Một trong những yếu tố
tạo nên sự hùng mạnh của quân đội Tây Sơn không thể không nói tới vai
trò của tượng binh, kị binh và pháo binh được trang bị vũ khí vào loại
hiện đại. Ngoài các loại vũ khí có tính sát thương cao như hỏa hổ, đội
quân Tây Sơn còn sở hữu đại bác đã làm cho quân đội Trịnh “khiếp sợ
không dám đánh trả”.
Theo báo
cáo của Bá Đa Lộc tại triều đình Pháp “nghĩa quân Tây Sơn năm người mới
có một người có súng và thuỷ quân đã có đại bác đặt trên thuyền chiến,
còn lục quân chưa có đại bác. Nhưng từ năm 1786 trở đi, với những trận
đánh ra Bắc của Nguyễn Huệ, quân đội Tây Sơn đã có hỏa lực rất mạnh, có
nhiều súng, nhiều đại bác”.
Đại bác thời Tây Sơn tìm thấy ở Đầm Thị Nại - Lưu giữ tại Bảo tàng Quang Trung (Quy Nhơn – Bình Định).
Quân đội
Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy được trang bị đại bác với số lượng khá lớn
so với các đội quân đương thời, điều đó đã làm nên ưu thế cho quân đội
Tây Sơn. Trong cuộc kháng chiến chống 29 vạn quân Thanh xâm lược, tướng
giặc là Tôn Sĩ Nghị đã rất chủ quan khi nghĩ rằng đã có cách đối phó với
hỏa hổ của quân đội Tây Sơn. Tuy nhiên hỏa lực của quân đội Tây Sơn
không chỉ có hỏa hổ mà hỏa lực chủ yếu là đại bác và súng trường.
Trong quân
đội Tây Sơn, Pháo binh đã giữ một vai trò quan trọng trong phòng ngự
thành lũy và trong thủy chiến. Tuy nhiên với đặc tính là một đội quân
tiến công thường xuyên di chuyển, do đó để phát huy được uy lực có sẵn
của pháo binh, biến các khẩu đại bác thành phương tiện vừa dùng để phòng
ngự, vừa dùng để tiến công, vừa đặt cố định tại thành lũy vừa di chuyển
được khi chiến đấu giã ngoại. Khắc phục khó khăn đó, quân đội Nguyễn
Huệ đã phát triển việc dùng voi di chuyển đại bác bằng cách mang pháo
trên lưng hoặc kéo theo sau. Chính sự kết hợp này đã phát huy tác dụng
vô cùng to lớn mà Tôn Sĩ Nghị không lường trước được.
Đại bác của
quân đội Tây Sơn chủ yếu là chiến lợi phẩm thu được trong cuộc chiến
với Trịnh - Nguyễn, bên cạnh đó phải kể đến một số lượng đại bác tự sản
xuất. Từ một phương tiện pháo trong quân đội Trịnh-Nguyễn có tác dụng
làm cho đối phương hoảng sợ nhiều hơn là sát thương nhưng đã trở thành
một phương tiện tiến công có sức sát thương thật sự, cộng với những tác
động tâm lý và che mắt làm ngạt thở (đạn nổ nhiều khói) trong quân đội
Tây Sơn. Pháo binh dần trở nên đắc lực, giúp tăng thành phần hỏa lực
trong chiến đấu lên rất nhiều. Với tính năng kỹ thuật chiến thuật và uy
lực sát thương, phá hoại đại bác Tây Sơn hoàn toàn không kém đại bác các
nước phương Tây mà quân đội nhà Nguyễn có đó là loại đại bác gang, nặng
100 kg mỗi khẩu với đạn có đường kính 10 tấc.
Hỏa cầu lưu hoàng (hỏa hổ) một loại vũ khí của nghĩa quân Tây Sơn khiến cho kẻ thù khiếp sợ.
Sau khi
Nguyễn Huệ mất, Nguyễn Ánh đã thực hiện nhiều phản công vào quân đội Tây
Sơn và đã thu được rất nhiều đại bác của quân đội Tây Sơn. Điều đó đã
phần nào chứng minh sức mạnh của đại bác Tây Sơn: Như trong trận Khố Sơn
năm 1793 quân Tây Sơn với 4 nghìn quân phòng ngự nhưng đã có trên 35
đại bác gang và đồng; Năm 1801 tại cửa ải La Qua, quân Tây Sơn đã đặt
trên 80 đại bác để phòng thủ; đến trận rút lui trên sông Gianh năm 1802,
sau khi đột phá lũy Trấn Ninh không thành công, quân Tây Sơn đã để lại
một số lượng khá lớn khoảng 7 trăm khẩu.
Như vậy bên
cạnh hỏa hổ một loại vũ khí sở trường của quân đội Tây Sơn, thì đại bác
cũng là loại vũ khí chủ lực, góp phần quan trọng vào việc tiêu diệt
địch một cách hiệu quả nhờ tính sát thương và phá hoại cao. Tuy nhiên
dưới thời dẫn dắt của Nguyễn Huệ với nghệ thuật chỉ đạo quân sự thiên
tài cộng với sự giúp đỡ đắc lực của hỏa lực trong đó có đại bác đã góp
phần tạo nên một đội quân Tây Sơn lẫy lừng trong lịch sử, là nỗi khiếp
sợ của kẻ thù.
Thu Nhuần (Tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét