiến của Liên Xô triệu tập hội nghị tứ cường ở Giơ-ne-vơ để giải quyết những khúc mắc với nhau ở châu Âu. Riêng Mỹ lúc đầu muốn duy trì căng thẳng để thao túng Tây Âu, kiềm chế Liên Xô nên không muốn họp song sau cũng đồng ý tham gia không phải để đi đến hòa hoãn mà là phá rối. Quả nhiên hội nghị tứ cường chẳng đi đến thỏa thuận nào về các vấn đề châu Âu nhưng lại thỏa thuận sẽ thảo luận vấn đề đình chiến ở Triều tiên và Đông dương. Đơn thương độc mã trong cuộc đối đầu với phương Tây, Liên Xô đòi phải có sự tham gia của Trung Quốc là nước lớn ở Viễn Đông có chung biên giới với cả Triều tiên lẫn Đông dương. Đây chính là cơ hội ngàn vàng đối với Trung Quốc đang khát khao tranh thủ sự công nhận quốc tế, xác lập vai trò nước lớn của mình.

Không biết đối với những người nghiên cứu quan hệ quốc tế khác thì thế nào chứ đối với cá nhân tôi thì những điều nói trên dậy cho một bài học: nhiều chuyện diễn ra trên bàn cờ quốc tế chịu tác động lớn lắm của các cường quốc do đó phải luôn luôn chăm chú theo dõi những tính toán, động thái và những sự dàn xếp giữa họ với nhau.

Liên quan tới chuyện này trong tôi lại nẩy sinh thắc mắc: thế lập trường của ta thế nào? Tiếc rằng, cho tới nay tôi vẫn chưa tiếp cận được những tư liệu gốc về quá trình thảo luận và ra quyết định của lãnh đạo ta về việc tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ cũng như các phương án đàm phán, thỏa thuận. Trong cuốn sách nói trên tôi thấy TBT Trường Chinh nói: “khẩu hiệu đề ra có cái mới là bây giờ ta đề ra đấu tranh ngoại giao” bên cạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh về ruộng đất; “lập trường bất di bất dịch của ta là độc lập, thống nhất, dân chủ và hòa bình” với 4 phương châm: (i) những mục đích không thay đổi nhưng có con đường thẳng, có con đường quanh co; (ii) nắm vững nguyên tắc là tôn trọng chủ quyền Việt Nam, bình đẳng, tự nguyện có lợi cả hai bên; (iii) lực lượng chủ quan là điều kiên căn bản để đi tới thắng lợi và (iv) luôn luôn đặt lợi ích của ta trong lợi ích của phong trào hoà bình, dân chủ xã hội chủ nghĩa.[2] Một sự kiện gây tiếng vang lớn lúc đó là bài trả lời phỏng vấn của Bác Hồ cho phóng viên báo Thụy Điển Expressen ngày 26/11/1953, trong đó nói:”…nếu Chính Phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cong hòa sẵn sàng tiếp muốn ý kiến đó…Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”[3]. Nói tóm lại, ta cũng chủ trương điều chỉnh chính sách, mở mặt trận đấu tranh ngoại giao với mục tiêu, phương châm nói trên.

Xem như vậy có thể thấy xu hướng của Liên Xô và Trung Quốc lúc ấy là muốn hòa hoãn với phương Tây, riêng Trung Quốc muốn lợi dụng tình thế để xác lập vị trí nước lớn của mình, trong bối cảnh ấy ta cũng chủ trương đàm phán hòa bình.

Tiếp đến, điều băn khoăn, ray rứt nhất khi nói tới Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là ai và vì sao đã có “sáng kiến” chia cắt nước ta thành hai miền? Tìm ra sự thật về việc này không dễ chút nào. May thay, các tài liệu mật thời đó lâu dần đã được giải mã.

Trong báo cáo đầu tiên gửi về nước ngày 4/5/1954, Đồng chí Phạm Văn Đồng cho biết lúc đầu là Anh, sau đó cả Mỹ và Pháp chủ trương chia cắt Đông dương thành hai miền hoặc theo vĩ tuyến 20, hoặc theo vĩ tuyến 16[4].

Không chỉ phương Tây mà Trung Quốc cũng có lập trường tương tự. Cuốn “Chu Ân Lai và Hội nghị Giơ-ne-vơ” của tác giả Tiền Giang do Nhà xuất bản Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc xuất bản tháng Giêng năm 2005 có cho biết: Trong “Ý kiến sơ bộ” (thực chất là Đề án của Trung Quốc tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ) có nói: “Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, cho dù Mỹ có cố gắng tìm mọi cách cản trở việc đạt được một hiệp định có lợi cho sự nghiệp hòa bình, chúng ta vẫn sẽ nỗ lực hết sức để đạt được sự nhất trí và một thỏa thuận nào đó nhằm giải quyết vấn đề, thậm chí là một thỏa thuận tạm thời hoặc thỏa thuận riêng biệt nhằm tạo thuận lợi cho việc mở ra con đường hiệp thương giữa các nước lớn để giải quyết các tranh chấp quốc tế”…

Để đạt được yêu cầu đó, ngày 2/3/1954 (tức là 2 tháng trước khi Đồng chí Phạm Văn Đồng gửi về nước bản báo cáo nói trên), Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã gửi cho Trung ương Đảng ta một bức điện trong đó đề nghị: “…Nếu muốn đình chiến, tốt nhất nên có một giới tuyến tương đối cố định, có thể bảo đảm được một khu vực tương đối hoàn chỉnh. Trên thực tế, giới tuyến đình chiến hôm nay có thể trở thành ranh giới chia cắt trong ngày mai…Đường giới tuyến này càng xuống phía Nam càng tốt. Có thể tham khảo vĩ tuyến 16 độ Bắc”.[5]

Những thông tin trên cho thấy rõ, lúc đó Trung Quốc muốn tranh thủ việc tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ để xác định vị thế nước lớn, “ngồi chiếu trên” với các nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc để dàn xếp các công việc thế giới, và để đạt được yêu cầu này đã cùng các nước lớn khác dàn xếp giới tuyến đình chiến, thực chất là ranh giới chia cắt lâu dài. Các tài liệu đã được công bố cho thấy lúc ấy thái độ Liên Xô tương đối “bị động”, tập trung chủ yếu vào các vấn đề châu Ấu, “khoán” các vấn đề Viễn Đông cho Trung Quốc. Đây lại là một bài học “nhớ đời” củng cố quyết tâm kiên trì đường lối độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế.

Mặt khác tôi cũng ngộ ra rằng, những cái ta giành được ở Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 như đình chiến, quân Pháp phải rút khỏi Đông dương, miền Bắc được giải phóng, các nước tham gia Hội nghị “cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước trên (tức là Việt Nam, Lào và Căm-pu-chia)”[6] là nhờ ở những hy sinh to lớn, thắng lợi vẻ vang của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ. Tuy nhiên trên bàn thương lượng chỉ có thể đạt được những điều đã giành được trên chiến trường. Về vấn đề phân chia vùng tập kết, đồng chí Phạm Văn Đồng đã kiên trì khá lâu phương án lấy vĩ tuyến 13 song các nước khác lại dàn xếp phương án vĩ tuyến 16 – 17 và cuối cùng phương án lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến đã được chọn lựa.

Về việc này, ngay sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Hội nghị lần thứ 6 (khóa II) Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: những thắng lợi của ta “đã làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch biến chuyển có lợi cho ta nhưng chưa phải biến chuyển căn bản có tính chất chiến lược”[7]. Đứng trên quan điểm lịch sử mà soi xét thì thỏa thuận Giơ-ne-vơ năm 1954 phản ánh tương quan lực lượng lúc bấy giờ, ta khó đạt được kết quả lớn hơn, nhất là cả hai nước tài trợ chủ yếu cho nước ta là Liên Xô và Trung Quốc đều muốn hòa hoãn với phương Tây.

Từ đây lại nẩy sinh một bài học khác là nước ta luôn phải đối mặt với các thế lực hùng mạnh bên ngoài nên chỉ có thể tiến từng bước. Điều này được thể hiện rõ trong giai đoạn 1945 – 1946 khi ta chủ trương “hòa để tiến”. Điều này lại được thể hiện qua Hiệp định Giơ-ne-vơ và lặp lại qua Hiệp định Pa-ri năm 1973 qua đó ta mới đạt được yêu cầu “Mỹ cút”, chứ chưa đạt được mục tiêu “ngụy nhào” – điều mà năm 1975 mới giành được.

Còn một khía cạnh nữa là vấn đề Lào và Căm-pu-chia tại Hội nghị Giơ-ne-vơ. Số là, các lực lượng kháng chiến Lào và Căm-pu-chia không được dự Hội nghị và Hiệp định Giơ-ne-vơ mới chỉ đưa tới việc giải phóng miền Bắc Việt Nam, còn lực lượng Pathét Lào phải tập kết về hai tỉnh Sầm nưa và Phong Sa Lỳ; ở Căm-pu-chia lực lượng Khơme Issarak phải hòa nhập vào thể chế Vương quốc. Lợi dụng thực tế đó một số thế lực xuyên tạc rằng, Việt Nam đã “bỏ rơi” hai nước láng giềng anh em !

Xem lại các tài liệu thì câu chuyện hoàn toàn không phải vậy. Trong bài phát biểu của Đồng chí Trường Chinh được trích dẫn ở trên có đoạn nói “Kẻ xâm lược phải ngừng bắn, đi đến ký hòa ước, ngoại quốc rút quân khỏi Đông dương…Việt – Miên – Lào thống nhất lập trường nên nói Đông Dương. Nếu bây giờ chỉ đề ra rút quân đội ngoại quốc Việt Nam thì các bạn Miên – Lào sẽ nói ta thế nào?”. Và tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, Đồng chí Phạm Văn Đồng đã dành toàn bộ bài phát biểu đầu tiên cho việc đòi đại diện các lực lượng kháng chiến Lào và Căm-pu-chia phải được tham dự Hội nghị như các thành viên bình đẳng. Lập trường chính đáng này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần tại các phiên họp của Hội nghị, được nêu trong kiến nghị 8 điểm đưa ra ngày 10/5/1954, trong đó điểm 1 nhấn mạnh: “Nước Pháp phải công nhận chủ quyền và nền độc lập của nước Việt Nam trên toàn lãnh thổ Việt Nam, cũng như chủ quyền và nền độc lập của nước Khơ-me và nước Pathét Lào”.

Ngày 27/5 Bộ Chính trị điện cho Đoàn ta ở Hội nghị cho ý kiến chỉ đạo: “đồng ý khi bàn vấn đề ngừng bắn và đình chiến cần tranh thủ thực hiện ngừng bắn và đình chiến trên ba nước… Mưu của địch là: nếu chúng phải ngừng bắn ở Việt Nam thì chúng đem bớt quân sang Khơme, Pathét Lào hòng tiêu diệt lực lượng kháng chiến của nhân dân hai nước đó, củng cố địa vị ở đó để sau này quay lại đánh ta… Các anh nên xem lúc nào thuận lợi, đặt lại vấn đề Hội nghị Genève phải mời đại biểu hai chính phủ kháng chiến Khơme và Pathét Lào tham dự…”. Điều thú vị là Bộ trưởng Ngoại giao Pathét Lào là Nu Hắc và Bộ trưởng Ngoại giao Khơme kháng chiến Keo Pha lúc đó đã có mặt tại Giơ-ne-vơ để phối hợp đấu tranh.

Điều dễ hiểu là các nước phương Tây chỉ chấp nhận đại diện các chính quyền gắn bó với họ, không chấp nhận đại diện các lực lượng kháng chiến Lào và Căm-pu-chia tham dự Hội nghị; tách vấn đề Việt Nam bàn riêng; liên quan tới Lào và Căm-pu-chia chỉ đòi cái gọi là quân đội Việt Nam rút khỏi hai nước này, còn mọi chuyện coi như đã an bài.

Theo cuốn “Chu Ân Lai và Hội nghị Giơ-ne-vơ” nhắc tới ở trên, lúc đầu lập trường của Liên Xô và Trung Quốc  đống nhất với ta trong chủ trương giải quyết cả gói ba vấn đề Việt Nam, Khơme và Pathét Lào nhưng “sau trung tuần tháng 5, Chu Ân Lai đã xác định rõ không thể dùng kế hoạch cả gói để giải quyết vấn đề Đông dương, cách tốt nhất là phân biệt đối xử”…Ngày 27/5 Chu Ân Lai đưa ra Hội nghị lập trường 8 điểm và cùng ngày Tân Hoa Xã phát đi bản tin được Chu Ân Lai trực tiếp phê duyệt, trong đó nói “ về các khu vực tập kết quân đội, tình hình của 3 nước Đông dương – Việt Nam, Căm-pu-chia, Lào hoàn toàn khác nhau…vì vậy biện pháp giải quyết cũng không giống nhau” và trong cuộc gặp với Đồng chí Phạm Văn Đồng đêm 12/7 Chu Ân Lai đã nêu phương án quân Pathét Lào tập kết ở hai tỉnh Thượng Lào, còn Căm-pu-chia nên đồng ý rút quân Việt Nam, không đặt ra vấn đề tập kết quân (lúc ấy phía ta dự kiến nếu phải tập kết thì quân Pathet Lào rút về các tỉnh dọc biên giới với Việt Nam). Một tình tiết đáng chú ý là trước đó, ngày 20/6 Chu Ân Lai đã tiếp Ngoại trưởng Chính quyền Phnôm pênh Tep Phan và 21/6 đã tiếp Ngoại trưởng Chính quyền Viên chăn Sananikon bàn bạc nhiều nội dung về quan hệ giữa họ với Trung Quốc và với Việt Nam, về giải pháp tại Hội nghị Giơ-ne-vơ với nhiều tình tiết không ngờ. Tiếc rằng, do khuôn khổ bài viết không trích dẫn được; ai quan tâm nên tìm đọc.

Các tài liệu tôi mới được tiếp cận cung cấp đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng, trước sau như một Việt Nam kiên trì bảo vệ lợi ích của các lực lượng yêu nước Lào và Căm-pu-chia, ngược lại các thế lực bên ngoài đã dàn xếp mọi việc của hai nước này nhằm phục vụ cho lợi ích của họ, tách ba nước trên bán đảo Đông dương ra khỏi nhau. Thiết tưởng bài học này vẫn còn nguyên tính thời sự, đoàn kết Việt Nam – Lào – Căm-pu-chia trên cơ sở bình đẳng, cùng phát triển là quy luật sống còn của ba dân tộc.

Giống như mọi sự kiện lịch sử khác, Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông dương ẩn chứa trong mình nhiều khía cạnh không dễ gì nhận chân được ngay. Thời gian là khoảng cách cần thiết giúp mỗi người nhìn rõ được bức tranh toàn cảnh, trong đó mỗi người lại phát hiện ra những sắc mầu đậm nhạt khác nhau tùy theo nhu cầu và nhãn quan của riêng mình. Trên đây là một số cảm nghĩ, phát hiện rất riêng tư nẩy sinh trong đầu tôi khi đọc một số tư liệu gốc mới được tiếp cận liên quan tới sự kiện xẩy ra đúng 60 năm về trước và dường như chúng vẫn tươi mới đối với ngày nay và mai sau


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Điện biên phủ, Hội nghị Giơ-ne-vơ. Văn kiện Đảng. Nxb Chính trị quốc gia. Hà nội -2014, tr.350-351
[2] Sách đã dẫn, tr.350-351 và 360-364
[3] Bóa Nhân dân, số 152, từ 6 đến 10/12/1953
[4] Sách đã dẫn, tr.372
[5] Xem sách đã dẫn do Bộ Ngoại giao nước ta dịch năm 2008, tr. 34-35 căn cứ cuốn “Truyện Chu Ân Lai” của Nxb Văn hiến Trung ương Trung Quốc xuất bản tháng 2/1998, tr.154-155 và cuốn “Cuộc đời Thủ tướng Chu Ân Lai” của Nxb Nhân dân tháng 1/1997, tr.74-75
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam. Điện biên phủ - Hội nghị Giơ-ne-vơ. Văn kiện Đảng. Nxb Chính trị quốc gia. Hà nội – 2014, tr.614
[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội – 2000, t.15, tr. 223





TRÁI ĐẮNG GENÈVE (1954)

Hạ Mai

Nguồn: http://www.viet-studies.info/kinhte/HaMai_TraiDangGeneve.htm

Sự thay đổi Ban lãnh đạo trong điện Kremlin sau cái chết của I.V.Stalin (5-3-1953) - một trong những nhân vật nổi tiếng nhất thế kỷ XX, đã khiến các nhà lãnh đạo phương Tây nghĩ đến khả năng giảm bớt căng thẳng quốc tế. Hy vọng đó được thể hiện trong bài phát biểu nổi tiếng “The chance for Peace” của Tổng thống Eisenhower (16-4-1953) và phát biểu tại Hạ viện nước Anh của Thủ tướng Winston Churchill (11-5-1953). Kêu gọi tổ chức đàm phán cấp cao nhằm “hạ nhiệt” cuộc Chiến tranh Lạnh đang rất “nóng” của Nguyên thủ một số nước phương Tây gặp sự phản hồi tích cực của Liên Xô. Hội nghị Genève được “thai nghén” trong điều kiện đó.

  1Đường đến Genève

Trong xu hướng hòa hoãn giữa các nước lớn, ngày 28-9-1953, Liên Xô đề nghị các nước có liên quan tổ chức một hội nghị quốc tế,xem xét, đề xuất các biện pháp giảm thiểu căng thẳng trong tình hình thế giới, giải quyết vấn đề chiến tranh – hòa bình ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Ngày 25-1-1954, Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao giữa Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ khai mạc tại Berlin ra thông báo sẽ triệu tập Hội nghị Genève, bàn giải pháp cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương.

Thất bại liên tiếp trên chiến trường, lúng túng, bị động trong chiến lược, chiến thuật, ngân khố thâm hụt trầm trọng…, Pháp mong muốn nhanh chóng tìm ra một giải pháp cho cuộc chiến tranh Đông Dương. Nhìn thấy ở Hội nghị Genève cơ hội giải quyết chiến tranh Đông Dương thông qua thương lượng, dù đang ở vào tình thế bất lợi về quân sự, song Pháp muốn đàm phán trên tư thế áp đảo - cuộc thương lượng như De Gaulle minh định: “Đó không phải là nhượng bộ, đó là hòa bình của vũ trang”[1]. Nước Pháp đặt cược vào canh bạc lớn - giải quyết cuộc chiến tranh “một cách thể diện” bởi H.Navarre và “con nhím thép” Điện Biên Phủ - “Verdun” của Đông Nam Á. Pháp quyết tâm bảo vệ Điện Biên Phủ đến cùng, quan niệm “nếu giữ được Điện Biên Phủ có nghĩa là cứu được xứ Đông Dương thuộc Pháp…”[2].

Đón nhận tin tức về Hội nghị Genève, ngày 2 -11- 1953, Hồ Chí Minh thay mặt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đưa ra thông điệp: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút ra được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”[3]. Ngày 13-13-1954, Hội đồng chính phủ VNDCCH nhóm họp, bày tỏ quan điểm tán thành Hội nghị Genève, thảo luận về lập trường, phương châm đấu tranh ngoại giao và cử Đoàn đại biểu tham gia Hội nghị (do Phạm Văn Đồng dẫn đầu). Trên quan điểm giải quyết chiến tranh: “cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước Việt Nam” [4], VNDCCH chủ trương vừa đánh, vừa đàm. Chủ trương  “đánh - đàm” được khái quát ngắn gọn: Đánh  cho đến khi có ưu thế hơn đối phương và đợi đến lúc ở Genève đạt được được thoả thuận chính trị phù hợp rồi mới đình chiến, thậm chí chỉ đồng ý đình chiến về nguyên tắc, còn nội dung đình chiến cụ thể phụ thuộc vào sự phát triển của tình hình.

Nhằm tạo thế cho cuộc đàm phán sắp đến, trung tuần tháng 12-1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, coi đó là đòn “rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế”[5].

Nhận xét về thời điểm phát động và mục tiêu cuộc “so găng lịch sử” Điện Biên Phủ, sĩ quan tình báo Mỹ L. A. Patti viết: “Cái pháo đài mới được tăng cường này đã có tầm quan trọng về chính trị và tâm lý hơn hẳn giá trị chiến lược thực tế của nó vì Hội nghị Genève sắp khai mạc”[6]. Với quyết tâm của hai bên tham chiếm, lực lượng con người và vật chất được dốc vào thung lũng lòng chảo vùng Tây Bắc[7], Điện Biên Phủ trở thành nơi đọ sức, cuộc chạy đua nước rút quyết liệt, mà mỗi bên đều gửi gắm vào đó những mục tiêu quyết tử, có giá trị quyết định trong ván cờ cuối cùng. Mục tiêu trên bàn đàm phán của Hội nghị Genève) đã biến Điện Biên Phủ thành đấu trường khốc liệt, khi kết cục của nó quyết định “miếng bánh” của các bên liên quan, tất nhiên, nếu việc chia bánh được đặt trên căn cứ của luật chơi “sòng phẳng”, công bằng.

Liên quan tới Quốc gia Việt Nam (QGVN), tháng ba năm 1954, Thủ tướng Nguyễn Phúc Bửu Lộc mở cuộc điều đình với Pháp về chủ quyền của Việt Nam, đề nghị Pháp ký hai Hiệp ước. Hiệp ước thứ nhất về công nhận độc lập trọn vẹn của QGVN, QGVN sẽ tách khỏi Liên hiệp Pháp trở thành một nước độc lập. Hiệp ước thứ hai về quan hệ giữa Việt Nam và Pháp[8].

Những nước còn lại tham dự Hội nghị (Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh) tuy không là “đương sự” trực tiếp, song lại có quyền quyết định quan trọng, có những dự định, kế hoạch tiếp cận và giải quyết những vấn đề trọng yếu của Hội nghị đáp ứng/thỏa mãn quyền lợi của mình lớn hơn mục tiêu giải quyết vấn đề Triều Tiên, cũng như vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Bức tranh toàn cảnh mối liên hệ giữa các nước lớn có mặt ở Hội nghị mang tính “thắt” - “mở”, bị chi phối, quy định bởi những toan tính và kế hoạch riêng/chung hết sức phức tạp, bộc lộ ngày một rõ hơn trong tiến trình Hội nghị.

2- Nỗi thất vọng mang tên Genève

Ngày 26-4-1954, Hội nghị Genève chính thức khai mạc. Giai đoạn một của Hội nghị  chủ yếu bàn về vấn đề Triều Tiên, song không khí Genève ngày một nóng dần lên bởi những diễn biến chiến sự ở Đông Dương. Đặc biệt, Hội nghị khai mạc trùng với thời điểm Quân đội nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên Phủ, khiến Genève dường như cũng khét lẹt mùi khói lửa chiến trường.

Ngày 4-5-1954, Đoàn VNDCCH do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu có mặt ở Genève[9]. Phạm Văn Đồng vừa đặt chân tới Genève, “vấn đề Đông Dương tại Hội nghị nhộn nhịp hẳn lên”[10]. Phạm Văn Đồng “đến Genève với nét mặt rạng rỡ. Tin chiến thắng từ mặt trận Điện Biên Phủ liên tiếp báo về làm cho ông tràn đầy hy vọng”[11].

Cuối cùng, thời khắc định mệnh đã đến - 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm Sở Chỉ huy cứ điểm, Tướng Đờ Cát và toàn bộ Bộ Tham mưu bị bắt sống - cuộc chiến tranh Đông Dương rơi vào “điểm trắng” của lịch sử. Cả nước Pháp chết lặng, bàng hoàng. Wilfred Burchett bình luận: “Người đồng chí thân thiết của ông Phạm Văn Đồng là ông Võ Nguyên Giáp đã trao lại cho ông một vũ khí hiệu nghiệm nhất, mà không phải bất kỳ nhà thương lượng nào cũng dám nghĩ đến khi bắt đầu một hội nghị như vậy”[12].

Điện Biên Phủ thất thủ đã khiến nội tình nước Pháp chia rẽ sâu sắc thêm, Pháp không còn con đường nào khác là phải nhanh chóng rút lui khỏi Đông Dương. Nhiệm vụ cấp bách nhất của phái đoàn Pháp tại Hội nghị Genève là đạt được ngừng bắn càng sớm càng tốt, hy vọng thương lượng trên thế mạnh của Pháp tan vỡ. Trong phiên họp đầu tiên, “Trưởng đoàn đám phán Pháp Mendès-France đưa ra đề nghị hạn chế sự hiện diện của quân đội Pháp ở phía nam vĩ tuyến 17”[13], dù trước đó khăng khăng yêu cầu vĩ tuyến 18.

Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi một ngày trước khi Hội nghị Genève về Đông Dương khai mạc – “nhờ thời điểm tuyệt diệu của ông Giáp, kế hoạch Đa-lét nhằm quốc tế hoá cuộc chiến tranh đã thất bại”[14]. Điều đó càng củng cố thêm lập trường đàm phán “thực sự độc lập, thống nhất và dân chủ tự do”[15]; “hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc”[16] của VNDCCH. Những yếu tố hội tụ cho phép VNDCCH hy vọng về một kết quả công bằng tại Genève thỏa mãn lập trường đàm phán đã xác định.

Về phía Quốc gia Việt Nam, ngày 4-6-1954, Thủ tướng Pháp Joseph Laniel và Thủ tướng QGVN Nguyễn Phúc Bửu Lộc ký Hiệp ước công nhận QGVN độc lập hoàn toàn[17]. Ít lâu sau, Hiệp ước liên hiệp Việt-Pháp thỏa thuận về việc Việt Nam nằm trong Liên hiệp Pháp cũng được ký kết[18]. Trở thành Thủ tướng, Mandès France hứa tôn trọng những thỏa ước này - đây cũng là cơ sở để QGVN yêu cầu người Pháp phải tôn trọng sự thống nhất lãnh thổ của Việt Nam, chống lại mọi sự chia cắt; coi sự hiện diện của phái đoàn VNDCH ở Hội nghị là không có tính pháp lý.

Như đã nói ở trên, đến Hội nghị với những yêu cầu phù hợp với tương quan lực lượng trên chiến trường (Pháp phải thỏa thuận vô điều kiện về việc rút quân theo lịch trình ấn định, Việt Nam phải được thống nhất), VNDCCH mong muốn độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và có lập trường đàm phán khá cứng rắn. Tuy nhiên, tiến trình đàm phán, kết quả Hội nghị thực sự là điều bất ngờ, là “viên thuốc đắng” mà VNDCCH phải cố nuốt trôi: Thỏa thuận đạt được ở Genève nghiêng về kế hoạch của Pháp hơn là của VNDCCH[19]. Những nội dung mang tính then chốt được chính thức ấn định tại Hội nghị (20-7-1954) chỉ mang lại cho VNDCCH nửa nước trên bản đồ thế giới.

Về ranh giới phân vùng, khi Chu Ân Lai nhắc đến giới tuyến 17, cả Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh đều cảm thấy ngỡ ngàng. Hồ Chí Minh nói với Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh: “Với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải dành được vĩ tuyến 16”[20]. Jean Lacouture mô tả nỗi “ấm ức” của Trưởng đoàn đàm phán VNDCCH: “Chung quanh một chiếc bàn lớn, ghế xô đẩy ngổn ngang, người ta thấy Eden và P.M.F (Pierre Mendès France- TG), Molotov và Chu Ân Lai đang bao quanh Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng mồ hôi nhễ nhại, mặt hốc hác đầy vẻ đau đớn nhìn vào bản đồ Đông Dương trước mặt: Lãnh thổ của Việt Nam cộng sản bị đẩy lùi dần từng cây số một về phía Bắc”[21]. Sau này, Phạm Văn Đồng cay đắng thốt lên: “Chúng tôi có thể giành được nhiều hơn, nhiều hơn nữa. Chúng tôi đã thoả thuận trước với Trung Quốc về mọi điều. Nhưng Chu Ân Lai đã có cuộc hội đàm bí mật với Mandès France và tất cả đều đã thay đổi”[22].

Ngay từ ngày ấy, những người cộng sản Việt Nam đã hoài nghi về khả năng một nền hòa bình đến sớm. Võ Nguyên Giáp lo lắng tiên liệu: “Pháp còn gần năm mươi vạn quân, lại thêm Mỹ giúp thì rất ít có khả năng hòa bình thống nhất Việt Nam”[23]
Với Quốc gia Việt Nam, tình hình còn tệ hại hơn nhiều. Tham gia Hội nghị, QGVN chỉ tồn tại một cách hình thức bên cạnh phái đoàn Pháp. Trong các buổi họp hẹp giữa Pháp và VNDCCH, đại biểu của QGVN không được mời tham dự dù với tư cách quan sát viên. Trong phiên họp toàn thể, chỉ có các trưởng phái đoàn Pháp và VNDCCH đưa ra quan điểm và thảo luận, sau đó Pháp thông báo mọi quyết định cho phái đoàn QGVN.

Ngày 17-7-1954, phái đoàn QGVN gửi Kháng nghị đến Pháp và Mỹ, phản đối Pháp đã không thông báo về những đề xuất được mang ra thảo luận – những đề xuất, như bản Kháng nghị khẳng định: “Không hề đếm xỉa đến ý chí đoàn kết dân tộc muôn người như một của nhân dân Việt Nam”[24]. Phái đoàn QGVN yêu cầu: “Ngừng bắn phải đi kèm với giải trừ quân bị mọi lực lượng tham chiến tại Việt Nam; đặt Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp Quốc trong thời gian an ninh, trật tự, hòa bình từng bước được tái lập và hoàn tất (…). Cuối cùng, để nhân dân Việt Nam tự quyết định vận mệnh của mình thông qua bầu cử tự do”[25]. Bản Kháng nghị lưu ý: “Đặt một Việt Nam thống nhất dưới quyền kiểm soát của Liên Hợp Quốc thích hợp hơn là duy trì quyền lực ở một đất nước bị chia cắt và bị đẩy vào vòng nô lệ”[26]. Tuy nhiên, những kháng nghị của QGVN như được rót vào tai người điếc, không nhận được bất kỳ phản hồi nào.

Tại phiên họp toàn thể cuối cùng, Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ “yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ quốc gia Việt Nam dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện thống nhất, độc lập và tự do cho xứ sở”[27]. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ tuyên bố: “Chính phủ Quốc gia Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt”[28], yêu cầu chèn thêm vào bản Tuyên bố nội dung: "Hội nghị ghi nhận Tuyên bố của Chính phủ của Nhà nước Việt Nam về cam kết thực hiện và hỗ trợ mọi nỗ lực thiết lập một nền hòa bình thực sự và lâu dài tại Việt Nam; không sử dụng vũ lực chống lại các thủ tục để lệnh ngừng bắn có hiệu lực, trong khi Nhà nước Việt Nam vẫn bảo lưu sự phản đối được nêu lên ở Tuyên bố cuối cùng”[29]. Yêu cầu đã bị bác bỏ thẳng thừng. Thất vọng vì “người Pháp đã trơ trẽn và bất chấp luật lệ bán rẻ lợi ích của Quốc gia Việt Nam”[30], trả lời phỏng vấn báo chí, Trần Văn Đỗ tiết lộ: “Phái đoàn quốc gia Việt Nam đã không được biết về thoả thuận đình chiến. Từ khi đến Genève, phái đoàn không hề được hỏi ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử… Những vấn đề này đều được thảo luận tại những phiên họp hẹp; do vậy, phái đoàn Quốc gia Việt Nam không thể bày tỏ quan điểm”[31]. Tức tưởi, chán nản, bất lực, từ Genève, Trần Văn Đỗ gửi điện xin từ chức.

 Trước kết cục cuối cùng của Hội nghị Genève, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng QGVN Phan Huy Quát tuyên bố: “Chia cắt Việt Nam sẽ dẫn tới nguy cơ làm dấy lên cuộc chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam (…) Đình chiến và phân vùng sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh nguy hiểm hơn”[32]. Với quan điểm tương tự, Tướng Nguyễn Văn Hinh phát biểu: “Đình chiến và chia cắt lãnh thổ Việt Nam là một biện pháp tạm thời để ngăn chặn sự đổ máu, nhưng không thể chấm dứt chiến tranh. Và có thể, người Việt Nam sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh như ở Hàn Quốc, nơi quân đội của cả hai bên luôn đặt ngón tay lên cò súng”[33].

Căn cứ trên điều khoản “không bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này” của Hiệp ước Traité D’indépendance Du VietNam (4-6-1954), QGVN tuyên bố không bị ràng buộc bởi Hiệp định Genève. Tuy nhiên, theo phân tích trong Official record của U.S. Senate Subcommittee, thì có ít nhất hai lý do khẳng định QGVN vẫn bị ràng buộc: 1- Chính phủ này chỉ sở hữu một vài thuộc tính của một chủ quyền đầy đủ; 2- Phụ thuộc vào Pháp về quốc phòng[34].

3- Nền hòa bình vỡ vụn

Hiệp định Genève đã không hoàn thành sứ mệnh của mình. Sau 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp hết sức căng thẳng với những màn đấu trí, đấu lực gay gắt, những “lỗ hổng” trong Hiệp định Genève đã đặt Đông Dương trên bờ vực của một cuộc chiến tranh mới.

Ngay khi những tin tức của Hiệp định Genève và những điều khoản chuyển quân của nó được công bố, nhiều người miền Bắc rơi vào tình trạng lo âu, phấp phỏng. Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, cuộc di cư của một bộ phận người miền Bắc bắt đầu. Đến năm 1956,khoảng 880.000 người đã di cư vào Nam, trong đó có 750.000 người Công giáo (chiếm 85% số lượng người di cư)[35]. Quyết định áp đặt mô thức Triều Tiên cho Việt Nam của các nước lớn đã dẫn đến cuộc “thiên di lịch sử”, gây nên cảnh ly tán của hàng trăm ngàn gia đình kẻ Bắc, người Nam. Nỗi đau chia cắt đã làm vỡ vụn nền hòa bình chưa kịp đến.

Trên bàn cờ của các nước lớn, cả VNDCCH và QGVN đều là những thực thể chính trị lẻ loi, không đủ sức thoát khỏi ảnh hưởng và những sắp đặt sẵn của các nước lớn đồng minh hoặc không đồng minh.

Đối với VNDCCH, lựa chọn ý thức hệ cộng sản, tin tưởng ở chủ nghĩa quốc tế vô sản, chưa đủ mạnh về quân sự, cô lập về ngoại giao… những yếu tố đó đan quyện, chi phối, dần dần dẫn đến sự phụ thuộc của Chính phủ Hồ Chí Minh vào Liên Xô và nhất là vào Trung Quốc. Sự phụ thuộc đó bắt đầu từ năm 1950 (khi Trung Quốc đẩy mạnh viện trợ và đồng ý gửi cố vấn quân sự, kinh tế - tài chính, tổ chức… giúp Việt Nam kháng Pháp), tích tụ và để lại hậu quả “nhỡn tiền” tại Genève - VNDCCH đã không thể đưa ra và thực hiện một chiến lược hiệu quả trên “đấu trường” giữa các nước lớn.

Tiến hành kháng chiến chống Pháp trong thế bị bao vây, cô lập, thiếu kinh nghiệm đàm phán, nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về chính sách của các nước lớn[36], có một “niềm tin chân thực”, tương đối “ngây thơ” đối với đồng minh và đặc biệt bị xiết chặt bởi “vòng kim cô” ý thức hệ, VNDCCH đã không (hoặc không đủ tỉnh táo) xem xét, nghiên cứu phương án “đặt Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp Quốc” mà QGVN đưa ra. Bước trượt ấy rất có thể đã khiến cả hai miền Nam, Bắc lỡ một nhịp trên con đường hòa hợp.

Giúp đỡ nhiều mặt của Mao Trạch Đông cho cuộc kháng chiến chống Pháp đã khích lệ Chính phủ VNDCCH, tạo những hi vọng lớn lao về nền độc lập không xa; đồng thời, những điều đó đã khiến lãnh đạo VNDCCH không kịp nhận ra rằng, Trung Quốc đang “đầu tư” vào chiến tranh Đông Dương, biến Việt Nam thành lá chắn ngăn chặn đường tấn công và xâm nhập của Hoa Kỳ. Siêu cường không thể không có vệ tinh – Trung Quốc dần đưa Việt Nam vào vùng ảnh hưởng, vào quỹ đạo của Trung Quốc. Một Việt Nam giàu mạnh, độc lập với Trung Quốc, có quan hệ ngoại giao rộng rãi với nhiều nước nhất định sẽ “thoát Trung”, sẽ không thể là chư hầu - đó cũng là lý do Trung Quốc “sốt sắng” với giải pháp chia cắt Việt Nam, ủng hộ để Việt Nam rút quân khỏi Lào và Campuchia.

Cũng vì tin tưởng đồng mình, VNDCCH đã không thấy rằng, dường như mọi vấn đề về Đông Dương đã được các nước lớn sắp đặt và quyết định. I.V. Gaiduk bình luận: “Đến Moscow vào đêm trước của Hội nghị Genève, phái đoàn Việt Nam do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu đã không được thảo luận về phương thức, con đường giải quyết vấn đề Đông Dương, mà chỉ còn cách đồng ý với Liên Xô, Trung Quốc và phối hợp thực hiện những vấn đề về chiến thuật”[37]. Dưới áp lực của Liên Xô, Trung Quốc, dù cố giữ lập trường cứng rắn, nhưng cuối cùng, các yêu cầu đàm phán  của VNDCCH buộc phải hạ thấp dần, chỉ có Chu Ân Lai có được “tất cả mọi thứ đã được tiên liệu và dự đoán trước”[38].

Cuối cùng, giải pháp chia cắt Việt Nam bằng lằn ranh mang tên “vĩ tuyến 17” đã không mang đến thậm chí là “nền hòa bình mong manh”. Hai miền đất nước, hai chế độ và 21 năm chiến tranh đằng đẵng… lịch sử Việt Nam ở thời điểm đó và cả sau này, bị chế định bởi “giải pháp” của những “người ngoài cuộc”. “Vị đắng” Genève còn rơi rớt đến bây giờ.



[1] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Beijing: History of CPC Press, 2005p.23.
[2] Jean Pouget: Tướng H.Navarre với trận Điện Biên Phủ, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, tr. 314.                                                                                                                                             
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, tr.340.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.340.
[5]Hồ Chí Minh: Thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày 22-12-1953, tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
[6] Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng, 2001, tr.826.
[7] Về phía Pháp, Điện Biên Phủ được bố trí 49 cứ điểm liên hoàn, có thể hỗ trợ nhau khi bị tiến công, có 17 tiểu đoàn bộ binh, đa số là lính Âu Phi thiện chiến, lính dù tinh nhuệ và 116 khẩu pháo, cối các loại, 10 xe tăng cùng các loại vũ khí, khí tài hiện đại khác như súng phun lửa, súng đại liên nhiều nòng, mìn đĩa, mìn napan, máy ngắm hồng ngoại…, hàng ngày được 50-60 máy bay vận tải tiếp tế từ 150 đến 200 tấn vật liệu chiến tranh và các đồ dùng quân sự. Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Khối lượng vật chất bảo đảm cho chiến dịch lên tới 20.000 tấn, trong đó có 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu, 14.950 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác; huy động hơn 260.000 dân công, trên 20 nghìn xe đạp thồ, 17.000 ngựa thồ, trên 11.800 thuyền bè mảng và 628 xe ô tô phục vụ vận chuyển hàng hoá, vũ khí đạn dược cho chiến dịch. Các Đại đoàn bộ binh 308, 304, 312, 316, Đại đoàn công pháo 351 được huy động cho chiến dịch (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự: Lịch sử hậu cần kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 296, 279).
[8] South Vietnam A Political History 1954-1970, Keesing's Research, Report (1970), p.3.
[9] Ngày 27-4-1954, Anh, Mỹ uỷ nhiệm Pháp gặp Liên Xô thỏa thuận về thành phần Hội nghị. Trong cơ cấu Hội nghị, Anh, Pháp, Mỹ loại VNDCCH. Nhờ sự nỗ lực của Liên Xô, ngày 2-5-1954, các nước chấp nhận sự có mặt của Việt Nam. Liên Xô cũng tỏ ý không phán đối nếu QGVN, Vương quốc Lào và Campuchia cử đại diện tham gia.
[10] Dẫn theo Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.110
[11] Ibid, p.110.
[12] Burchett, George and Shimmin, Nick: Memoires of A Rebel Journalist: The Autobiography of  Wilfred Burchett, University of New South Wales Press, Sydney, New South Wales, 2005, p.190.
[13] Nikita Khrushchev: Memoirs of Nikita Khrushchev, volume 3 statesman (1953–1964), Pennsylvania State University Press, 2006, p.501.
[14] Burchett, George and Shimmin, Nick: Memoires of A Rebel Journalist: The Autobiography of  Wilfred Burchett, University of New South Wales Press, Sydney, New South Wales, 2005, p.190.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Sđd, tr.475.
[16] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 14, tr. 554
[17]  The Pentagon Papers, Gravel Edition Volume 1, Chapter 5, "Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960" (Boston: Beacon Press, 1971). Hiệp ước Traité D’indépendance Du VietNam có nội dung như sau: 1- Nước Pháp thừa nhận nước Việt Nam như là một quốc gia hoàn toàn độc lập có đủ mọi thẩm quyền công nhận bởi công pháp quốc tế; 2- Nước Việt Nam thay thế nước Pháp trong mọi quyền hành trong các hiệp ước, giao ước mà nước Pháp đã nhân danh nước Việt Nam mà ký kết trước đó về những khoản liên quan đến Việt Nam,cũng như không bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này; 3- Nước Pháp cam kết trả lại mọi công vụ mà Pháp đang chuyên trách tại Việt Nam; 4- Hiệp ước này có hiệu lực kể từ ngày ký, hủy bỏ mọi văn kiện và quy định trước trái ngược với hiệp ước này.
[18] Hiệp ước Traité d’association Franco Vietnamienne  thừa nhận Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp; Pháp và Việt Nam đều bình đẳng, hai bên hợp tác tại Hội đồng tối cao Liên hiệp Pháp; mọi xung đột, nếu có sẽ được giải quyết tại Hội đồng trọng tài do hai bên cử ra.
[19] Ranh giới tạm thời chia cắt đất nước vĩ tuyến 17 (thay cho vĩ tuyến 13 theo yêu cầu ban đầu) và thời hạn hai năm tổng tuyển cử (thay vì 6 tháng như đề nghị); VNDCCH phải rút hết quân đội khỏi Lào và Campuchia
[20] Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội nhân dân, 2000, tr.428.
[21] Jean Lacouture, Philippe Devillers: La Fin d'une guerre: Indochine 1954, Éditions du Seuil, 1960, p.311.
[22] Wilfred Burchett, The China Cambodia Viet Nam Triangle, London: Zed Press, 1981.
[23] Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Sđd, tr.429.
[24] The Pentagon Papers - U.S.-Vietnam Relations1945-1967, A Study Prepared by the Department of Defense.
[25]Ibid.
[26]Ibid.
[27] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3, , "The Geneva Conference, May-July, 1954", (Boston: Beacon Press, 1971).
[28] Ibid.
[29]The Pentagon  U.S.-Vietnam Relations1945-1967, A Study Prepared by the Department of Defense.
[30] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3.
[31] Ibid.
[32] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5, Ibid.
[33] Ibid.
[34] Ibid.
[35] Linh Mục Trần Tam Tỉnh: Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr.112.
[36] Việt Nam chưa đánh giá đúng ý đồ của Mỹ, cho rằng sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương là nhằm xâm lược Việt Nam, mà không biết rằng, bản chất sự can thiệp ấy là để ngăn chặn “làn sóng đỏ” mà Trung Quốc là đầu tàu. Vì thế, từ những năm cuối của cuộc chiến tranh Đông Dương trở đi, Việt Nam luôn xác định Mỹ là kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm.
[37]А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: Холодная война. 1945—1963 гг. Историческая ретроспектива, Сб. Ст, ОЛМА-ПРЕСС, М. 2003, C.285.
[38] Chen Jian: China and the First Indo-China War, 1950-54,  p.110.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét