Trong
suốt chiều dài lịch sử, hàng loạt các loại phương tiện giao thông, cá
nhân cũng như công cộng, lần lượt xuất hiện tại Việt Nam. Theo luật đào
thải tất nhiên của cuộc sống, chúng cũng lần lượt được thay thế bằng
những phương tiện mới hơn nhằm phục vụ cuộc sống tốt hơn. Loạt bài viết
này sẽ điểm qua những phương cách di chuyển xưa của người Việt mà cho
đến ngày nay đã trở thành quá khứ.
KIỆU
Bắt đầu từ thời phong kiến triều Nguyễn (1802-1945) vua chúa mỗi lần xuất cung đều dùng kiệu để đi lại. Sách Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ, do Nội các triều Nguyễn biên soạn, đã dành hẳn chương Nghi vệ (quyển
79) để miêu tả các loại kiệu dùng cho vua quan triều Nguyễn, với những
quy định rất cụ thể về tên gọi, số lượng kiệu cùng các nghi trượng đi
kèm, tùy thuộc vào thời thế, địa vị và thứ bậc của người sử dụng.
Kiệu hoàng gia triều Nguyễn
Dưới triều vua Gia Long (1802 – 1820), xe kiệu của vua có 4 chiếc, gồm 1 chiếc Ngọc lộ, 1 chiếc Kim lộ và 2 chiếc Kim bảo dư. Sang triều Minh Mạng (1820 – 1841), vua có 5 chiếc, được đặt tên là Cách lộ, Kim lộ, Ngọc lộ, Tượng lộ và Mộc lộ. Tùy mục đích chuyến đi, nhà vua quyết định dùng loại “xe” nào.
Sách
cũng cho biết khi vua đi chơi thì không thực hiện đầy đủ nghi thức như
khi vua đi cúng tế ở các đàn miếu. Lúc này nhà vua chỉ sử dụng 1 chiếc
lọng vàng thêu hình rồng để che mưa nắng, có đội quân tiền đạo và hậu hổ
đi theo hộ tống. Dưới triều Minh Mạng, nhà vua quy định: ngự giá đi
trong phạm vi Hoàng Thành thì phải giảm bớt một nửa số cờ quạt và không
cần voi ngựa hộ tống để tránh… “kẹt đường”.
Kiệu của hoàng thái hậu, gọi là Từ giá, cũng hoành tráng không kém, gồm 1 Phượng dư và 1 Phượng liễn. Lỗ bộ tháp tùng Từ giá có
2 lá cờ rồng, 2 lá cờ phượng, 2 lá cờ thanh đạo, 8 lá cờ phướn, 2 quạt
thêu hình rồng phượng màu vàng, 4 quạt thêu hình rồng phượng màu đỏ, 4
quạt thêu hình loan phượng màu xanh và thêm 20 thứ binh khí hộ vệ.
Kiệu của thái tử chỉ có 1 chiếc, gọi là xe Bộ liễn. Lỗ bộ tháp tùng xe này chỉ có 1 cờ lệnh, 2 cờ xanh, 2 cờ đỏ, 2 cờ vàng, 2 cờ trắng, 2 cờ đen, 8 lá cờ phướn, 1 chiếc tán hình tròn thêu hình 7 con rồng, 4 chiếc tán hình vuông, 4 chiếc lọng màu đỏ, 6 lọng màu xanh vẽ rồng mây…
Sang triều Khải Định (1916-1925), nhà vua được người Pháp tặng cho một chiếc xe hơi nhân lễ Tứ tuần Đại khánh (mừng
thọ vua 40 tuổi). Từ đó, ngoài việc dùng ngự giá truyền thống trong các
dịp tế lễ, đôi khi vua Khải Định còn dùng xe hơi để du ngoạn hay đi săn
bắn ở bên ngoài Hoàng Thành.
Cựu hoàng Hàm Nghi trên chiếc xe ngựa với ý trung nhân, Bà Laloe
Trước đó, triều đình có cho dựng ở phía trước Ngọ Môn 2 tấm bia đá, trên bia có ghi 4 chữ Hán: Khuynh cái hạ mã,
nghĩa là khi đi ngang qua đây thì mọi người phải nghiêng lọng và xuống
ngựa. Kể từ khi vua Khải Định dùng xe hơi, thì 2 tấm bia này không còn
thích hợp nữa. Vì thế, triều đình đã cho nhổ 2 tấm bia này đưa vào cất
giữ trong kho của Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình
Huế).
Đây
cũng là nơi đang trưng bày chiếc kiệu sơn son thếp vàng của vua Bảo
Đại, dùng để đi lại trong phạm vi Hoàng Thành Huế. Ngoài ra, trong kho
của Bảo tàng này đang lưu giữ chiếc kiệu mà vua Bảo Đại đã từng dùng khi
đi tế Nam Giao vào năm 1935.
Sang
đến thời kỳ Pháp thuộc, kiệu vẫn được sử dụng nhưng đối tượng dùng kiệu
được mở rộng. Vào thời này, kiệu còn dành cho các quan thuộc địa người
Pháp cùng gia đình và những chức sắc người bản xứ trong việc đi kinh lý
hoặc ngoạn cảnh. Trong những bức hình du ngoạn bãi biển Đồ Sơn dưới đây,
người khiêng kiệu đều là phụ nữ bản xứ, họ gánh kiệu trên 2 thanh gỗ
ngang và kiệu được đặt trên 2 thanh dọc dài hơn.
Phu kiệu toàn là phụ nữ người bản xứ
Phu kiệu nghỉ ngơi
Trong phim Indochine do
đạo diễn Régis Wargnier thực hiện vào tháng 4/1992 với các diễn viên
Catherine Deneuve (trong vai Eliane), Vincent Perez (John the Baptist),
Linh Dan Pham (Camille), Jean Yanne (Guy Asselin), khán giả được thấy
cảnh ngồi kiệu của diễn viên đóng vai John the Baptist. Indochine là
một phim hoành tráng mô tả cuộc sống của người Pháp thời đi mở thuộc
địa tại Đông Dương. Phim sử dụng tới 1800 bộ y phục của cả người Âu lẫn
người bản xứ.
Kiệu trong phim “Indochine” của Régis Wargnier
Vào
thời phong kiến, quan lại triều Nguyễn không được phép dùng kiệu mà chỉ
ngồi võng có mui che, được khiêng bởi 4 người lính. Đòn ngang của võng
sơn son thếp vàng, khắc hình con giao long, đòn dọc của võng khắc hình
con thú ứng với phẩm trật của vị quan ngồi trên võng.
Võng
bằng lụa màu hồng. Mui che võng được quang dầu màu xanh để che mưa
nắng. Quan lại trên hàng nhất phẩm thì có 4 người lính vác 4 chiếc lọng
theo hầu, quan nhất phẩm chỉ có 3 lọng, quan nhị phẩm chỉ có 2 lọng và
quan từ tam phẩm xuống đến cửu phẩm chỉ có 1 người vác lọng theo hầu.
Võng được dùng để phục vụ các quan lại trong triều
Ngoài ra, những tân khoa thi đỗ đều được dùng võng để về làng “Vinh quy, Bái tổ”. Trong ca dao xưa có câu “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” để mô tả sự vinh quang của người học trò thành đạt.
Tin
người đỗ đạt được đưa về làng, hương chức, dân làng họp ở đình, cắt cử
người ra gập Tân khoa để ấn định ngày vinh quy, rước về nguyên quán.
Thường thì đỗ Tú tài chỉ làng xã rước, đỗ Cử nhân hàng huyện phải rước,
đỗ Tiến sĩ thì hương lý, trai tráng hàng tổng đem đủ nghi lễ, cờ quạt
đón từ tỉnh rước về làng. Tuy nhiên, những người trong họ quan Tân khoa
được miễn làm phu phen đi rước.
Xe kéo
Tìm hiểu về lịch sử của chiếc xe kéo,
người ta cho rằng loại xe này đã ra đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị tại
Nhật Bản, vào khoảng năm 1869. Hồi đó, những gia đình khá giả có thể tậu
một chiếc xe do người làm kéo đi những lúc cần di chuyển, thay vì phải
đi bộ.
Theo
Wikipedia, xe kéo – tiếng Anh là Rickshaw, tiếng Pháp là Pousse-Pousse –
bắt nguồn từ tiếng Nhật “Jinrikisha” trong đó ghép bởi “jin” (con
người, nhân), “riki” (sức lực) và “sha” (xe). Như vậy, “Jinrikisha” là
loại xe chạy bằng sức kéo của con người.
Xe kéo xưa trên bưu ảnh của Nhật Bản
Bắt
đầu từ năm 1870, chính quyền thành phố Tokyo cấp giấy phép sản xuất và
bán xe kéo cho 3 người được coi là nhà sáng tạo phương tiện vận chuyển
“tân kỳ” này: Izumi Yosuke, Takayama Kosuke và Suzuki Tokujiro. Để được
phép hoạt động tại Tokyo, xe kéo phải được đóng dấu cho phép của 3 nhà
phát minh này.
Xe
kéo lần lượt xuất hiện tại các thành phố châu Á như Trung Hoa (1873),
Singapore (1880), Việt Nam (1883) và vào cuối thế kỷ thứ 19 tại Ấn Độ,
Nepal, Bangladesh, Indonesia, Hồng Kông, Triều Tiên… Nói chung, xe kéo
có mặt khắp lục địa Á Châu là nơi có dân số đông nhất thế giới và cũng
là nơi có trình độ phát triển kém hơn châu Âu, châu Mỹ.
Xe kéo tại Ấn Độ
Năm
1883, chiếc xe kéo, hay còn gọi là xe tay tại miền Bắc, xuất hiện lần
đầu tiên tại Hà Nội do Thống sứ người Pháp, Jean Thomas Raoul Bonnal,
cho đem từ bên Nhật qua. Xe kéo Hà Nội xuất hiện một năm sau chiếc xe
hơi đầu tiên tại Âu Châu và một năm trước xe tramway, một loại xe do
ngựa kéo. Gần 15 năm sau, Sài Gòn mới biết tới loại xe này.
Lịch
sử phát triển xe kéo tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1884 khi một nhà thầu
người Pháp cho sản xuất khoảng 50 chiếc xe cung cấp cho cả miền Bắc, khi
đó còn gọi là Tonkin. Từ đó, chiếc xe kéo dần dần trở nên quen thuộc
tại Hà Nội và chỉ dành cho những người có chức, có tiền sử dụng làm
phương tiện di chuyển trong khi đi bộ vẫn là phương tiện chính của đại
đa số dân chúng.
Ngồi
trên xe kéo nói lên cho sự giàu có và uy quyền của người Pháp và các
gia đình quyền quý người bản xứ nhưng trước đó các tiểu thư khuê các Hà
Thành thường ít khi dùng đến xe kéo vì sợ hiểu lầm là… Me Tây. Thời đó,
phụ nữ người bản xứ khi lấy người Pháp tại thuộc địa thường bị mỉa mai
là “Me Tây” cũng như sau này ở Sài Gòn có một số người bị gán cho “danh
hiệu”… “Me Mỹ” khi họ kết hôn với người Mỹ.
Xe kéo trước khách sạn Metropole (đường Henri Rivière), Hà Nội
Một
hãng cho thuê xe kéo sau đó được thành lập tại Hà Nội. Những chiếc xe
kéo đầu tiên có bánh xe bằng sắt, chạy không êm nhưng hành khách phải
giữ chỗ trước một ngày nếu muốn được thuê. Dần dà, bánh xe kéo được bọc
cao su nên khi chạy êm hơn và loại xe bánh sắt chuyển ra các vùng ngoại
ô.
Cuộc
cách mạng “bánh xe” đã phân chia thành hai loại khách sử dụng: loại
bánh cao su được dành cho giới quan chức thuộc địa và gia đình trong khi
loại bánh sắt dành cho giới trung lưu người bản xứ.
Xe kéo Hà Nội (1900)
Ngay
cả những xe kéo với bánh cao su cũng chia ra làm hai loại, loại bình
thường và loại của hãng OMIC. Loại nầy có chổ ngồi bằng nhôm trắng bóng
và có nệm lò xo cũng được bọc vải trắng, dĩ nhiên đi xe loại nầy thì mắc
tiền hơn là đi xe loại thường.
Hình
ảnh về các quan lại, binh lính, chức dịch… thời đại phong kiến dưới
triều đại phong kiến qua góc nhìn của các nhiếp ảnh gia người Pháp khi
họ đến Đông Dương trong đó có Việt Nam cho thấy một cái nhìn đầy đủ về
một thời kỳ đã kéo dài ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Chiếc
xe kéo được coi là biểu tượng của sự phân biệt giai cấp giữa người lao
động phải dùng sức mình để kiếm miếng cơm manh áo và hành khách ngồi
phía sau là giới quyền quý, giàu sang. Truyện ngắn Người ngựa – ngựa người của Nguyễn Công Hoan đã nói lên cuộc đời cơ cực của người kéo xe, còn được gọi bằng “cu-li”, giữa khung cảnh đêm 30 Tết.
Truyện
kể anh phu xe đói khách trong đêm giao thừa gặp phải một cô khách tân
thời tưởng lắm tiền ai ngờ lại quá keo kiệt, chỉ trả hai hào cho một giờ
bao xe. Anh kéo xe giờ cho nên cũng chỉ chạy tà tà, theo cách Nguyễn
Công Hoan mô tả: “đít nhổm mạnh, mà bước ngắn”.
Truyện
chỉ có 2 nhân vật và người đọc thoạt đầu cứ tưởng như thuộc hai giai
cấp khác nhau nhưng cuối cùng cũng nhận ra họ chỉ là “người ngựa” kéo
phía sau là “ngựa người”, một “bà” khách lại là một cô gái “ăn sương”
thuê xe kéo để đi kiếm khách trong đêm giao thừa. Đã không có tiền trả
anh xe kéo, “bà” khách lại còn mượn anh hai hào để mua gói thuốc lá, bao
diêm và cả hạt dưa để cắn!
Anh phu xe thì hí hửng khi giờ khắc giao thừa đến gần: “Mười
lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào
ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở
hàng ngay từ lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài!
Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng mười bằng trăm năm nay”.
Nguyễn
Công Hoan dẫn người đọc đến một đoạn thật hấp dẫn sau khi anh phu xe đã
kéo “bà” khách đi khắp phố phường Hà Nội gần 2 giờ đồng hồ trong đêm
giao thừa:
– Này,
anh đỗ xuống tôi bảo. Tôi nói thực với anh nhé. Bây giờ đã về sáng rồi,
chắc anh kéo tôi mãi cũng đến thế mà thôi. Tôi thì thực không có tiền
giả anh đâu. Tôi gán cho anh khăn, áo, đồng hồ mà anh không lấy, thì tôi
chả biết nghĩ thế nào cho phải cả. Thôi thì anh kéo tôi ra chỗ kín,
vắng, anh muốn bắt tôi gì tôi xin chịu.
– Tôi bắt gì cô mà tôi bắt!
Cô ả nắm lấy tay, vỗ vào vai anh xe, nhăn nhở cười:
– Anh này thực thà quá, nghĩa là chỉ có anh với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn làm gì tôi cũng bằng lòng.
– Ối thôi! Tôi lạy cô. Nhỡ cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi.
– Không sợ, tôi mới khám bệnh hôm qua.
– Thôi, tôi chắp tay tôi van cô, cô có thương tôi thì mời cô xuống xe cho tôi về, và xin cô tiền xe!
– Thế thì anh cứ kéo tôi về nhà tôi, xem có đồ đạc gì đáng giá, thì anh cứ việc lấy.
Đến
cửa một nhà săm, cô ả bảo anh xe kéo ghé vào để hỏi vay tiền. Mệt lử
nên trong khi chờ khách vay tiền anh phu xe ngủ gật. Khi pháo giao thừa
nổ vang anh mới tỉnh dậy. Vào hỏi thăm anh bồi “săm” mới biết là cô gái
đã chuồn mất bằng cổng sau. Và đây là đoạn kết:
“Anh
xe nghiến răng, cau mặt, lủi thủi ra hè, cầm cái đệm quật mạnh vào hòm
đánh thình một cái! Anh móc túi lấy bao diêm đốt vía, rồi khoèo bàn
chân, co cái càng lên, đưa tay ra đỡ, thủng thẳng dắt xe đi… Tiếng pháo
chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch toạch”.
Như
đã nói ở phần trên, Sài Gòn xưa vào năm 1898 mới làm quen với xe kéo,
khoảng gần 15 năm sau Hà Nội. Lý do cũng dễ hiểu là xứ thuộc địa chính
thức của người Pháp có phương tiện di chuyển duy nhất là những chiếc xe
do ngựa kéo mà người Pháp gọi là “Malabar” hay “Boîte d’allumettes” (vì
xe có dáng dấp như một hộp diêm).
Một
đặc điểm của xe kéo Sài Gòn vào đầu thập niên 1920 là mỗi chiếc đều
được cấp phát số xe gồm 4 chữ số để dễ kiểm soát khi lưu thông, trong
khi đó, xe kéo Hà Nội không có. Dưới đây là một số hình ảnh về xe kéo
tại miền Nam:
Xe kéo và xe ngựa trước chợ Bến Thành đầu thập niên 1920
Xe kéo trước Nhà hát Thành phố
Xe ngựa
Thời
cổ, giới quyền quý Trung Hoa dùng xe do ngựa kéo mỗi khi di chuyển.
Thời trung cổ, tại Pháp và một số nước châu Âu giới quý tộc thường đi
loại xe do hai ngựa kéo, xe song mã thể hiện đẳng cấp của những người
thuộc gia đình quyền quý. Ngày nay các loại xe song mã chỉ còn được dùng
trong việc đưa khách du lịch đi ngoạn cảnh.
Tại
miền Nam vào những năm 1880 của thế kỷ 18, xe ngựa là phương tiện đi
lại bình dân và phổ biến ở vùng Sài Gòn-Gia Định. Đây là loại xe do một
ngựa kéo được bắt nguồn từ kiểu cỗ xe song mã sang trọng của Pháp được
người dân miền Nam chế tác cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và
địa hình của Việt Nam.
Trước
đó, người Pháp đã đưa xe ngựa vào Đông Dương làm phương tiện vận chuyển
hành khách cũng như hàng hóa. Người Pháp gọi xe ngựa ở thuộc địa là
“Malabar” và sau này còn có tên “Boîte d’allumettes” vì hình dáng giống
như một hộp diêm quẹt.
Một
trong những hình ảnh được coi là xưa nhất của xe ngựa tại Sài Gòn là
chiếc xe của Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện (Manufacture d’Opium) được
chụp vào khoảng đầu thập niên 1980.
Có
thể thấy dòng chữ bằng tiếng Pháp trên thành xe ghi rõ là xe của nhà
máy. Phía bên trái là hình của một người phu xe kéo đứng nhìn chiếc xe
ngựa, hình như anh rất ngạc nhiên với hình ảnh một chiếc xe do ngựa kéo
được người Pháp đưa vào Đông Dương.
Xe
ngựa dưới dạng xe “cải tiến” đơn giản còn được dùng trong hoạt động của
quân đội viễn chinh Pháp tại thuộc địa Đông Dương. Loại xe này dùng để
chuyên chở quân trang, quân dụng trong lực lượng võ trang của quân đội
thuộc địa.
Loại
xe ngựa cầu kỳ hơn được dùng để chuyên chở hành khách là những viên
chức thuộc địa và gia đình. Những chiếc xe này mang dáng dấp của loại xe
song mã thường thấy tại Âu châu với “xà ích” là người bản xứ.
Như
vậy, ngay trong giới lái xe người bản xứ cũng phân chia nhiều đẳng cấp
tùy theo mức độ sang trọng của phương tiện: thấp nhất là phu xe kéo (còn
được gọi là cu-li), kế đến là “xà ích” (người điều khiển xe ngựa) và
cao nhất là tài xế xe hơi (chaffeur).
Đặc
điểm của thời kỳ xe ngựa mới du nhập vào Đông Dương là loại song mã
hoặc chỉ có một ngựa kéo. Riêng phần thân xe được đặt trên 4 bánh, hai
bánh sau có đường kính lớn hơn hai bánh trước để giữ đối trọng với ngựa
chạy phía trước, khác hẳn với xe ngựa do người Việt chế tạo sau này chỉ
với hai bánh.
Tại
miền Bắc, khi đó còn được gọi là Tonkin, người Pháp cũng sử dụng xe
ngựa cho các quan chức thuộc địa nhưng số lượng không đáng kể so với
miền Nam, còn có tên là Cochinchine.
Trước
những loại xe ngựa sang trọng của Pháp, người Việt đã mày mò sáng tạo
ra loại xe một ngựa đơn giản và bình dân hơn để đáp ứng nhu cầu đi lại
và vận chuyển hàng hóa. Loại xe một ngựa này còn có một cái tên khác là
xe thổ mộ.
Xe thổ mộ chuyên chở hàng hóa giữa Sài Gòn
Có
rất nhiều cách giải thích về xuất xứ về tên gọi xe thổ mộ tại miền Nam.
Có người nói thổ mộ vốn có mái che khum khum giống hình ngôi mộ nên
người bình dân gọi là… “thổ mộ”. Giải thích mang tính cách ngôn ngữ học
cho rằng “thổ mộ” là chữ đọc trại từ “thảo mã” hay “thụ mã” theo tiếng
của người Quảng Đông vốn là số đông người Hoa sinh sống tại miền Nam.
Lại
có ý kiến cho rằng “thổ mộ” chính là chữ đọc trại từ Thủ Dầu Một, thuộc
tỉnh Bình Dương, nơi được coi là “cái nôi” của của xe thổ mộ. Để dẫn
chứng giả thuyết này, người ta dẫn chứng một bài vè cổ về 47 chợ tại
miền Nam:
… Khô như bánh tráng là chợ Phan Rang,
Xe thổ mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một
Vào
những thập niên 40 và 50 là giai đọan phát triển của xe thổ mộ. Tại chợ
Thủ Dầu Một có đến 3 bến xe thổ mộ hoạt động nhộn nhịp, có khi lên đến
trên 50 chiếc. Không chỉ vậy, Thủ Dầu Một còn có nhiều trại mộc đóng xe
thổ mộ có tiếng với thùng xe đẹp, trang nhã, bánh xe bền chắc. Xe sản
xuất tại Thủ Dầu Một còn được gọi là xe “Thùng Thủ” để phân biệt với các
nơi sản xuất khác và cũng để khẳng định “đẳng cấp” của mình.
Để
làm một chiếc xe thổ mộ đòi hỏi nhiều yêu cầu khắt khe chứ không đơn
giản như người ta tưởng. Kích thước về chiều dài, chiều rộng, chiều cao
của thùng xe phải cân bằng khi di chuyển trên mọi địa thế. Thùng xe được
đặt trên hai thanh nhíp gồm 4 lá thép để giảm độ sóc khi xe chạy trên
đường. Nói chung, từng chi tiết của xe phải chính xác để tạo sự an toàn
khi chuyển động.
Gỗ
làm xe thổ mộ phải là loại tốt như Giáng Hương, Căm Xe, gỗ mít… không
bị mối mọt. Quan trọng nhất là cặp bánh xe vì là phần chịu tải chính nên
được làm rất cẩn thận, trục ngang của xe bằng ống thép chịu lực cho
thùng xe nhưng lại không dùng bạc đạn mà chỉ có ổ trục.
Mỗi
bánh xe được ghép từ sáu mảnh gỗ gắn với 12 chiếc căm cắm vào trục bánh
xe. Sau đó, một vòng sắt quấn quanh bánh xe để bảo vệ phần gỗ và cuối
cùng một lớp nệm cao su được nịt chặt ở vòng ngoài.
Thùng
xe được thiết kế thoáng mát, tạo sự thoải mái cho hành khách nhưng có
vẻ hơi cao so với mặt đường trong khi chỉ có một miếng sắt để khách lên
xuống xe. Đây cũng là điểm yếu của xe thổ mộ nhưng một số người lại
thích ngồi vắt vẻo trên xe với hai chân đong đưa để ngắm nhìn đường phố.
Bên
trong thùng xe, khách ngồi trên chiếu đâu mặt nhau, guốc dép máng ở hai
cọc sắt phía sau hai góc thùng. Nếu vắng thì khách ngồi thòng chân ở
phía có bàn đạp lên, xuống. Hai vè bên thùng xe uốn gợn sóng có thể dùng
để gác hàng hóa. Và trên cùng là cái mui uốn cong, lợp thiếc, nhô ra
tới nửa mình ngựa, khum lại giống như mui chiếc ghe bầu nhưng cũng trông
tựa một cái… mả nên nới gọi là thổ mộ (?).
Ngựa, xà ích và hành khách
Âm
thanh của chiếc thổ mộ với những tiếng kêu “lóc cóc, lọc cọc” phát ra
từ móng ngựa được bọc sắt tiếp xúc với mặt đường nhựa cũng trở nên quen
thuộc với nhiều thế hệ người miền Nam. Có nhiều xe còn gắn lục lạc cho
ngựa nên khi chạy trên đường tiếng lục lạc hòa lẫn tiếng lọc cọc, cộng
với tiếng “họ, họ” điều khiển ngựa của người xà ích tạo thành một bản
nhạc đặc thù của xe ngựa Sài Gòn xưa.
Về
sau, có dòng xe thổ mộ “văn minh” hơn, được cải tiến từ bánh xe gỗ sang
bánh xe bằng cao su bơm hơi với đường kính nhỏ hơn và do đó thùng xe
cũng thấp hơn. Loại xe này giúp hành khách lên xuống thoải mái, an toàn.
Khi chạy trên đường, lốp xe cao su êm hơn nhưng ngược lại, “tiếng nhạc”
thổ mộ vốn có mất dần đi khiến những người “hoài cổ” không tìm lại được
cái thú của ngày nào.
Dòng xe thổ mộ có bánh xe cao su
Ngựa
kéo xe thổ mộ thường là những con ngựa đua đã có tuổi, không còn đủ sức
vẫy vùng trên đường đua nhưng vẫn còn có thể di chuyển giữa lòng đường
phố nhộn nhịp xe cộ. Bộ yên lưng bằng da có hai quai lồng vào hai càng
xe đặt hai bên vai ngựa. Sợi yên lưng còn lồng vào đuôi ngựa để khi
xuống dốc có tác dụng kềm ngựa. Lại còn có dây bụng nâng ngực ngựa khi
xe chạy. Người xà ích đôi khi xếp khách ngồi dịch lên hoặc lùi xuống là
để cho ngựa không bị sức nặng đè vai hoặc bó chặt ngực khó chạy.
XÍCH LÔ
“Xích-lô”,
suất xứ từ tiếng Pháp “cyclo”, là một phương tiện giao thông sử dụng
sức người, di chuyển trên 3 bánh dùng để chở khách hoặc hàng hóa. Người
lái xe cũng vận hành cyclo như một chiếc xe đạp nên còn được gọi là
“xích-lô đạp” và sau này được cải tiến với động cơ xe gắn máy để thành
“xích-lô máy”.
Cũng
áp dụng cách vận hành tương tự như cyclo, còn có xe ba gác với thùng xe
đặt ở phía trước để chở đồ đạc cồng kềnh và sau này xe ba gác lại được
cải tiến thành xe ba gác máy với động cơ của xe gắn náy.
Ngược
lại với cyclo, ở miền Tây, hay còn gọi là Lục Tỉnh, có loại xe đạp kéo
thùng chở khách đằng sau được gọi là xe lôi, rất phổ biến ở các tỉnh
miền đồng bằng sông Cửu Long. Dần dà người ta lại dùng xe máy để kéo,
cũng tương tự như người anh em là chiếc cyclo máy.
Xe lôi miền Tây
Chiếc
cyclo đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn năm 1938 nhưng mẫu thiết kế lại
không do người Việt vẽ kiểu mà lại là “tác phẩm” của một người Pháp.
Lịch sử chiếc cyclo lại còn ly kỳ hơn, chiếc cyclo đầu tiên chính thức
được nhà cầm quyền bảo hộ cấp phép lưu hành không phải là ở Sài Gòn mà
là Phnom Penh, thủ đô của xứ Chùa Tháp trong Đông Dương thuộc Pháp gồm
Việt Nam, Cao Miên và Lào.
Xích
lô xuất hiện vào khoảng năm 1938 tại Phnom Penh. Chiếc đầu tiên do một
người Pháp, dân miền Charente tên là Coupeaud, một người đam mê thể thao
vẽ kiểu. Phải vất vả lắm Coupeaud mới vận động Bộ Công chánh công nhận
sáng chế và cấp phép lưu hành, sau khi đã tham khảo ý kiến của hai nhà
vô địch Tour de France là Georges Speicher và Le Grèves.
Để
“tiếp thị” chiếc xe chở khách chạy bằng 3 bánh và người lái ngồi phía
sau xe, Coupeaud đã tổ chức một cuộc hành trình “giới thiệu sản phẩm”
dài gần 200km từ Phnom Penh đến Sài Gòn do hai người thay phiên nhau đạp
xe trong thời gian 17 giờ 23 phút!
Và
cyclo đã chinh phục Sài Gòn xưa với 40 chiếc vào năm 1939, nhưng chỉ
một năm sau, năm 1940, Sài Gòn đã có khoảng 200 chiếc cyclo chạy trên
đường phố.
Cyclo Saigon 1950
Nhìn
khái quát, cyclo là sự kết hợp và gắn nối của các ống sắt đủ loại, đủ
kích cỡ, từ thanh bảo vệ hành khách ở phía trước đến phần ngồi của người
điều khiển phía sau. Hai phần này được nối với nhau bằng một trục nằm
dưới gầm xe, phía dưới chỗ ngồi của khách, có tác dụng giúp người lái xe
có thể quẹo phải, trái hay đi thẳng về phía trước.
Phần
yên xe của người điều khiển cũng là một kết cấu đơn giản với thắng tay
nằm ngay phía dưới qua hình thức một chiếc vòng sắt hoặc một thanh ngang
để người lái có thể kéo lên mỗi khi muốn giảm tốc độ hoặc dừng xe.
Thắng tay nằm ở ngay dưới chỗ ngồi của người điều khiến
Lái
cyclo không phải dễ như mọi người tưởng. Yên xe rất cao nên những người
“thiếu thước tấc” rất khó “leo” lên, đó là chưa kể khi leo được lên yên
chưa chắc đã đạp được hết vòng nếu chân quá ngắn.
Phần
sau của xe được nối với thùng xe bằng một trục thẳng đứng nên khi cua
ngặt sẽ khiến xe mất thăng bằng, dễ bị lật. Tuy nhiên, tôi đã có lần
được chứng kiến “cao thủ” cyclo biểu diễn chạy xe bằng… 2 bánh. Có nghĩa
là nghiêng hẳn một bên xe, và dĩ nhiên là trên xe không có khách.
Khi
khách bước lên hoặc xuống xe, người điều khiển phải kềm phần sau vì nếu
khách thuộc loại “nặng ký” sẽ khiến đuôi xe chống ngược. Lại nữa, người
lái cyclo phải là tay giỏi… “thương lượng” vì khách trước khi lên xe
bao giờ cũng kỳ kèo mặc cả. Tùy hoàn cảnh, người lái xe có thể chấp nhận
cái giá mà khách trả hay xách xe không kiếm mối khác!
Chân
dung người đạp xích lô cũng muôn hình vạn trạng. Đó có thể là người
trên đầu đội chiếc nón lá, quần ống thấp ống cao, lep kẹp đôi dép lộ rõ
mười ngón chân cáu bẩn. Buổi trưa nắng gắt bác cyclo tìm một chỗ dưới
gốc cây, đánh một giấc ngay trên xe để lấy sức tiếp tục rong ruổi trên
đường phố kiếm cơm.
Có
sự phân biệt rõ ràng giữa cyclo Sài Gòn và cyclo Hà Nội. Trong khi
cyclo Sài Gòn chỉ ngồi được một người (nếu cần có thể “nhét” thêm một
khách nữa) thì cyclo Hà Nội có thể chở được hai người ngồi một cách
thoải mái.
Cyclo
Sài Gòn là phương tiện chuyên chở bình dân nên trông cũ kỹ với mui xe,
hai bên hông và phía trước được che bằng vải bạt khi trời mưa… trong khi
cyclo Hà Nội sinh sau đẻ muộn nên được o bế một cách diêm dúa, mui xe
làm như cái lọng của vua chúa… thường được dùng để phục vụ khách du lịch
Cyclo Hà Nội
Theo
sự tiến bộ của khoa học, chiếc cyclo máy được ra đời vào đầu thập niên
1960. Những người đến Sài Gòn lần đầu tiên đều rất thích thú được ngồi
trên phương tiện chuyên chở độc đáo này để ngắm nhìn đường phố. Cyclo
máy chạy nhanh hơn cyclo đạp và người điều khiển thường là những thanh
niên khỏe mạnh trong khi cyclo đạp thường do những người nhiều tuổi hơn
điều khiển.
Cyclo
máy được lắp ráp ngay tại miền Nam, với những phụ tùng, linh kiện nhập
cảng từ Pháp: động cơ cuả hãng xe mô tô Peugeot, loại 125 phân khối,
dùng xăng pha nhớt. Đây là loại động cơ 2 thì nên khi nổ máy khói phun
mịt mù, tiếng máy của xe cũng thuộc loại gây “ô nhiễm tiếng ồn”.
Cyclo máy Sài Gòn
Cyclo
máy ra đời vào thời kỳ chiến tranh leo thang với sự xuất hiện của quân
đội đồng minh, nhất là lính Mỹ rất thích phương tiện chuyên chở này. Có
người nước ngoài còn nói đi cyclo máy Sài Gòn còn thú vị hơn ngồi xe hơi
mui trần “convertible”.
Một
anh lính Mỹ viết thư về nhà mô tả chiếc cyclo máy, đại khái như “một
con quái vật há mồm, hùng hổ trên đường”… “ngồi cyclo máy tựa như phi
thuyền phóng lên mặt trăng”… Tuy nhiên, họ cũng nhìn thấy sự nguy hiểm
rình rập khi ngồi trên chiếc cyclo máy chạy nhanh, nếu tai nạn xảy ra,
hành khách là người bị nặng nhất còn người lái xe ngồi ở mãi phía sau.
Xe Lam
Sang
đến thời kỳ “văn minh xe máy”, ban đầu Sài Gòn xuất hiện cyclo máy với 2
bánh phía trước và một bánh phía sau rồi dần dà chuyển sang loại xe ba
bánh ngược lại với cyclo và cyclo máy, một bánh trước và hai bánh sau,
được gọi là xe lam.
Xe
lam là loại xe chuyên chở công cộng phổ biến được du nhập Sài Gòn và
các tỉnh miền Nam vào thập niên 1960 để đáp ứng nhu cầu đi lại của giới
bình dân. Đây là loại xe có cấu trúc tương tự như xe “tuktuk” hiện còn
đang được sử dụng tại các nước như Thái Lan, Ấn Độ, Bangladesh… Người ta
giải thích cái tên “tuktuk” là do tiếng nổ của động cơ khi chạy trên
đường.
Tại
miền Nam, thuật ngữ “xe lam” có xuất xứ từ Lambretta và Lambro là nhãn
hiệu xe của nhà sản xuất “Innocenti do Ferdinando Innocenti” sáng lập
tại Ý từ năm 1920. Ngoài xe hơi, Innocenti còn sản xuất loại xe hai bánh
mang nhãn hiệu Lambretta trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1971. Năm
1996 Innocenti nhập vào hãng xe Fiat và chấm dứt các dòng sản phẩm
riêng.
Lambretta và Vespa trên đường phố Sài Gòn
Ngoài
xe 2 bánh Lambretta, Innocenti còn sản xuất động cơ cho loại xe 3 bánh
như ta thấy xuất hiện trên đường phố Sài Gòn xưa. Đó là các dòng xe
Lambretta FD với dung tích xy lanh 123 hoặc 150 cc và FLI cải tiến với
175 cc, sau đó là Lambro 200, Lambro 550 đều có dung tích 198 cc.
Bến xe lam tại Quảng Lợi, Bình Long
Xe Lambro 550 tại chợ Bến Thành
Hãng
Vespa cũng sản xuất loại xe 3 bánh và Sài Gòn đã nhập một số xe Vespa 3
bánh có hình dáng và cấu trúc giống Lambretta và Lambro. Với số lượng
ít ỏi hơn, Vespa 3 bánh cũng được gọi chung là xe lam. Chúng tôi sưu tầm
được một tấm hình xe Vespa 3 bánh thuộc loại “cổ lỗ sĩ” nằm trong một
tiệm chuyên sửa và sơn xe… Lambretta:
Vespa
là thương hiệu nổi tiếng của hãng Piaggio, Ý, được ra đời từ sau Thế
chiến thứ hai với của dòng sản phẩm xe gắn máy yên thấp, bánh nhỏ còn
gọi là xe scooter. Rinaldo Piaggio (1864-1938) thành lập Công ty Piaggio
tại Genoa năm 1884 với chức năng ban đầu chuyên sản xuất các trang
thiết bị cho tàu thuỷ, tàu hỏa và máy bay.
Đến
năm 1946, những chiếc xe scooter đầu tiên mang nhãn hiệu Vespa được
thiết kế bởi kỹ sư Corradino D’Ascanio, ông tạo kiểu dáng khung xe vuốt
tròn và tiếng máy nổ khác biệt: “Sembra una vespa!” (Nó cứ như con ong ấy). Vespa tiếng Ý là con ong và thương hiệu Vespa ra đời từ đó.
Vespa
ba bánh sử dụng động cơ của xe scooter Vespa có dung tích lớn hơn và
Sài Gòn có thêm xe lam mang nhãn hiệu Vespa bên cạnh xe Lambretta và
Lambro.
Vespa 3 bánh thời hoàng kim
Các
dòng xe lam lần lượt được nhập vào miền Nam để thay thế xe thổ mộ, hay
còn gọi là xe ngựa. Đặc biệt loại xe lam khi nhập không ở dạng “đóng
thùng”, việc đóng thùng xe được thực hiện tại Sài Gòn. Theo thống kê,
trong số gần 35.000 chiếc Lambro 550 xuất xưởng thì có gần một nửa
(khoảng 17.000 chiếc) được xuất sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam.
Khoảng
những năm 1966-1967, chính phủ VNCH đã tiến hành một chương trình mang
tên “Hữu sản hoá” nhằm cung cấp phương tiện hành nghề chuyên chở công
cộng cho những lao động cần việc làm và cũng để cải thiện đời sống giới
thợ thuyền, phát triển hạ tầng cơ sở vận tải … Và đó là cơ hội để xe lam
thâm nhập vào thị trường miền Nam.
Ngoài
việc “hữu sản hóa” xe taxi sơn màu vàng trên mui và xanh dưới thân, một
số người thuộc giới tài xế xe lam cũng là những đối tượng của chương
trình hữu sản hóa, trong số đó có không ít người từ xà ích xe ngựa trở
thành tài xế xe lam. Họ ký kết những hợp đồng trả góp để có thể làm chủ
một chiếc xe lam ngày ngày chạy trên đường phố kiếm cơm.
Giá
chiếc xe lam vào thập niên 60 khoảng 30 cây vàng nhưng vàng hồi đó còn
rẻ chứ không “leo thang” như ngày nay. Có tài xế xe lam còn khoe: “Chạy một ngày, ăn cả tháng chưa hết”. Nói
vậy có lẽ hơi quá, nghề nào cũng có những gian nan, khổ cực của nó,
nhưng câu nói đó cho thấy nghề tài xe lam thời hoàng kim là một trong
những nghề “hot”…
Đặc
điểm của xe lam là tính “cơ động”, hành khách có thể lên xuống xe tại
bất cứ chỗ nào dọc theo tuyến mà không cần trạm lên xuống như xe buýt.
Miền Nam trong thời kỳ chiến tranh leo thang, xe lam cũng là phương tiện
“chạy giặc” hữu hiệu vì gọn nhẹ lại chở được nhiều đồ đạc như bức hình
dưới đây:
Sau
biến cố 30/4/1975 xe lam vẫn tiếp tục tồn tại trong khi taxi phải mất
nhiều năm mới khôi phục vào thời kỳ Đổi Mới với những chiếc taxi sơn màu
vàng mang thương hiệu Vinataxi, một liên doanh với Hồng Kông. Xe lam
trong thời kỳ này được dùng làm phương tiện đi lại phổ biến, rẻ tiền và
dĩ nhiên vẫn giữ được “thời vàng son” của nó.
Lúc
đó, chỉ riêng thị xã Biên Hòa, có 6 hợp tác xã xe lam với khoảng 1.000
đầu xe đăng ký chở khách chính thức, với hàng triệu lượt khách mỗi năm.
Cũng vì thế mà có thời Biên Hòa được ví như là “thủ phủ xe lam”. Sau
này, những chiếc xe lam đã “có tuổi” nhưng vẫn được đem ra miền Bắc để
giải bài toán giao thông ngày càng phức tạp tại các đô thị lớn.
Xe Lam đậu cạnh “người anh em” Lambretta sau năm 1975
Xe
lam là loại xe có một cabin phía trước dành cho tài xế và một thùng xe
có thể chở hành khách và hàng hóa. Khách ngồi trên băng ghế dài, dọc
theo hai bên thùng xe với sức chứa trên 10 người, đó là chưa kể trường
hợp đặc biệt, 2 người khách nữa có thể ngồi 2 bên tài xế trong khoang
lái!
Động
cơ xe nằm ngay dưới yên dành cho tài xế. Khi xe chết máy, bác tài phải
nhảy xuống đường, giở yên xe lên, chùi lại bu-gi, dùng một sợi dây thừng
kéo cho máy nổ hoặc dùng bàn đạp khởi động lại máy xe.
Gặp
khi đông khách, bác tài cũng sẵn sàng ngồi thu gọn lại ngay giữa yên để
có thêm chỗ cho hai khách ngồi ké vào hai bên. Chuyện kể một chuyến xe
đang chạy ngon trớn bỗng động cơ xe ngừng hoạt động. Bác tài nói với 2
bà ngồi hai bên: “Hai bà làm ơn xuống xe cho tôi đạp máy”.
Vốn là người miền Nam nên bác tài phát âm “đạp máy” nghe như “đạp mái” khiến một bà lên tiếng: “Cái ông này ‘dê đạo lộ’. Xe chết máy không lo sửa mà lại còn đòi… đạp mái. Vô duyên!”
Bên
trong xe lam là cả một kho truyện tình cảm “lâm li bi đát” nhưng cũng
có khi là những chuyện “trời ơi đất hỡi” đáng ghi nhớ. Những chuyến xe
đông người có thể trà trộn khách thuộc loại có “bàn tay nhám” hay “diệu
thủ thơ sinh” chuyên nghề móc túi. Lại còn có những “bóng hồng” hành
nghề “bỏ bùa mê” để trộm cắp tài sản của khách trên xe.
Hành
khách ngồi “chen vai thích cánh” trên xe cũng dễ nảy sinh tình cảm bất
ngờ nhưng lại cũng dễ xảy ra.. tai họa. Có trường hợp chàng trai bị cô
gái “hớp hồn” trên xe lam nhưng khi xuống xe cái bóp đã… “không cánh mà
bay”.
Cũng có thể là một chuyện tình lãng mạn của đôi trai gái đi chung một chuyến xe lam như nhà thơ Trần Thanh kể lại trong bài Trên chuyến xe lam:
“Tôi vẫn nhớ mùa thu năm ấy
Tôi quen nàng trên chuyến xe lam
Nàng nhìn tôi đôi mắt mơ màng
Tôi bẽn lẽn nhìn sang không nói…
“Ông vua nhạc sến” Vinh Sử có bài Chuyến xe lam chiều (*)
với những ca từ rất bình dân kể lại một mối tình của đôi trai gái quen
nhau trên một chuyến xe lam. Mối tình sau này tan vỡ không phải vì nàng
bỏ đi lấy chồng mà là chàng “tham phú phụ bần” lấy con gái nhà giàu:
“Trên chuyến xe lam đông người chiều nao
Xui mình không quen mà ngồi bên nhau
Trời mang nhiều trớ trêu chi
Người chưa hề biết quen gì
Sao ngồi gần như tình nhân si…
….
Ngờ đâu yêu đương như đám lục bình
Trôi theo con nước vô tình
Anh lấy vợ người ta giàu có
Tình em như cát dã tràng biển đông
Em muốn tìm chồng cho xong
Nhưng ngại thêm gặp kẻ bạc lòng…
Một
thời đã qua kéo theo nhiều kỷ niệm từ các phương tiện di chuyển công
cộng tại Sài Gòn xưa. Loạt bài viết này chỉ mới ghi lại một phần nhỏ
trong những sinh hoạt hàng ngày khi đi lại. Có lẽ những thế hệ trẻ ngày
nay không ngờ lớp cha, ông đã trải qua nhiều thời kỳ lý thú đến như vậy.
Biết đâu chừng con cháu lại thấy cha ông mình sao… khổ quá!
Nguồn: Blog Nguyễn Ngọc Chính
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét