Từ lâu trong dân gian có câu “bỏ vua
không Khả, đào mả không Bài” để chỉ hai sự kiện quan trọng xảy ra tại
Huế vào những thập niên đầu thế kỷ 20.
Hội đồng Phụ chánh triều Duy Tân năm 1909. Từ trái qua:
Thượng thư bộ Hình Tôn Thất Hân; TT bộ Lại Nguyễn Hữu Bài;
TT bộ Lễ Huỳnh Côn; Chủ tịch Tôn nhơn phủ An Thành vương Miên Lịch;
TT bộ Công Lê Trinh; và TT bộ Học Cao Xuân Dục (Ảnh tư liệu LN)
Sự thật về chuyện đào mả
vua Tự Đức năm 1912
@ Thư viện Lê Nguyễn
LÊ NGUYỄN
NVTPHCM- Từ lâu trong dân gian có câu “bỏ vua không Khả, đào mả không Bài” để chỉ hai sự kiện quan trọng xảy ra tại Huế vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Theo nghĩa thông thường, “không khả” có nghĩa là không thể, nhưng trên thực tế dùng ám chỉ ông Ngô Đình Khả, Thượng thư bộ Lễ triều Thành Thái (1889-1907), còn từ “bài” trong “không bài” dùng ám chỉ Thượng thư bộ Công Nguyễn Hữu Bài, triều Duy Tân (1907-1916). Quanh sự kiện phế truất vua Thành Thái (bỏ vua) và đào mả vua Tự Đức, có nhiều điều cần được làm sáng tỏ.
Chỉ riêng cụm từ “bỏ vua” cũng đã có hai cách giải thích, một là việc phế truất vua Thành Thái năm 1907, hai là âm mưu của thực dân Pháp vào những năm đầu thập niên 1910 muốn bãi bỏ chế độ quân chủ tại Việt Nam, nhưng do đình thần triều Nguyễn phản đối quyết liệt nên họ hoãn lại ý định này. Tuy nhiên, xét cho cùng, vì người phản đối việc “bỏ vua” là đại thần Ngô Đình Khả, mà ông Khả đã bị buộc trí sự (về hưu) chỉ một tháng sau ngày vua Duy Tân lên ngôi (1907) nên không thể có mặt tại triều đình để chống lại âm mưu của Pháp nhằm hủy bỏ chế độ quân chủ vào thập niên 1910. Như vậy cụm từ “bỏ vua” dùng để chỉ việc phế truất vua Thành Thái, chứ không còn nghĩa nào khác. Việc làm này được thực dân Pháp và triều thần ngụy trang dưới hình thức một sắc thư nhường ngôi do nhà vua ký (tài liệu tham khảo 1, điều 1448, trang 481- 482). Có lẽ để chứng tỏ mọi việc đều diễn ra êm thấm, không thấy sử liệu nào nói đến việc Thượng thư bộ Lễ, quản lãnh Thị vệ Ngô Đình Khả phản đối việc phế truất nhà vua, dù hành vi này chỉ thể hiện một cách tương đối nhẹ nhàng là không ký vào biên bản do Khâm sứ Pháp cho lập sẵn. Song có một sự kiện bất thường xảy ra ngay sau khi vua Thành Thái bị phế truất khiến người ta tin rằng sự phản đối của ông Ngô Đình Khả là có thật. Đó là chỉ một tháng sau ngày vua Duy Tân lên ngôi, Ngô Đình Khả đã bị buộc phải về hưu ở tuổi 51, sau khi chỉ mới làm việc trong 22 năm, trong khi theo lệ, các quan lại về hưu khi đến tuổi 60 hay làm quan liên tục 30 năm. Chẳng những thế, Khâm sứ Pháp Levecque còn can thiệp thô bạo vào việc này bằng cách yêu cầu triều đình không cấp tiền hưu bổng cho ông Khả (tltk 1, điều 1455).
Về chuyện “đào mả” thì vế sau của câu nói quen thuộc ấy rõ ràng ám chỉ Thượng thư bộ Công Nguyễn Hữu Bài, vì chính sử cũng xác định ông vắng mặt khi xảy ra sự kiện “đào mả” vua Tự Đức. Trong một thời gian dài, câu chuyện chủ yếu được truyền tai nhau chốn cung đình, về giấy trắng mực đen thì hầu như chỉ mới tìm thấy trong một đoạn hồi ký của Thượng thư bộ Lễ Huỳnh Côn, một trong những nhân vật chính đã trực tiếp chứng kiến sự việc. Hồi ức của họ Huỳnh được tác giả Pháp Jean Jacnal viết lại và đăng nhiều kỳ trên Tạp chí Đông dương (Revue indochinoise) năm 1924. Trong phần cuối chương 16 loạt bài của Jacnal, ông Huỳnh Côn kể rằng vào một ngày nọ, viên phó Khâm sứ Pháp de la Susse dùng ô tô đưa ông tới Khiêm lăng, nơi an táng vua Tự Đức, mà không nói trước mục đích của chuyến đi. Khi đến nơi, vừa bước xuống xe, de la Susse đã kề tai ông Côn nói nhỏ:
- Người ta cho tôi biết là có một kho báu chôn giấu ở chỗ này. Bây giờ chúng ta đi tìm công nhân, nhờ họ bới đất, và hai chúng ta sẽ biết được điều ấy có đúng không.
Trước một đề nghị khá bất ngờ, ông Côn cũng kịp trấn tỉnh và nói điều phải trái với de la Susse:
- Không được, trước hết phải bàn chuyện này với ông chủ tịch Tôn nhơn phủ.
- Tôi quên nói điều này. Chính ngài chủ tịch bảo tôi nói với ông.Ông Côn tiếp tục phản bác ý định của de la Susse:
- Tôi không thể tự mình nhận lấy một trách nhiệm như thế. Đây là việc có liên quan đến tất cả các thượng thư. Cần có ý kiến của Thượng thư bộ Công, bởi vì phải đào bới; của Thượng thư bộ Hộ, bởi vì có liên quan đến của cải; của Thượng thư bộ Lễ, vì có đụng chạm đến lăng tẩm…(tltk 2)
Trước phản ứng nhẹ nhàng nhưng cương quyết của ông Côn, de la Susse không nói thêm điều gì, ông ta một mình lên xe trở về, bỏ mặc vị Thượng thư bộ Lễ đứng ngơ ngác nhìn theo. Năm giờ chiều hôm đó, viên Khâm sứ Pháp Mahé cùng một số thượng thư đã đến gặp ông Huỳnh Côn tại Khiêm lăng. Họ họp lại, thành lập một ủy ban và thảo ra một loại biên bản, trong đó, ông Côn không quên ghi vào câu sau:” nếu tìm được kho báu, sẽ thưởng cho người điềm chỉ; nếu không tìm thấy gì, sẽ chém đầu người đó”. Trên thực tế, người điềm chỉ chính là anh ruột ông chủ tịch Tôn nhơn phủ An Thành vương Miên Lịch. Theo ông Huỳnh Côn, việc đào bới khu lăng mộ vua Tự Đức diễn ra trong ba ngày, nhưng không thấy có gì cả nên đành bỏ dở. Đã vậy, các thượng thư còn bị vua Duy Tân khiển trách nặng nề, vì trong lúc việc đào mả diễn ra, họ không tấu trình cho nhà vua biết (tltk 2).
Câu chuyện kể của ông Huỳnh Côn không nêu rõ thời điểm xảy ra chuyện xâm phạm lăng mộ vua Tự Đức, địa điểm chính xác nơi khai quật kho báu, cũng không nói rõ có sự hiện diện của Thượng thư bộ Công Nguyễn Hữu Bài hay không. Mặt khác, theo cách hiểu thông thường, “mả” là núm đất bên dưới có hài cốt người chết, do đó cụm từ “đào mả vua Tự Đức” có đủ sức lôi cuốn sự hiếu kỳ (và hoang mang) của mọi người. Song trong một thời gian dài, các nhà nghiên cứu không thể phối kiểm câu chuyện đầy ấn tượng này qua chính sử, vì lẽ bộ Đại Nam thực lục chánh biên của triều Nguyễn gồm 38 tập do nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành chỉ chép đến hết đời vua Đồng Khánh (1889), toàn bộ thời kỳ Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916) bị bỏ ngỏ. Điều may mắn là trong quý 4 năm 2011vừa qua, nhà xuất bản Văn hóa-Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh đã làm được một việc đáng hoan nghênh là phiên dịch và xuất bản bộ Đại Nam thực lục chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên (dưới đây gọi tắt là Đệ lục kỷ phụ biên), chép tiếp những sự kiện lịch sử dưới hai triều vua Thành Thái và Duy Tân. Đây là bộ chính sử do nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh dịch từ bản chép tay duy nhất của Quốc sử quán còn lưu trữ tại Thư viện Trường Viễn Đông Bác cổ (Paris, Pháp). Nguồn sử liệu quý hiếm này đã soi sáng nhiều điều về các nhân vật và sự kiện lịch sử trong suốt 27 năm trời (1889-1916), trong đó có sự kiện “đào mả vua Tự Đức”. Điều 1815 của Đệ lục kỷ Phụ biên chép về chuyện này như sau:
“…Khâm sứ đại thần Mahé hội thương nói nghe báo ở gian giữa điện Hòa Khiêm vốn có chôn nhiều vàng bạc, nên bàn ủy Hữu Tôn khanh Phủ Tôn nhân Ưng Hào, Tả Tham tri bộ Lễ Mai Hữu Dực, Phụng hộ Phó sứ Tùng Lễ hội đồng với hai viên Hội biện Lại Hộ lập tức tới nơi đào lên lấy số vàng bạc ấy giao cho Phủ Nội vụ để làm việc có ích. Bề tôi Phủ Phụ chính kính chiểu tôn điện là nơi trang trọng, ai báo tin ấy hư thực chưa rõ nhưng thế khó bàn bạc cản trở nên bàn định chờ xem khám nghiệm thế nào sẽ có thưởng phạt để tỏ rõ sự khuyến khích trừng phạt. Bèn ghi lại biên bản tâu lên để vua rõ. Sau đó hội đồng đào lên, qua hơn 10 ngày không có gì cả, kế quý tòa nói đã có lời Toàn quyền đại thần bàn dừng lại để khỏi ngờ vực náo động. Ngày 30 tháng giêng năm sau, chuẩn lấy Hiệp biện đại học sĩ Thượng thư bộ Lễ Huỳnh Côn, Tham tri bộ Lễ Cao Đệ cùng Hội biện Lại chính, Đốc công cùng các viên trong hội đồng tới nơi xét khám trù nghĩ lấp lại như cũ, dự trù chi phí hơn 2.000 đồng, bàn trích tiền lưu lại chi biện. Khâm sứ Mahé cũng vì việc ấy không có hiệu quả nên tháng 3 năm sau về nước (về việc này đại thần bộ Công Nguyễn Hữu Bài không dự, đương thời có câu “Bỏ vua không Khả (tức nguyên Thượng thư sung đại thần quản lãnh Thị vệ Ngô Đình Khả), bới mả không Bài”) (tltk 1, trang 569).
Đoạn chính sử trên soi sáng được mấy điều còn mù mờ trong lời kể của Thượng thư bộ Lễ Huỳnh Côn. Trước hết là việc xác định hành vi của Khâm sứ Mahé cùng đình thần triều Duy Tân là “xâm phạm lăng mộ” chứ không phải “đào mả” hiểu theo nghĩa thông thường, vì nơi bị đào bới là điện Hòa Khiêm, nằm trong phạm vi Khiêm lăng rộng lớn, chứ không phải ngôi mộ nơi chôn cất hài cốt của nhà vua. Thứ đến, chính sử cũng xác định rõ trong chuyện đào bới này, không có sự tham dự của Nguyễn Hữu Bài, cho dù với chức vụ Công bộ Thượng thư (như Bộ trưởng Công chánh ngày nay) của ông thì việc này phải do ông trực tiếp điều hành. Điều này phù hợp với câu nói trong dân gian “Bỏ vua không Khả, đào mà không Bài” (trong nguyên bản bằng chữ Nôm của bộ Đệ lục kỷ Phụ biên là “Bỏ vua không Khả, bới mả không Bài”). Chính sử cũng cho thấy việc đào bới lăng mộ vua Tự Đức được chính Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut trực tiếp can thiệp bằng cách yêu cầu “dừng lại để khỏi ngờ vực náo động”. Điều này phù hợp với lời kể của ông Huỳnh Côn là sau khi lâm vào tình trạng thất vọng, buồn chán do bị vua Duy Tân khiển trách nặng nề, ông đã được Toàn quyền Sarraut đến thăm và nói lời an ủi (tltk 2). Nó cũng gián tiếp giải thích lý do vì sao kẻ chủ mưu việc làm tệ hại trên là Khâm sứ Mahé chỉ ngồi ở Tòa Khâm Huế đúng 3 tháng rồi phải bàn giao cho người khác.
Ảnh chụp năm 1893 - người có dấu X là Tổng đốc An Tĩnh
(Nghệ An-Hà Tĩnh) Đào Tấn, ngồi bên trái Đào Tấn là Mahé,
khi ấy là phó Công sứ An Tĩnh (Ảnh tư liệu LN)
Duy có điều là thời điểm xảy ra sự việc hé lộ cho chúng ta thấy sự mâu thuẫn giữa các nguồn tư liệu bằng giấy trắng mực đen đã lưu hành. Trong tác phẩm “Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917”, ở một chú thích ngắn, học giả Đào Trinh Nhất xác định việc đào bới lăng mộ vua Tự Đức diễn ra vào năm 1913 (tltk 3, trang 79). Điều này phù hợp với bộ Đệ lục kỷ Phụ biên khi chép sự việc trên được Khâm sứ Mahé tiến hành vào tháng 12 âm lịch năm Nhâm Tý, tương ứng với thời gian từ 7.1 đến 5.2.1913. Song một nguồn tư liệu khác lại mâu thuẫn với hai sử liệu trên. Đó là tập Annuaire général de l’Indochine ( Niên bạ Đông dương) phát hành năm 1921 (tltk 4), trong đó có phần ghi danh sách các Toàn quyền Đông Dương, Thống đốc Nam kỳ, Thống sứ Bắc kỳ và Khâm sứ Huế hành sự tại Việt Nam từ năm 1858 đến cuối năm 1920. Trong tập niên bạ này, thời gian đảm nhiệm chức vụ của các viên chức trên được ghi liên tục từ người tiền nhiệm sang người kế nhiệm, theo đó thì thời gian Mahé làm khâm sứ Huế kéo dài đúng 3 tháng, từ 22.1.1912 đến 22.4.1912, nghĩa là sớm hơn một năm so với bộ Đệ lục kỷ phụ biên. Trong lúc chờ những kết quả nghiên cứu khả tín nhất, căn cứ vào thực tế lịch sử, có thể tạm suy diễn là thời điểm diễn ra vụ đào bới lăng mộ vua Tự Đức diễn ra vào năm 1912 thay vì 1913, vì các lẽ:
- Danh sách các Tổng trú sứ, Khâm sứ Huế trong Niên bạ Đông dương 1921 (tltk 4) được chép liên tục từ tháng 7.1875 đến tháng 10.1919, không để trống một ngày tháng nào, do đó khó xảy ra chuyện sai sót đến một năm.
- Tập niên bạ phát hành chỉ 9 năm sau khi xảy ra vụ “đào mả”, trong khi bộ sử Đệ lục kỷ phụ biên được khởi thảo từ năm 1922 và kéo dài đến những năm 1941-1942, có nhiều khả năng các viên chức trong Quốc sử quán không nhớ rõ hoặc có sự hiểu nhầm các văn kiện lưu trữ tại văn khố triều đình.
Dù sao thì những cứ liệu trên cũng chứng tỏ rằng chuyện xâm phạm lăng mộ vua Tự Đức là điều có thật và câu “Bỏ vua không Khả, đào mả không Bài” có một giá trị lịch sử nhất định của nó.
Theo Kiến Thức Ngày Nay
Tài liệu tham khảo:
1) Đại Nam thực lục chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên – NXB Văn hóa-Văn
nghệ TPHCM – 2011
2) Jean Jacnal - Mémoires de son Excellence Huỳnh Côn – Revue
Indochinoise 1924
3) Đào Trinh Nhất - Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
1917 – NXB Tân Việt – Sài Gòn 1957
4) Annuaire général de l’Indochine – Saigon 1921
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét