Vì sao kỵ binh Mông Cổ tung hoành cả thế giới nhưng 3 lần thảm bại ở Việt Nam?
Lời toà soạn: Các
dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói
chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí
chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng
vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có
phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều.
Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền
thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về
lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được
những quan niệm sai lệch hiện nay.
Đầu thế kỷ 13, từ những thảo
nguyên hoang vu ở Trung Á, người Mông Cổ đã cất vó ngựa chinh phạt khắp
lục địa Á – Âu và tạo nên một trong những đế quốc vĩ đại nhất thế giới.
Thế nhưng binh đoàn hung hãn ấy đã bất ngờ bị chặn đứng bởi quân dân Đại
Việt. Điều đó quả là khiến cho người ta phải băn khoăn.
Quân đội Mông Cổ nguy hiểm ra sao?
Ở thời điểm cực thịnh của mình, người
Mông Cổ đã xây dựng được một đế chế trải dài hơn 9700 km với diện tích
lên tới 24 triệu km2, tương đương 1/6 thế giới đã rơi vào tay họ. Để
chinh phục được một lãnh thổ rộng lớn như thế, người Mông Cổ đã xây dựng
cho mình một đội quân thiện chiến bậc nhất.
Đầu thế kỷ 13, theo ước tính, có khoảng
100 nghìn binh sĩ Mông Cổ luôn ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu.
Quân đội được xây dựng từ những “tổ 10 người”. Đơn vị lớn nhất của họ là
cấp sư đoàn, với khoảng 1 vạn binh lính.
Tuy nhiên, số lượng không phải là ưu
điểm của họ. Dân số Mông Cổ khi ấy cũng không quá dư thừa. Thay vào đó,
họ tập trung phát triển những chiến thuật độc đáo và kỹ năng tác chiến
tinh nhuệ cho quân đội. Vốn là dân du mục, lớn lên trên yên ngựa, người
Mông Cổ nổi tiếng thiện chiến, vừa cưỡi ngựa, vừa bắn cung. Kỵ binh Mông
Cổ cơ động và cực kỳ nguy hiểm, đã gieo rắc nỗi khiếp sợ cho tất cả
những mảnh đất họ đi qua.
Thiết kỵ Mông Cổ và tư trang.
Thời bấy giờ, quân Mông Cổ chính là
những người ham chinh phục nhất thế giới. Họ đã chiếm toàn bộ Trung Hoa,
Triều Tiên, Miến Điện, Ba Tư, một phần phía nam nước Nga, các nước Tây Á
và vươn tận đến Đông Âu. Người châu Âu trong cơn hoảng loạn đã nói
rằng: “Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu, cỏ không mọc được chỗ ấy”. Người Đức thì run rẩy: “Chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ của Tác-ta – Mông Cổ”.
Dẻo đất Đại Việt nhỏ bé ở phương nam
trong mắt đội quân hung hãn ấy thực chẳng bõ bèn gì. Thế nhưng thật kỳ
lạ, cả 3 lần xuất binh tiến đánh vào các năm 1257, 1285 và 1287, người
Mông Cổ đều chuốc lấy bại vong. Thậm chí, trong cuộc chiến năm 1285,
hoàng tử Thoát Hoan còn phải chui vào ống đồng bỏ trốn về nước.
Lý do của tất cả những chuyện này là gì?
Hào khí Đông A của nhà Trần
Tranh vẽ Trần Hưng Đạo.
Thời điểm người Mông Cổ làm chủ Trung
Nguyên lập ra nhà Nguyên, ở Việt Nam nhà Trần cũng tiếp quản ngai vàng
một cách êm thấm từ nhà Lý. Khi lên nắm quyền, các vua Trần ra sức củng
cố thực lực quốc gia, trong trừ nghịch tặc, thu vén quyền bính, ngoài
giao hảo với lân bang. Đây cũng là thời điểm Đại Việt xuất hiện nhiều
nhân vật kiệt xuất, có tài kinh bang tế thế, nổi bật hơn cả là Thái sư
Trần Thủ Độ và Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn. Sau này cả hai người
chính là đầu tàu dẫn dắt các cuộc kháng Nguyên của quân dân Đại Việt.
Nhân tài đất Việt thời kỳ này phải nói
là “trăm hoa đua nở” với tầng lớp quý tộc đầy phẩm chất, giàu lòng yêu
nước cũng như những anh hùng xuất thân áo vải. Có thể kể ra những cái
tên nổi bật nhất như: Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Quang Khải, Trần Quốc
Toản, Trần Nhật Duật, Trần Bình Trọng, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư… Võ
tướng, văn thần hai ban đều có hào kiệt.
Đây cũng là thời đại mà văn minh Đại
Việt phát triển lên đến đỉnh cao. Các nhà sử học cũng nhận ra khí chất
chung của thời đại này và gọi nó là “Hào khí Đông A”. Chỉ xét riêng về
mặt quân sự, nhà Trần đã tỏ ra không hề lép vế với vương triều phương
Bắc. Số lượng binh sĩ thường trực lên tới 10 vạn người. Các đơn vị quân
đội gọi là “quân”, đứng đầu là một đại tướng quân. Mỗi “quân” có khoảng
7500 binh sĩ.
Các vua Trần còn tích cực sử dụng chính
sách “Ngụ binh ư nông”, luân chuyển cho binh sĩ về quê cày ruộng. Khi có
chiến tranh, vua Trần thường ra lệnh tổng động viên, đại xá thiên hạ,
tuyển mộ binh sĩ cả nước. Trong cuộc kháng Nguyên lần thứ hai, sau lệnh
đại xá, nhà Trần đã tuyển mộ được khoảng 30 vạn quân, hoàn toàn đủ sức
đánh trả đại quân Nguyên Mông.
Chiến thuật thông minh của quân Trần
Dù cũng thuộc hàng thiện chiến nhưng so
sánh với kỵ binh Mông Cổ, quân nhà Trần vẫn còn nhiều thua thiệt. Quân
Mông Cổ đã quen chiến trận, đánh khắp Á – Âu, cơ động, thiện chiến, lại
thích nghi được với nhiều địa hình, khí hậu và có chiến thuật thông
minh. Trong khi đó, quân nhà Trần là “ngụ binh ư nông”, nửa năm làm
ruộng, nửa năm đi lính, cũng chưa từng có kinh nghiệm giao chiến đáng kể
nào.
Vậy nên, ngay từ đầu, chiến thuật đã là
yếu tố quyết định đến thành bại của cuộc chiến. Trần Thủ Độ và sau này
là Trần Hưng Đạo đã luôn thống nhất dùng binh theo nguyên tắc này: “Dĩ
đoản binh, chế trường trận”, nghĩa là lấy ít địch nhiều, dùng quân nhỏ,
đánh tập kích để chế ngự đại quân địch vốn quen dàn trận lớn.
Năm 1300, trước khi mất, Trần Hưng Đạo
đã để lại di ngôn cho vua Trần, đúc kết lại thành công của các cuộc
kháng Nguyên Mông như sau: “Vừa rồi Toa Ðô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao
vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước góp sức, giặc phải bị
bắt. Ðó là trời xui vậy. Ðại khái nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản
binh. Dùng đoản chế trường là sự thường của binh pháp”. Đoản binh
mà Trần Hưng Đạo nói là sử dụng gươm giáo, bộ binh, dùng các loại bẫy,
lối đánh phục kích, cận chiến. Còn trường trận thì chính là dàn quân
rộng, dùng kỵ binh, cung tên, tốc chiến tốc thắng.
Phục dựng thiết kỵ thời nhà Trần, dựa vào hiện vật mũ sắt và khiên.
Chiến thuật này đã tỏ ra hiệu quả không
ngờ. Trong cả 3 lần quân Nguyên động binh đánh Đại Việt, vua quan nhà
Trần đều chủ động rút lui trước, tránh thế mạnh của địch, đưa cuộc chiến
về thế lâu dài, giằng co. Kỵ binh Mông Cổ vốn quen tác chiến trên những
thảo nguyên, địa hình rộng, thoáng nay phải hành quân vào một vùng đất
lạ nhiều ao hồ, sông suối, núi non hiểm trở, lại có hầm hố, bẫy phục
kích giăng khắp nơi. Chính quan quân nhà Nguyên đã phải thừa nhận: “Người
Giao chống lại quan quân, tuy mấy lần bị bại, nhưng tăng binh thêm lắm.
Quan quân mệt nhọc, tử thương nhiều, quân kỵ của Mông Cổ không thể thi
triển kỹ năng” (Nguyên Sử, quyển 209).
Quân Mông Cổ giỏi đánh phủ đầu, thường
dùng chiến thuật “xuất kỳ bất ý”, tung đòn lúc đối phương không ngờ
nhất. Tuy nhiên, chiến thuật “đoản binh” của quân Trần khiến quân phương
Bắc không thể thi thố được khả năng, dần lún sâu vào vũng lầy. Đến khi
địch đã mỏi mệt, phòng ngự lỏng lẻo, quân Trần bất ngờ phản công, tập
trung toàn bộ mũi nhọn binh lực cho những trận quyết chiến lớn. Hàm Tử,
Chương Dương, Tây Kết… là những quả đấm thép hạ đo ván quân Nguyên.
Chiến lược “Vườn không nhà trống”
Trong cả ba lần kháng Nguyên vào những
năm 1257, 1285 và 1287, quân nhà Trần dường như tuân thủ tuyệt đối một
sách lược gọi là “Thanh dã”, tức là bỏ vườn không nhà trống, triệt thoái
toàn bộ, thoái lui. Năm 1257, quân Trần rút khỏi Thăng Long, lui về giữ
Thiên Mạc. Quân Mông Cổ thiếu lương, dần dần mất đi nhuệ khí. Quân nhà
Trần thừa cơ phản công, thắng lớn ở Đông Bộ Đầu, đẩy lui cuộc xâm lược
lần thứ nhất.
Năm 1285, trước thế mạnh chẻ tre của
quân Nguyên, vua tôi nhà Trần quyết định dùng kế “thanh dã”, rút khỏi
Thăng Long, lui về Thiên Trường dưỡng binh, chờ thời cơ. Quân Nguyên
chiếm được Thăng Long nhưng đó vốn chỉ còn là một thành trì rỗng không.
Trần Hưng Đạo sau đó chỉ huy 1000 chiến thuyền đánh vu hồi vào sau lưng
địch ở Vạn Kiếp. Quân Nguyên không kịp trở tay, rơi vào thế nguy khốn.
Sau đó những trận quyết chiến phản công dồn dập trong vòng 1 tháng ở Tây
Kết, Hàm Tử, Chương Dương của quân Trần đã đánh bật quân Nguyên khỏi
Thăng Long, truy kích đến tận biên giới. Thoát Hoan phải chui vào ống
đồng bỏ chạy về nước.
Kinh thành Thăng Long sau chiến thuật “vườn không nhà trống”.
Chiến lược “vườn không nhà trống” này
quả thực gây quá nhiều khó khăn cho đại binh Mông Nguyên. “Minh Sử” chép
lại tình cảnh của quân Nguyên sau khi vào Thăng Long như thế này: “Ngày
hôm sau Trấn nam vương vào thành, thấy cung điện trống không, chỉ còn
lưu lại chiếu sắc đã gửi đến cùng điệp văn của Trung thư tỉnh, bèn cho
huỷ hết”. Khi thi triển kế “Thanh dã”, Trần Hưng Đạo đã điểm trúng một tử huyệt của quân địch, đó là vấn đề lương thực.
Kỵ binh Mông Cổ xưa nay tác chiến đều
không mang theo quá nhiều lương thực. Khi hành quân, phụ nữ thường lùa
gia súc theo cùng, hai bên có quân theo kèm bảo vệ. Đoàn gia súc này
chính là lương thực của họ: sữa để uống, thịt để ăn. Quân Mông Cổ ưa
thích lối đánh “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, nuôi quân bằng lương
thực, chiến lợi phẩm cướp bóc được trên đường tấn công.
Do đó khi đối phương chủ động triệt
thoái, tiêu huỷ hậu cần, lương thực, quân Mông Cổ lập tức sa lầy. Trong
lần tiến quân năm 1285, có đến gần nửa triệu quân Mông Nguyên tràn sang
Đại Việt. Đảm bảo lương thực cho số lượng binh sĩ lớn như vậy trong bối
cảnh nhà Trần dùng kế “vườn không nhà trống” là nhiệm vụ bất khả thi.
Lương cạn, nhuệ khí dao động, lại bị quân nhà Trần tập kích, tiêu hao
sinh lực liên tục, quân Nguyên trở nên bối rối, hoang mang. Kết quả là
chỉ sau vài trận đánh vu hồi, tập kích chiến lược, quân Trần đã phá tan
cường địch.
Ngoài ra, khí hậu khắc nghiệt của phương
nam cũng gây ra nhiều khó khăn cho quân Nguyên. Quân Nguyên, gồm bộ
phận tinh nhuệ nhất là kỵ binh Mông Cổ, vốn đã quen với thuỷ thổ, khí
hậu Trung Nguyên. Phương bắc, nhất là Mông Cổ vốn lạnh, khô, không có
mùa hè nóng ẩm, khó chịu như ở phương nam. Thuỷ thổ không quen, quân
Nguyên ngã bệnh rất nhiều. Kỵ binh Mông Cổ khét tiếng hầu như không còn
đất diễn. Sinh lực giảm sút, tinh thần hoang mang, thua trận chỉ còn là
chuyện trong sớm tối vậy.
Posted by: HB <81251tlxt@gmail. com>
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét