Từ trái sang: ông
Ngô Đình Nhu, bà Harwood, Giám mục Ngô Đình Thục,
Trưởng nhánh CIA
Harwood và bà Ngô Đình Nhu - Ảnh: CIA and Ngo
Tính đến 1.11.2009 là đã 46 năm ngày các
tướng lĩnh Sài Gòn làm cuộc đảo chính quân sự lật đổ ông Ngô Đình Diệm.
Từ đó đến nay, khá nhiều tài liệu đã được giải mật cho thấy vai trò của
người Mỹ trong cuộc đảo chính cũng như tầm ảnh hưởng của họ cho đến ngày
30.4.1975.
Vào tháng 2.2009, Cơ quan Tình báo Trung
ương Mỹ (CIA) đã cho giải mật 5 tài liệu liên quan đến Việt Nam và Đông
Dương, trong đó có 2 tài liệu quan trọng:
- CIA and The House of Ngo: Covert Action
in South Vietnam, 1954-63 (CIA và triều đại nhà Ngô: Điệp vụ mật ở Nam
Việt Nam, 1954-63)
- CIA and The Generals: Covert Support to
Military Government in South Vietnam (CIA và các tướng lĩnh: Hậu thuẫn
bí mật cho chính quyền quân sự ở Nam Việt Nam)
Tập tài liệu “CIA và triều đại nhà Ngô”
gồm 232 trang, chia thành 15 chương. Chúng tôi xin lược dịch những phần
quan trọng làm thành loạt bài này, gồm những phần liên quan, dẫn đến vụ
lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và cái chết của 2 anh em họ Ngô.
Vào thời điểm ông Ngô Đình Diệm nhậm chức
Thủ tướng đầu tháng 7.1954, CIA đã có quá trình hoạt động ở Việt Nam
được 4 năm, với nỗ lực đầu tiên là giúp quân Pháp chống lại Việt Minh.
Lúc này, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển quan trọng: Đảng Cộng
sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo đã chiến thắng Tưởng Giới
Thạch, trong khi xung đột diễn ra trên bán đảo Triều Tiên. Điều đó khiến
Mỹ đặt ưu tiên cho việc ngăn chặn ảnh hưởng của phe XHCN, và Đông Dương
trở thành tiền đồn quan trọng.
Các tài liệu giải mật
của CIA
Những gì mà Joseph Alsop nhiều năm sau
này gọi là “điều kỳ diệu” của sự thành công của CIA ở Việt Nam chính là
sản phẩm của mối quan hệ thân thiết giữa CIA và anh em họ Ngô, nhất là
Ngô Đình Nhu. Chính quyền của Tổng thống Mỹ Dwight D.Eisenhower tin
tưởng vào những sứ vụ bí mật của CIA như là phương tiện để ngăn chặn ảnh
hưởng của Liên Xô. CIA đã đạt được nhiều thành quả như việc tái lập ngai
vàng cho nhà vua Iran năm 1953; và vào tháng 3.1954, ngay trước khi Pháp
thất trận tại Điện Biên Phủ, CIA cũng đã bảo trợ thành công cuộc đảo
chính quân sự lật đổ chính phủ cánh tả ở quốc gia Guatemala vùng Trung
Mỹ. Còn trước đó, mối quan hệ thân mật giữa CIA và Tổng thống
Philippines Ramon Magsaysay đã giúp ông thành công trong việc đàn áp
phong trào nổi dậy Huk. Thành thử ra, bắt đầu từ giữa năm 1954, việc CIA
đóng vai trò “lãnh đạo ngầm” ở Nam Việt Nam không có gì lạ.
“Nước Việt Nam Tự do” (Free Vietnam) -
như người Mỹ thường gọi, để chỉ lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào
Nam sau Hiệp định Geneve - thiếu thốn không chỉ một cơ cấu tổ chức chính
quyền, mà còn thiếu cả viên chức người bản xứ để thực thi quyền lực. Tất
cả điều này cho thấy, một khi quyết định đứng sau lưng ông Diệm,
Washington đã nhận trách nhiệm tạo lập một nhà lãnh đạo và xây dựng cả
một bộ máy chính quyền.
Vào đầu năm 1954, khi Tổng thống
Eisenhower quyết định từng bước thế chân Pháp ở Đông Dương, CIA bắt đầu
xem “chân tướng” của những nhân vật lãnh đạo Việt Nam nào khả dĩ có thể
trực tiếp chống lại phong trào Việt Minh lan rộng.
Sở dĩ ông
Diệm được người Mỹ đỡ đầu là vì ông có được 3 yếu tố mà hiếm có nhân vật
nào lúc đó đạt được: Ông là nhân vật chống Cộng, là người Thiên Chúa
giáo, và giỏi tiếng Anh. Yếu tố tiếng Anh hết sức quan trọng, vì vào
thời điểm đó, đa số quan chức Việt Nam đều còn ảnh hưởng chương trình
Pháp, nói và viết tiếng Pháp thông thạo, thậm chí nhiều người còn giữ
quốc tịch Pháp. Ông Diệm có lợi thế khi ông từng sống ở Hội Truyền giáo
Maryknoll ở New York và New Jersey từ năm 1951 đến 1953. Những năm tháng
ở Mỹ đã giúp ông tranh thủ vận động hành lang để được một số nhân vật
tiếng tăm của Mỹ đỡ đầu, trong đó phải kể đến Hồng y Spellman, các
thượng nghị sĩ Mike Mansfield và John F.Kennedy (sau này là tổng thống).
Nhờ những tiếp cận đó, ông Diệm có thêm lợi thế tranh thủ được sự ủng hộ
của những nhà lập pháp Mỹ có ảnh hưởng lớn đến chính sách Đông Á là dân
biểu Walter Judd (đảng Cộng hòa, bang North Dakota) và thượng nghị sĩ
Hubert Humphrey (đảng Dân chủ, bang Minnesota, sau này là phó tổng
thống), nhất là khi cuộc Chiến tranh lạnh lên đến thời kỳ cao điểm.
Ông Diệm đã tạo cho mình danh tiếng là
một “người quốc gia” khi vào năm 1933, ông từ chức Bộ trưởng Nội vụ
trong chính phủ của Hoàng đế Bảo Đại, khi người Pháp bác bỏ những đề
nghị cải cách của ông. Và đến thời điểm năm 1954, khi cần một ứng viên
đáp ứng đủ tiêu chuẩn của cả Mỹ và Pháp, thì không ai đủ điều kiện hơn
họ Ngô. Ngày 18.6.1954, Bảo Đại lúc đó ở Pháp, đã mời ông Diệm đứng ra
thành lập nội các thay thế cho chính phủ của Hoàng thân Bửu Lộc.
Khi ông Diệm đảm nhận chức vụ thủ tướng,
hoạt động của CIA ở Việt Nam chia làm 2 nhánh. Nhánh thứ nhất: CIA
Saigon Station, là bộ phận chính thức thuộc quyền điều khiển từ Tổng
hành dinh CIA ở Langley, Virginia, Mỹ, hoạt động bí mật tại Sài Gòn, có
nhiệm vụ đánh giá trực tiếp những chính khách quốc gia ở đó, chuẩn bị
nhân sự cho một chính phủ ở Nam Việt Nam. Tổng hành dinh CIA đã chọn
Paul Harwood, nhân vật đã tốt nghiệp khoa Á châu học, phụ trách.
Bộ phận thứ 2 của CIA là Saigon Military
Mission (SMM), vốn được hình thành trong cuộc họp của Hội đồng An ninh
quốc gia Mỹ tháng 1.1954, khi ai đó tiến cử đại tá Edward Lansdale,
người từng nổi danh là nhân vật “kiến lập vua” (Kingmaker) ở
Philippines, được giao nhiệm vụ tìm kiếm một người Việt Nam tương đương
với Ramon Magsaysay của Philippines. Hội đồng An ninh quốc gia chấp
thuận việc bổ nhiệm Harwood, vốn đã đến Sài Gòn trong tháng 4.1954, và
đại tá Lansdale theo gót đến Hòn ngọc Viễn Đông vào tháng 6 năm đó.
Ngoại trưởng Mỹ lúc đó là John Foster
Dulles, cùng em ruột là Giám đốc CIA Allen Welsh Dulles, đã hậu thuẫn
cho việc bổ nhiệm. Và với tư cách người đứng đầu bộ phận CIA thứ 2, đại
tá Lansdale không phải báo cáo cho McCarthy ở Sài Gòn hay Chánh sở Viễn
Đông vụ, mà là báo cáo trực tiếp cho Giám đốc CIA Allen Dulles. Bộ phận
thứ 2 do Lansdale phụ trách, Saigon Military Mission (SMM), tức Phái bộ
Quân sự Sài Gòn, mà nhân viên thuộc quyền của Lansdale đều mặc quân phục
và làm việc dưới danh nghĩa Phái bộ Cố vấn quân sự Mỹ (MAAG), và sau này
đảm trách về các hoạt động dân sự và bình định nông thôn.
Ông Diệm và bào đệ là Ngô Đình Nhu - nhỏ
hơn ông Diệm 11 tuổi, trong vai trò cố vấn - đều xem Lansdale và Harwood
là những kênh liên lạc với Washington. Đặc biệt, Lansdale còn cho anh em
họ Ngô biết về mối liên hệ trực tiếp của ông ta với các cấp làm chính
sách ở Washington. Yếu tố quan trọng nhất là Lansdale được sự ủng hộ của
anh em Dulles khiến cho ông ta có nhiều ảnh hưởng đến những người làm
chính sách của Mỹ.
Vào đầu thập niên 1950, chủ nghĩa tích
cực cùng những hứa hẹn của CIA tương phản với những gì mà sứ quán Mỹ chủ
trương. Hai vị đại sứ đầu tiên của Mỹ lại quan tâm đến những lợi ích của
Pháp tại Việt Nam và thường tỏ ra nghi ngờ khả năng cùng triển vọng của
ông Diệm trong vai trò lãnh đạo. Không nghi ngờ gì về việc các vị đại sứ
Mỹ cùng bộ tham mưu của họ có thể nhận sự tư vấn của hai bộ phận CIA do
Harwood và Lansdale đứng đầu. Nhưng hai vị đại sứ Mỹ đầu tiên thời ông
Diệm là Donald Heath và tướng Lawton Collins đã không làm như vậy.
Đại sứ Heath, một nhà ngoại giao chuyên
nghiệp, trở thành lãnh đạo phái bộ của Mỹ tại Sài Gòn năm 1950. Trên
bình diện cá nhân, ông có vẻ chịu ảnh hưởng của những ác cảm người Pháp
đối với anh em họ Ngô, đặc biệt chia sẻ sự chán ghét đối với ông Ngô
Đình Nhu. Chỉ 4 tháng sau khi ông Diệm giữ ghế thủ tướng, ông Heath đã
phải rời Sài Gòn. Tân đại sứ Mỹ là cựu đại tướng Lawton Collins, một
quân nhân nổi tiếng trong Thế chiến 2, và từng là Tham mưu trưởng Lục
quân Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên. Đại sứ Collins được cử sang Nam
Việt Nam đầu tháng 11.1954 với nhiệm vụ đánh giá khả năng lãnh đạo của
Thủ tướng Ngô Đình Diệm, cũng như đề xuất những biện pháp giúp đỡ cho
chính quyền Sài Gòn. Chỉ một tháng sau, Đại sứ Collins báo cáo về
Washington rằng: “Ông Diệm không đủ khả năng đoàn kết mọi phe phái ở Nam
Việt Nam”. Tháng 4.1955, ông chính thức đề nghị Ngoại trưởng Dulles thay
thế ngay ông Diệm.
Ông Diệm suýt bị hạ bệ
năm 1955
Ông Lansdale và ông Diệm
Một trong những khó khăn lớn nhất của ông
Diệm lúc mới lên cầm quyền là đối phó với các lực lượng giáo phái. Đó là
lực lượng Cao Đài và Hòa Hảo, vốn có đến hàng chục ngàn tay súng.
Lãnh đạo hai lực lượng này trước đây đều
được chu cấp của người Pháp để chống lại Việt Minh. Nay, một khi người
Pháp "cúp" viện trợ, nếu ông Diệm có thể tiếp tục hỗ trợ thì sẽ giành
được sự ủng hộ của họ.
Thế nhưng, lúc đó ông Diệm không có tiền.
Cố vấn Ngô Đình Nhu đã than phiền với Trưởng nhánh CIA Saigon là Harwood
rằng vị tiền nhiệm của bào huynh ông là Hoàng thân Bửu Lộc đã ra đi cùng
với "quỹ đen" của văn phòng thủ tướng khi ông rời nhiệm sở. Tài liệu của
CIA không ghi nhận khoản tiền là bao nhiêu, nhưng có nói là trong mấy
tuần lễ đầu tiên, Harwood có gửi tiền đến cho ông Diệm chi xài. Khoản
tiền đó đã cạn khi ông Diệm gặp Lansdale vào tháng 9.1954, nên ông đã
yêu cầu cung cấp thêm.
Mua chuộc tướng Trịnh
Minh Thế
Một vị tướng
của lực lượng Cao Đài là ông Trịnh Minh Thế, vốn từ lâu đã có mối liên
lạc với ông Ngô Đình Nhu, là nhân vật mà ông Diệm muốn tranh thủ được sự
hậu thuẫn, vì ông Diệm xem tướng Thế là một đồng minh tiềm tàng chống
lại các sĩ quan trong hàng ngũ quân đội quốc gia, vốn vẫn tỏ ra ủng hộ
Pháp. Sau khi ông Nhu điều đình được với tướng Thế, ông Diệm yêu cầu
Lansdale cung cấp đô la để ông mua chuộc vị tướng Cao Đài. Lansdale chấp
thuận cấp tiền cho ông Diệm để chuyển cho tướng Thế.
Vào ngày
15.9.1954, Lansdale được tướng Trịnh Minh Thế mời lên tổng hành dinh ở
núi Bà Đen, tỉnh Tây Ninh. Tại đây, tướng Thế xác nhận việc ủng hộ tân
chính quyền của ông Diệm. Nhưng trong báo cáo chính thức của đại tá
Lansdale thì ông "bỏ sót" vai trò của ông là bảo đảm những cam kết của
tướng Thế với ông Diệm. Lansdale chỉ nói là "do yêu cầu của Đại sứ Mỹ
Heath, nên Washington đã bí mật chuyển qua Diệm khoản tiền để cung cấp
cho tướng Thế thông qua Cơ quan SMM (Saigon Military Mission - Phái bộ
Quân sự tại Sài Gòn, một Cơ quan của CIA - ND)". Sự việc đã làm ông Nhu
tức giận. Trong cuộc gặp gỡ với Harwood sau đó, ông Nhu đã chỉ trích
việc đại tá Lansdale hành xử trong việc cung cấp tiền cho tướng Thế cho
thấy là ông Diệm như "trong túi người Mỹ". Ông Nhu đe dọa không làm việc
với Lansdale.
Về phần mình,
đại tá Lansdale cũng trả đũa. Khi Đại sứ Heath được đại tướng Collins
thay thế vào tháng 11.1954, Lansdale chỉ thị cho Joe Redick đi gặp vị
tân đại sứ và yêu cầu cách chức ông Nhu. Tuy nhiên, Redick nhắc cho
Lansdale nhớ là vai trò của ông Nhu quan trọng như thế nào trong chính
quyền của ông Diệm, và là "kênh" liên lạc chính thức với chính quyền,
nên ông Lansdale đã bỏ qua vụ việc.
Lời đe của Harwood
Nội các của ông Diệm bao gồm toàn bộ nhân
sự là những người trung thành với họ Ngô, nên người Pháp đã thúc giục
Ngoại trưởng Mỹ Dulles là nên gây áp lực ông Diệm mở rộng thành phần
chính phủ cho đại diện các giáo phái tham gia. Thế nhưng, ông Diệm chống
lại nỗ lực kết hợp ngoại giao Pháp - Mỹ này. Tổng hành dinh CIA cuối
cùng đã chỉ thị cho chi nhánh ở Sài Gòn phải cố gắng phá vỡ thế bế tắc.
Harwood là người thi hành lệnh.
Nhân vật đầu tiên thuyết phục ông Diệm
chính là bào đệ của ông, nhưng cố vấn Ngô Đình Nhu đã không làm cho ông
anh thay đổi lập trường mở rộng chính quyền. Ngày 20.9.1954, ông Nhu
thừa nhận thất bại và cầu cứu Harwood hãy cùng ông đến Dinh Gia Long vào
chiều tối để thuyết phục ông Diệm. Cả ba gặp gỡ nhau trong phòng ngủ của
ông Diệm. Nhưng cuộc đàm phán vẫn không đi đến kết quả, cho dù ông
Harwood đã bóng gió nói đến những đe dọa rút lại mối quan hệ. Cả ông
Diệm lẫn Harwood đều giữ lập trường của mình.
Khi màn đêm rũ xuống, họ đi bộ ra ngoài
ban-công Dinh Gia Long. Lúc đó, Harwood mới để ý đến 2 chiếc thiết giáp
bên ngoài hàng rào, mà nòng súng đại bác lại nhắm vào tòa nhà. Ông
Harwood nói với ông Diệm rằng, sự hiện diện của ông bên ngoài ban-công
có thể sẽ kích động các tay súng thuộc quyền tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng
tham mưu trưởng quân đội quốc gia. Tướng Hinh là người được đào tạo ở
Pháp, là sĩ quan trong không lực Pháp và vẫn giữ quốc tịch Pháp, nên ông
Diệm rất nghi ngờ về lòng trung thành của ông tướng này. Cả ba trở vào
phòng ngay. Cuối cùng, sau vài lời "càu nhàu", ông Diệm đồng ý mở rộng
nội các. Cho dù dưới mắt ông Harwood, sự chấp nhận của ông Diệm có vẻ
miễn cưỡng, nhưng sau đó, giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo đã có đại diện là
bộ trưởng trong chính quyền.
Căng thẳng
giữa ông Diệm và tướng Hinh chấm dứt vào tháng 10.1954 khi Bảo Đại triệu
ông Hinh về Pháp dưới áp lực của Mỹ. Cả tướng Hinh và những người Pháp
hậu thuẫn ông đều biết rằng, thượng nghị sĩ Mike Mansfield tuyên bố Mỹ
sẽ ngưng viện trợ cho các lực lượng ở nam Việt Nam nếu ông Diệm bị lật
đổ. Ngày 24.10, phía Mỹ công bố bức thư của Tổng thống Eisenhower nói là
kể từ 1.1.1955, tất cả viện trợ Mỹ sẽ được chuyển trực tiếp cho chính
quyền của ông Diệm.
Lật ngược thế cờ vào
giờ chót
Ông Ngô Đình Diệm từng suýt bị Mỹ thay
thế vào năm 1955 - Ảnh: USFG
Trước nguy cơ bị người Mỹ thay thế, ông
Diệm đã cứu vãn sự nghiệp chính trị của mình sau khi dẹp được lực lượng
Bình Xuyên.
Ngoài tướng
Thế, đại tá Lansdale còn liên lạc với tướng Nguyễn Thanh Phương, chỉ huy
lực lượng chính quy của Cao Đài, cùng 2 tướng Cao Đài khác nữa. Tuy
nhiên, khó khăn của ông Diệm là ngoài tướng Thế, tất cả các thủ lĩnh
quân sự khác, nhất là tướng Lê Văn Viễn - tức Bảy Viễn, thủ lĩnh Bình
Xuyên, và đang nắm trong tay lực lượng cảnh sát Sài Gòn (do Bảo Đại ủy
quyền trước đây), thì không chịu giải quyết về số phận của lực lượng
quân sự thuộc quyền. Trong khi ông Diệm một mực nhất định kết hợp tất cả
vào một lực lượng duy nhất là quân đội quốc gia Việt Nam. Chỉ có tướng
Thế đưa một lữ đoàn của mình gia nhập quân đội quốc gia vào giữa tháng
2.1955.
Thủ lĩnh các
giáo phái và lãnh đạo các chính đảng trong nội các mở rộng đều chỉ quan
tâm đến quyền lợi của họ. Rồi họ thành lập Mặt trận Giáo phái thống nhất
quốc gia, trong đó có cả tướng Trịnh Minh Thế. Đến ngày 21.3.1955, mặt
trận ra một tuyên cáo tối hậu, yêu cầu ông Diệm giải tán chính phủ trong
vòng 5 ngày. Trong vai trò điều phối được cả Mỹ và Pháp ủy nhiệm (Pháp
lúc đó còn có tướng Paul Ely, chỉ huy quân đội Đông Dương ở Sài Gòn),
đại tá Lansdale làm con thoi liên lạc giữa ông Diệm và phái Cao Đài. Ông
Diệm than phiền về hành động của giáo phái, nhưng Lansdale bảo đảm với
ông rằng, tuy tướng Thế ký vào bản tuyên cáo, nhưng vẫn trung thành với
chính phủ.
Hết hạn tối
hậu, ông Diệm từ chối yêu sách, thế là các thành viên nội các thuộc các
giáo phái đồng loạt từ chức. Tình hình lại rối ren thêm khi Tổng trưởng
Quốc phòng Hồ Thông Minh tuyên bố từ chức, viện dẫn vì ông Diệm từ chối
việc bảo đảm phải tư vấn nội các trước khi có hành động chống lại Bình
Xuyên. Và ngày 29.3.1955, lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn nổ súng để
chiếm thế thượng phong trước tin tức là ông Diệm thông báo cho người
Pháp biết ông sẽ cho quân đội tiếp quản tổng hành dinh cảnh sát quốc
gia. Quân của Bảy Viễn bắn cả đạn pháo vào dinh Độc Lập. Ngày 31.3, dưới
sự thúc đẩy của tướng Ely và Pháp, Bảo Đại gửi một công điện yêu cầu ông
Diệm từ chức. Bảo Đại đã gửi công điện đến 2 lần với mục đích để cho
những kẻ thù của ông Diệm hay biết. Đến thời điểm này thì Đại sứ Mỹ
Lawton Collins báo cáo với Washington là phải thay thế ngay ông Diệm.
Chỉ có
Lansdale là không đồng tình với Đại sứ Collins. Lansdale cho rằng ông
Diệm có thể đứng vững và quân đội quốc gia kết hợp với lực lượng Cao Đài
của tướng Thế, tướng Phương, là có thể đẩy lui quân Bình Xuyên. Trước
khi Đại sứ Collins được triệu về Washington báo cáo tình hình, Lansdale
cũng xin tổng hành dinh CIA cho tháp tùng để bảo vệ quan điểm của mình
nhưng Washington từ chối. Lansdale chỉ còn cách thuyết phục Đại sứ
Collins, nhưng không thể ngăn chặn những hiểu lầm giữa ông Collins và
ông Diệm. Kết quả là khi Đại sứ Collins đi Washington và được báo cáo
trực tiếp với Tổng thống Eisenhower, ông đã chỉ trích ông Diệm chỉ đưa
vào nội các toàn là những “Yes-man”, chỉ biết vâng dạ theo lệnh của ông
mà thôi. Tòa Bạch Ốc chấp thuận bàn bạc với Pháp và Bảo Đại để thay thế
ông Diệm. Ngày 28.4.1955, Đại sứ Collins đang trên đường trở về Sài Gòn
thì Bộ Ngoại giao Mỹ gửi công điện chỉ thị việc chuẩn bị thay thế ông
Ngô Đình Diệm.
Nhưng lúc đó,
bộ phận của Lansdale vẫn tìm cách thuyết phục Kidder là người thay mặt
cho Collins ở Sài Gòn, để được báo cáo về tổng hành dinh quan điểm của
từng người về khả năng chiến thắng lực lượng Bình Xuyên của phe ông
Diệm. Kidder từ chối, viện dẫn là Collins đã biết tất cả. Lansdale bèn
quay qua hợp tác với nhánh CIA của Harwood và gửi một công điện “chung”
về “ý kiến cần xem xét lại” của CIA Sài Gòn rằng không nên thay thế ông
Diệm. Cơ may của nhà Ngô vẫn còn, khi quân đội quốc gia phối hợp với lực
lượng Cao Đài đã đánh bật phe Bình Xuyên ra khỏi hang ổ ở Chợ Lớn, chỉ
còn vài điểm nhỏ đang bị bao vây. Tình hình được báo cáo ngày càng lạc
quan về Washington và đến ngày 30.4, quân của ông Diệm làm chủ được tình
hình. Khi Đại sứ Collins chưa về tới Sài Gòn thì ở đó đã nhận được lệnh
từ Washington hủy bỏ công điện ngày 28.4 về việc thay thế ông Diệm.
Người "kiến lập vua" phải ra đi
Cố vấn Ngô Đình Nhu (phải) ngày càng trở
nên khó ưa đối với người Mỹ - Ảnh: USFG
Nếu không có
sự hỗ trợ của CIA thông qua 2 trưởng chi nhánh Harwood và Lansdale, nhất
là Lansdale, thì anh em ông Diệm không thể trụ lại quá 6 tháng đầu.
Sau khi đã
khá ổn, ngày 23.10.1955, chính quyền Sài Gòn tổ chức trưng cầu dân ý,
với kết quả ông Diệm nhận được đến 98,2% số phiếu ủng hộ, Bảo Đại bị
truất phế. Ba ngày sau, ông Diệm tuyên bố trở thành tổng thống.
Hết thời
Đại tá
Lansdale nổi tiếng là người “kiến lập vua” (Kingmaker) nhờ vai trò của
ông trong việc “phò tá” cho ông Magsaysay lên làm Tổng thống
Philippines. Vào đầu thập niên 1950, Lansdale được giao nhiệm vụ qua
Philippines giúp chính phủ của Tổng thống Elpidio Quirino chống lại lực
lượng du kích Hukbalahap. Sau đó, Lansdale kết thân với Bộ trưởng Quốc
phòng Ramon Magsaysay, rồi giúp ông này giành chiến thắng trong cuộc bầu
cử tổng thống Philippines cuối năm 1953. Việc này đã được đích thân Tổng
thống Mỹ Eisenhower khen ngợi. Khi được điều qua Việt Nam, Lansdale rất
tự tin với những kinh nghiệm từng có ở Philippines, để giúp Washington
nắm quyền kiểm soát chính quyền ở miền Nam Việt Nam.
Tại miền Nam,
ảnh hưởng của Lansdale là nhờ vào mối quan hệ với tướng Cao Đài Trịnh
Minh Thế. Đến khi tướng Thế chết vào cuối tháng 4.1955 thì ảnh hưởng của
Lansdale cũng mất dần. Mặc dù được nhiều đồng nghiệp nể trọng, nhưng
Lansdale chưa bao giờ dám tuyên bố là mình đã gây được ảnh hưởng quan
trọng đối với ông Diệm. Thậm chí, có lần Lansdale đã nói với Trưởng
nhánh CIA Sài Gòn Harwood rằng có lẽ ông Diệm chỉ chấp nhận có 10% những
lời cố vấn của ông mà thôi.
Khi Harwood
mãn nhiệm vào tháng 4.1956 thì đại tá Lansdale cũng tìm cách thoái lui.
Ông viết thư cho tướng Hobbles nhờ giúp đỡ để đưa ông trở lại Manila
phục vụ. Tướng Hobbles can thiệp với Ngoại trưởng Mỹ Dulles, rồi được
Tổng thống Eisenhower đồng ý cho Lansdale trở lại Philippines. Nhưng đại
tá Lansdale đã hết thời, vì người mà ông từng tự hào “đưa lên làm vua”,
Tổng thống Magsaysay, tỏ ra không mấy quan tâm đến việc Lansdale trở lại
phục vụ ở Manila. Cuối cùng, tháng 12.1956, Lansdale trở về Mỹ làm việc
cho Bộ Quốc phòng. Bộ phận SMM ở Sài Gòn bị giải thể và 2 nhánh CIA ở đó
được nhập lại làm một, do Nicholas Natsios làm trưởng nhánh, và Douglas
Blaufarb phụ tá với nhiệm vụ liên lạc với anh em họ Ngô.
Ông Nhu trong mắt CIA
Có thể nói, vị trí cố vấn tổng thống, tuy
là thế lực tột cùng, nhưng là chức vụ không chính thức trong thành phần
chính quyền. Bộ phận CIA ở Sài Gòn đóng vai trò là “kênh” liên lạc giữa
ông Nhu và Chính phủ Mỹ, nên đã tổ chức chuyến đi Washington cho vợ
chồng ông Nhu trong tháng 3.1957. Mặc dù ông Nhu không giữ một chức vụ
chính thức nào trong chính quyền của ông Diệm, nhưng do vai trò quan
trọng của ông, Tổng hành dinh CIA đã dàn xếp để không những ông Nhu được
hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, mà cả Tổng
thống Eisenhower cũng dành cho ông một cuộc tiếp kiến tại tòa Bạch Ốc.
Ông Ngô Đình Nhu còn làm việc với Giám đốc CIA Allen Dulles và gặp gỡ
nhiều thượng nghị sĩ có thế lực khác trên chính trường. Có thể nói vào
thời điểm đó, chưa có một nhân vật ngoại quốc nào không giữ cương vị cao
cấp trong chính quyền mà lại được Washington “trọng vọng” như thế. Chính
nhờ CIA dàn xếp mà hình ảnh của ông bà Ngô Đình Nhu tràn lan trên các hệ
thống truyền thông Mỹ và thế giới, đến nỗi ở quê nhà, bào đệ của ông là
“lãnh chúa miền Trung” Ngô Đình Cẩn phải ganh tức.
Trong chuyến đi Mỹ, ông Nhu tạo được ấn
tượng cá nhân rất tốt và tỏ ra rất tự tin. Chỉ có điều duy nhất là CIA
than phiền về sự “quá đà” của bà Nhu. Chẳng là bà cố vấn đã khai thác
triệt để nhan sắc, tính hoạt bát và trình độ Anh ngữ của mình để lôi
cuốn sự chú ý của quan khách trong tiệc chiêu đãi của Giám đốc CIA tại
CLB Alibi ở Washington.
Trước khi ông Nhu ra về, mọi việc đã
chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi Washington của ông Diệm. Đại tá Lansdale
lúc đó đã chuyển qua phục vụ tại Bộ Quốc phòng. Ông báo cho CIA Sài Gòn
biết ông Diệm sẽ được mời đọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc hội Mỹ.
Trong chuyến đi Mỹ thượng tuần tháng 5.1957 đó, ông Diệm đã gặp Giám đốc
CIA Allen Dulles tại tòa nhà Blair House đối diện Nhà Trắng. Trong các
đề tài thảo luận, có vấn đề CIA muốn đẩy mạnh việc tái tổ chức hệ thống
tình báo của Nam Việt Nam. Nhưng ông Diệm, tuy bề ngoài thì đồng ý trên
nguyên tắc, nhưng bên trong lại tỏ vẻ “không muốn đặt trách nhiệm quá
nhiều trong tay của một người”, vì thế tiến triển không mấy khả quan. Do
đó, đảng Cần Lao của ông Nhu vẫn nắm gần hết mọi quyền bính. Công cụ
tình báo chính của ông Diệm vẫn là Sở Nghiên cứu chính trị xã hội
(SEPES).
Không mấy hài lòng về tiến trình dân chủ
của chính quyền ông Diệm, nhưng nhìn chung, Washington công nhận là ông
Diệm đã thành công bước đầu. Tuy nhiên, những rạn nứt trong nội bộ gia
đình họ Ngô, việc triệt hạ đối thủ chính trị, và nhất là sự thao túng
của ông Nhu đã dần làm mất hậu thuẫn từ phía Washington. Theo lời ông
Trần Quốc Bửu, thì vào cuối thập niên 1950, hầu như tất cả những quyết
định chính sách cốt lõi đều từ ông Nhu. Ông Bửu nói, nếu như ông trình
một đề nghị lên tổng thống, thì ông Diệm nói là ông cần thời gian để cân
nhắc. Nhưng cũng với đề nghị đó, nếu trình lên cố vấn Ngô Đình Nhu thì
sẽ có câu trả lời tức khắc, rồi chỉ vài ngày sau là có chỉ thị thi hành
từ tổng thống phủ. Chính những báo cáo của ông Bửu khiến cho Tổng hành
dinh CIA bận tâm lý giải về phân nhiệm trong chính quyền của ông Diệm.
CIA cũng đã ước tính đến khả năng ông Nhu thay thế ông Diệm. Nhưng chứng
cứ dần dà cho thấy, mối quan hệ giữa ông Nhu và các quan chức Mỹ, kể cả
những viên chức CIA ngày càng căng thẳng.
Sự ghét bỏ ông Nhu càng tỏ ra rõ ràng hơn
khi Blaufarb phát hiện ra rằng, tài xế người Việt mà bác sĩ Trần Kim
Tuyến, chỉ huy lực lượng mật vụ của đảng Cần Lao tiến cử cho ông, không
phải là người bị điếc như lời của ông Tuyến. Trái lại, đó là một người
rất thông thạo cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp. Kể từ đó, ông Nhu trở nên ít
tiếp cận được hơn, và chi nhánh CIA Sài Gòn cho rằng, có lẽ là do thiên
kiến chống phương Tây của ông cố vấn.
Vai trò CIA trong cuộc
đảo chính hụt năm 1960
Chỉ huy CIA tại Sài Gòn William Colby sau
này đứng đầu CIA - Ảnh: Tư Liệu
Năm 1960, một số tướng lĩnh Sài Gòn đã
thực hiện cuộc binh biến lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm nhưng thất bại. Một
câu hỏi được đặt ra là CIA đóng vai trò như thế nào trong sự kiện này.
Vào đầu năm 1960, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn
lúc đó là Elbridge Durbrow, còn Trưởng nhánh CIA là William Colby. Nhưng
hai nhân vật này lại có quan điểm ngược nhau về ông Diệm. Nếu như Colby
vẫn còn hy vọng vào thể chế của họ Ngô, thì sự nghi ngờ của Đại sứ
Durbrow lại được những nhân viên kề cận với Colby chia sẻ, trong đó có
George Carver, một phụ tá trẻ tuổi của Colby, mà sau này trở thành phụ
tá đặc biệt về Việt Nam vụ của Giám đốc CIA. Carver đã xem chế độ của
ông Diệm là không thể cứu vãn, bởi anh ta nghĩ rằng, chỉ có cải tổ triệt
để mới mong cứu được chế độ khỏi bị các thế lực chống đối lật đổ, nhưng
đối với ông Diệm thì không bao giờ có cải cách, cải tổ gì cả. Về phần
Colby, ông cho rằng, quan điểm của Carver hay những nhân viên như thế,
đơn giản phản ảnh khuynh hướng chống ông Diệm ở những thành phần chống
đối mà họ thường tiếp xúc.
Tuy vậy, toàn bộ chi nhánh CIA Sài Gòn
đều đồng thuận một điểm. Đó là: Những thành phần không phải là Cộng sản
nhưng chống đối chế độ ông Diệm ở Sài Gòn ngày một tăng cao. Tháng
7.1960, chi nhánh CIA báo cáo về sự gia tăng thành phần đối lập không
Cộng sản, hai tháng sau, lại bổ sung thêm vào đó là thành phần sĩ quan
quân đội. Tháng 10.1960, họ báo cáo thêm tướng Trần Văn Minh, và chi
nhánh CIA Sài Gòn qua tướng Minh cùng những mối quan hệ khác, để cố nhận
diện những người nào sẽ tham gia đảo chính. Trong khi đó, cũng với nhiệm
vụ mở rộng tiếp xúc hằng ngày, Carver đã tìm tới Hoàng Cơ Thụy, một
chính khách đối lập thuộc đảng Đại Việt, từng quen biết với các nhân
viên CIA trước đây.
Một lần nữa, ông Ngô Đình Diệm và cố vấn
Ngô Đình Nhu (từ trái sang) lại thoát hiểm - Ảnh: T.L
Người Mỹ nắm 2 đầu mối
Tuy đã theo sát tình hình phe đối lập ở
Sài Gòn, nhưng mọi nỗ lực của chi nhánh CIA Sài Gòn vẫn không nắm được
chút nào tin tức về cuộc đảo chính ngày 11.11.1960 mà lữ đoàn nhảy dù
dưới quyền chỉ huy của đại tá Nguyễn Chánh Thi là lực lượng chủ chốt.
Giống như cư dân Sài Gòn, các nhân viên CIA cũng chỉ biết được động tĩnh
một cách mơ hồ của quân đảo chính vào rạng sáng 11.11, với tiếng bánh xe
thiết giáp lăn trên đường phố, đi kèm là những tay súng cùng nhau hướng
về Dinh Độc Lập. Nhưng nhờ đã theo dõi từ lâu nay, nên CIA đã nhanh
chóng tiếp cận với các nhóm đối lập để nhận diện ngay thủ lĩnh phe đảo
chính cùng ý đồ của họ.
Sáng hôm đó, các nhân viên CIA đã vội
điều nghiên xem phải tiếp xúc với ai, hoặc theo chân đoàn quân đang tiến
về phủ tổng thống để quan sát hoạt động của lực lượng nổi dậy. Về phần
Carver, ông đã gọi điện cho Hoàng Cơ Thụy và được nhân vật này mời đến
gặp một nhóm chính khách dân sự, những người đang trông chờ các tướng tá
đảo chính sẽ phân chia chức vụ cho họ trong tân chính phủ.
Được Trưởng chi nhánh CIA Colby cho phép,
Carver lái xe đến tư gia của ông Thụy. Từ đó, ông báo cáo về chi nhánh,
đồng thời phục vụ như một kênh liên lạc cho Chính phủ Mỹ, áp lực lên
cánh quân đảo chính không được “làm cỏ” Dinh Độc Lập, như lãnh đạo cuộc
đảo chính từng đe dọa, mà phải thương lượng với ông Diệm.
Nhiều năm sau này khi nhớ lại, Carver
thừa nhận là lúc đó, ông thực sự bị khủng hoảng về lương tâm nghề nghiệp
do những chỉ thị, mà ông tin rằng, ông Diệm trước sau gì rồi cũng phải
ra đi, và việc dùng mánh khóe để điều khiển phe đảo chính làm lợi cho
ông Diệm là một sai lầm sâu sắc. Tuy rằng miễn cưỡng, nhưng Carver đã
thực hiện những gì được chỉ thị. Ông đã thuyết phục được nhóm của Hoàng
Cơ Thụy chịu điều đình với ông Diệm, theo điều kiện sẽ duy trì vai trò
của ông Diệm “như là nhân vật lãnh đạo trong cuộc chiến chống lại Cộng
sản”.
Cùng lúc đó, một nhân viên CIA khác là
Russ Miller, người phụ trách những hoạt động chống lại miền Bắc Việt
Nam, đã cùng với nhân viên thông dịch tiếng Việt của chi nhánh là
Bender, lái xe tới Dinh Độc Lập. Tình hình ở đó căng thẳng, đạn hai bên
bắn qua bắn lại. Hai người bèn nhập vào đám phóng viên nước ngoài đứng
săn tin ở đó. Ai nấy đều muốn biết những người bảo trợ và mục đích của
cuộc đảo chính. Miller không tìm thấy ai có thể “soi sáng” cho ông. Phát
ngôn viên duy nhất cho cuộc đảo chính là bác sĩ Phan Quang Đán, một nhân
vật chống đối “lưu niên” và là người từng tiếp xúc với CIA. Ông cũng tỏ
vẻ sẵn sàng ngồi vào ban lãnh đạo tân chính quyền một khi quân đảo chính
lật đổ chế độ của ông Ngô Đình Diệm. Ông Đán thông báo là ông sẽ tổ chức
một cuộc họp báo tại tổng hành dinh Bộ Tổng tham mưu, gần phi trường Tân
Sơn Nhất. Thế là Miller và Bender leo lên xe.
Bender tình nguyện trở về tòa đại sứ theo
dõi tình hình. Miller đi cùng một đồng nghiệp khác đến Bộ Tổng tham mưu
quân đội Nam Việt Nam.
Bác sĩ Đán cùng các phóng viên đều ra đi
sau cuộc họp báo. Riêng Miller và đồng nghiệp còn lang thang trong khuôn
viên Bộ Tổng tham mưu cho đến khi gặp được ban lãnh đạo cuộc đảo chánh.
Miller không nhận ra bất cứ ai và tự giới thiệu mình là quan chức của
tòa đại sứ Mỹ. Một lát sau, đại tá Thi xuất hiện. Ông Thi biết Miller
nên ra lệnh cấp cho Miller một điện thoại cũng như cử một sĩ quan để
liên tục cung cấp tin tức cho phía Mỹ. Hai nhân viên CIA ở lại đó qua
đêm. Họ ngủ trên bàn làm việc khi không còn nghe tiếng kêu ca, phàn nàn
của các sĩ quan nhảy dù nữa.
Những chỉ thị đầu tiên mà Miller nhận
được từ Trưởng nhánh CIA Sài Gòn là tránh bất kỳ vai trò cố vấn nào, và
tự giới hạn hoạt động. Carver thì đã nắm vững tin tức từ nhóm dân sự của
ông Thụy. Biết được CIA đã làm chủ thông tin cả nhóm dân sự lẫn quân sự
của phe đảo chính, Đại sứ Durbrow một mặt nhận tin tức từ Miller và
Carver, một mặt liên lạc điện thoại với Dinh Độc Lập. Phản ảnh về sự
lưỡng lự của Bộ Ngoại giao Mỹ, ông không đưa ra rõ ràng sự ủng hộ nào
của chính quyền Washington, nhưng đề nghị ông Diệm đàm phán về những yêu
sách của quân đảo chính. Về phía CIA, giống như Carver đã làm việc với
phe dân sự, Miller cũng áp lực nhánh quân sự là hãy thương thuyết với
ông Diệm hơn là tấn công vào tổng thống phủ.
Ông Thi đòi nã pháo dinh Độc Lập
Phe quân sự lãnh đạo cuộc đảo chính tỏ ra
chia rẽ trong việc giải quyết vấn đề then chốt là thương thuyết với ông
Diệm hay lật đổ ông, và dễ dàng bị áp lực của phía Mỹ. Chủ trương tấn
công vẫn là chọn lựa của phe đảo chính cho đến khi quân đội trung thành
với ông Diệm do đại tá Trần Thiện Khiêm kéo từ miền Tây lên giải cứu vào
ngày 12.11.1960. Phải nói là vai trò áp lực mà Đại sứ Durbrow đã sử dụng
có hiệu quả thông qua 2 “kênh” CIA là Carver và Miller lên quân đảo
chính, khiến họ chần chừ đã giúp cho ông Diệm sống còn.
Các cuộc thương thuyết kéo dài suốt ngày
11.11 cho đến những giờ đầu tiên của ngày 12. Đó hầu như là “kế” của ông
Diệm để chờ quân tiếp viện của đại tá Khiêm, vốn là người thân cận với
Giám mục Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long, là bào huynh của ông Diệm. Đại tá
Khiêm đang chỉ huy cuộc hành quân giải cứu từ miền Tây tiến về Sài Gòn.
Sau này, chính Miller nhớ lại là ông ta
nhận chỉ thị từ Trưởng nhánh CIA Sài Gòn, để thông báo cho đại tá Thi
biết là đại quân của ông Diệm đã tới nơi. Lúc đó, ông Thi công nhận cuộc
đảo chính chấm dứt vì lực lượng áp đảo của đại tá Khiêm. Nhưng đại tá
Thi cho biết là ông còn một tiểu đoàn pháo binh 105 mm, và ông nói với
Miller rằng, ông muốn dùng dàn đại pháo tổng lực này để “trừng phạt” sự
“phản phé” của ông Diệm. Miller can ngăn ngay vì sợ thiệt hại nhân mạng
cho cả người Mỹ lẫn người Việt sống gần khuôn viên Dinh Độc Lập, cũng
như cảnh báo đại tá Thi là đạn pháo của ông không “thủng” được hầm trú
ẩn chỉ huy trong tổng thống phủ được đâu. Ông Thi dịu lại rồi sau đó,
cùng các sĩ quan chỉ huy cuộc đảo chính, đi ra Tân Sơn Nhất để bay đi tị
nạn ở Campuchia.
Cánh sĩ quan chỉ huy đảo chính thất bại
đã “bỏ quên đồng minh” dân sự là ông Hoàng Cơ Thụy. Cuối cùng, ông Thụy
phải đến nhờ Carver. CIA đã bí mật đưa ông qua căn cứ không quân Clark ở
Philippines, rồi từ đó bay qua Okinawa.
Người Mỹ gọi cuộc đảo chính bất thành này
là một cuộc “binh biến” (mutiny), nhưng với anh em ông Diệm, đây là mối
đe dọa lớn cho chế độ.
Phe đảo chính “lỡ hẹn”
Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại
Sài Gòn năm 1963 để phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo - Ảnh: T.L
Đến đầu năm 1963, kế hoạch đảo chính đã
được xúc tiến, nhưng các tướng lĩnh Sài Gòn vẫn chưa sẵn sàng lắm cho
cuộc lật đổ chính quyền của ông Diệm.
Khoảng đầu năm 1963, nhân viên CIA hầu
như hiện diện ở khắp nơi, trong khi chính quyền của Tổng thống Ngô Đình
Diệm từ sau vụ binh biến 11.11.1960 đã tỏ ra mất tin tưởng vào
Washington, thậm chí ông Nhu còn tỏ vẻ chống đối ra mặt. Các phe nhóm
chống chế độ ngày càng nhiều, cùng với việc chính quyền đàn áp Phật
giáo. Các tin đồn về đảo chính lại râm ran và CIA không bỏ lỡ cơ hội
tiếp cận với tướng tá quân đội.
Từ sau vụ 11.11, đại tá Trần Thiện Khiêm
được tín nhiệm và thăng cấp thiếu tướng. Nhưng đến năm 1963, khi phong
trào chống đối ông Diệm lên cao, ông Khiêm lại là một trong những vị
tướng tham gia. Nhân ngày Quốc khánh 4.7.1963, Tòa đại sứ Mỹ tổ chức
chiêu đãi và mời các sĩ quan chỉ huy Sài Gòn. Ông Diệm cho phép các
tướng tá tham dự. Đây là cơ hội để trung tá CIA Lucien Conein trổ tài
làm cầu nối liên lạc giữa Chi nhánh CIA Sài Gòn với các tướng lĩnh.
Washington bỏ phương
án chọn ông Nhu
Trước tình hình căng thẳng với việc Phật
giáo đấu tranh nhiều nơi, các tướng lĩnh đề nghị ông Diệm ban hành thiết
quân luật. Nhưng ngay tức khắc, mọi nỗ lực thương thuyết với Phật giáo
sụp đổ khi các chùa chiền lớn ở Sài Gòn và những thành phố lớn khác bị
tấn công đêm 21.8. Hàng trăm nhà sư bị bắt và nhiều người bị thương. Tác
giả của vụ bố ráp chùa chiền vẫn không rõ là ai, mà sau đó, 2 nhân viên
CIA thuộc Chi nhánh Sài Gòn chứng kiến cảnh bố ráp ở chùa Xá Lợi thì nói
là cảnh sát tiến hành, nhưng lại mặc trang phục của Thanh niên Cộng hòa.
Đài VOA loan tin ngay là quân đội đã bố
ráp chùa chiền, điều mà tướng Trần Văn Đôn (lúc đó là Tổng tham mưu
trưởng) kịch liệt phản đối với phía Mỹ. Sau này, CIA mới biết là ông Nhu
đã sử dụng lực lượng đặc biệt của đại tá Tung và quân của tướng Tôn Thất
Đính trong các vụ bố ráp nói trên.
Vào thời điểm đó, Henri Cabot Lodge chuẩn
bị qua thay Frederick Nolting làm đại sứ tại Sài Gòn. Trước tình hình có
nhiều tin tức đảo chính lật đổ ông Diệm, Washington muốn các quan chức
của họ ở Sài Gòn tìm người có khả năng thay thế ông Diệm. Cả Nolting lẫn
Trưởng nhánh CIA John Richardson đều đồng ý với nhau là không có nhân
vật dân sự nào có thể thay ông Diệm. Cố vấn Ngô Đình Nhu cũng có tham
vọng thay thế bào huynh, nhưng dưới mắt CIA, ông bị nhiều trở lực, nhất
là hình ảnh bị công chúng chống đối dữ dội của bà Nhu. Và tuy ông Nhu là
nhân vật quyền lực số 2 ở miền Nam Việt Nam lúc đó, nhưng CIA nhận xét
rằng, ông không thể "trị" được các tướng tá một khi không có ông Diệm.
Do đó, Washington bác bỏ phương án chọn ông Nhu, và CIA Sài Gòn đã đề
nghị Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ là người kế nhiệm.
Chưa sẵn sàng
Ông Cabot Lodge vừa chân ướt chân ráo đến
Sài Gòn thì nhận ngay một công điện tối mật do Roger Hilsman gửi tới qua
kênh của CIA. Đó là chỉ thị ngày 24.8 đã được Tổng thống J.F.Kennedy
chuẩn thuận. Nội dung là gửi đi một thông điệp tối hậu cho ông Diệm là
phải loại bỏ ông Nhu. Tân đại sứ cũng được lệnh thông báo cho các tướng
lĩnh chủ chốt của Sài Gòn về yêu sách này của Mỹ, và họ cũng được cho
biết là trong trường hợp ông Diệm không đồng tình, Washington sẽ không
ủng hộ ông ta nữa.
Ông Colby lúc đó là Giám đốc Viễn Đông vụ
tại Tổng hành dinh CIA đã gửi công điện cho Trưởng nhánh CIA Sài Gòn,
chỉ đạo Richardson tìm cách thuyết phục ông Diệm chuyển giao quyền hành
cho quân đội, rồi cùng ông Nhu lên Đà Lạt "nghỉ hưu". Ông Lodge nghĩ
rằng, nếu đưa yêu sách trực tiếp cho ông Diệm thì chỉ giúp ông ta tìm kế
trì hoãn, trong khi ông Nhu sẽ phản ứng vì có lực lượng trong tay. Thế
nên, đại sứ Lodge muốn Chi nhánh CIA liên hệ với các tướng lĩnh để họ
gây áp lực với ông Diệm. Chỉ thị mới của Washington được họ đúc kết
thành 9 điểm để thi hành, trong đó có 2 điểm then chốt là cách chức ông
Nhu, và tuyên bố Mỹ không dính líu đến đảo chính.
Ngày 26.8.1963, Conein và Al Spera được
giao nhiệm vụ đi gặp để truyền đạt đến 2 tướng Khánh và Khiêm. Spera đi
Pleiku gặp tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Tư lệnh Vùng 2 đầy quyền lực.
Tướng Khánh nói rằng nếu ông Diệm đồng ý loại bỏ ông Nhu, thì sẽ không
cần làm đảo chính nữa. Ông cũng chống lại việc lực lượng đảo chính tiếp
cận với tướng Tôn Thất Đính, người mà ông cho là "khó lường". Tướng
Khánh cũng lưu ý là cuộc đảo chính có thể thất bại, và yêu cầu phía Mỹ
phải bảo đảm việc tị nạn cho các tướng lĩnh chỉ huy đảo chính cùng gia
đình họ.
Chiều 29.8, đại sứ Lodge gửi một điện văn
về Washington quyết định thúc đẩy một cuộc đảo chính quân sự lật đổ Ngô
Đình Diệm, và đòi hỏi mọi nỗ lực để các tướng lĩnh nhanh chóng tiến
hành, không còn trì hoãn nữa. Chiều hôm sau, cố vấn Ngô Đình Nhu triệu
tập các tướng lĩnh tại Bộ tổng tham mưu gần phi trường Tân Sơn Nhất. Tại
cuộc gặp này, ông Nhu điểm lại về sự đối đầu với Mỹ, cũng như phớt lờ sự
ủng hộ lâu nay của Richardson. Ông Nhu nhấn mạnh CIA đã làm nhiều việc
khiến cho dân chúng xa lánh chính quyền, cáo buộc các viên chức Mỹ đã
cung cấp cho báo chí những tin tức bất lợi cho chính quyền Sài Gòn.
Sáng 31.8, khi tướng Paul Harkins có cuộc
hẹn với tướng Trần Thiện Khiêm, thì tướng Khiêm lại nói rằng các tướng
lĩnh chưa tập trung đủ lực lượng trong nội thành và quanh Sài Gòn, đồng
thời trả lời đơn giản rằng, họ chưa sẵn sàng hành động. Ngoài ra, các
tướng tá thất vọng trước việc không hạ bệ được ông Nhu, nay có người còn
nghĩ đến việc có thể tham gia vào một ghế bộ trưởng trong chính phủ do
ông Nhu làm Thủ tướng.
Trong hoàn cảnh như vậy, tướng Harkins
quyết định không xác nhận sự hậu thuẫn của Mỹ cho một cuộc đảo chính
nữa. Kế hoạch đó chỉ được "tái xét" mấy tuần sau. Ngày 2.9.1963, Times
of Vietnam, tờ báo tiếng Anh xuất bản ở Sài Gòn của ông Nhu, chạy tít:
"CIA CUNG CẤP TIỀN BẠC CHO MỘT CUỘC ĐẢO CHÁNH".
Cuộc đảo chính ngày 1.11.1963
Sự thay đổi của tướng Đính là một trong
những nhân tố then chốt của cuộc đảo chính - Ảnh: Tư liệu
Chỉ thị ngày 24.8.1963 của Washington bật
đèn xanh cho các tướng lĩnh Sài Gòn lật đổ ông Diệm không mất hiệu lực.
Nó “nằm chờ thời”...
Vai trò tướng Đính
Ngày 4.9, Conein được tướng Tôn Thất Đính
triệu mời. Ông Đính là nhân vật rất quan trọng trong trường hợp nổ ra
một cuộc đảo chính, vì ông là nhân vật tin cẩn của hai anh em ông Diệm,
và lúc đó với vai trò Quân trấn trưởng Sài Gòn - Gia Định trong thời
gian thiết quân luật, tướng Đính nắm quyền điều binh khiển tướng trong
tay.
Tại buổi ăn trưa mà những binh lính thuộc
quyền của tướng Đính luôn chĩa mũi súng về phía Conein, thái độ của ông
Đính có vẻ thất thường. Trước hết, tướng Đính yêu cầu Conein cho biết là
có chăng một âm mưu chống lại ông, rồi sau đó, lại trách Conein sao
không liên hệ với ông kể từ khi ông được ông Diệm giao trọng trách giữ
an ninh cho Sài Gòn. Conein nói là đã có thử vài lần đến thăm, nhưng phụ
tá của tướng Đính đều nói là chỉ huy của họ rất bận. Tướng Đính cho gọi
ngay viên phụ tá và sạc cho một trận. Conein đã biết tướng Đính từ nhiều
năm nay, nay nhận xét là nhân vật này đã hoàn toàn thay đổi và sau 4 giờ
nói chuyện, Conein nhận định là chỉ cần khích tướng chút đỉnh là tướng
Đính có thể tham gia trò chơi quyền lực.
Điều lo lắng để đối phó với 5.500 tay
súng thuộc lực lượng trung thành với chế độ đã được giải tỏa, khi tướng
Đính đồng ý tham gia cuộc đảo chính, và là đòn “hiểm” đánh vào ông Nhu
khi ông cố vấn vào giờ chót đã sử dụng tướng Đính như là người lãnh đạo
lực lượng chống đảo chính.
Vào hạ tuần tháng 10, tướng Khiêm lại báo
cáo về những âu lo liên quan đến tin tức là cố vấn Ngô Đình Nhu có thể
thương lượng với Bắc Việt Nam. Washington bật tín hiệu không còn chần
chờ nữa và tướng Khiêm nói là cuộc đảo chính sẽ diễn ra chậm nhất là
ngày 2.11. Ông cũng khẳng định một điều là “toàn bộ gia đình họ Ngô phải
bị loại bỏ khỏi chính trường Việt Nam”.
Ngày định mệnh
Ngày 1.11.1963 cũng yên tĩnh như mọi ngày
bình thường khác. Nhưng đến 13 giờ 30, tại nhánh CIA Sài Gòn bỗng có
công điện ưu tiên, nội dung “đoàn quân quấn khăn quàng cổ màu đỏ từ
hướng Biên Hòa đổ vào Sài Gòn, có lẽ là thủy quân lục chiến”. Tướng Đôn
bảo viên sĩ quan phụ tá thông báo cho Conein là cuộc đảo chính khởi sự
và yêu cầu ông ta tới ngay Bộ Tổng tham mưu, nơi đóng bộ chỉ huy cuộc
đảo chính. Conein ở lại nơi đó cho đến ngày hôm sau, báo cáo tin tức
liên tục cho Washington, trong khi các nhân viên CIA khác đổ xuống đường
phố, quan sát cuộc biến. Thông tin đầu tiên mà Conein chuyển đi là việc
bắt giữ những nhân vật trung thành với ông Diệm trong quân đội, bao gồm
đại tá Tung, chỉ huy lực lượng đặc biệt, cùng tư lệnh thủy quân lục
chiến, không quân, và nhân dân tự vệ. Conein cũng báo cáo là vị tư lệnh
hải quân đã bị giết ngay phút đầu cuộc đảo chính.
Tin tức liên tục của nhân viên báo về cho
thấy chạm súng tại Dinh Gia Long của khoảng 200 binh lính đảo chính với
các tay súng thuộc liên binh phòng vệ phủ tổng thống. Một nhân viên CIA
khác báo là có 35 xe tăng tiến về Dinh Gia Long. Conein thúc giục các
tướng gọi điện liên lạc, kêu gọi ông Diệm đầu hàng để được an toàn tính
mạng. Để tránh tình trạng dây dưa, câu giờ chờ viện binh như lần đảo
chính 11.11.1960, các tướng thỏa thuận nếu liên lạc được với ông Diệm
thì chỉ yêu cầu ông trả lời là “có” hay “không” cho đề nghị đầu hàng.
Phe đảo chính cũng đã chuẩn bị không kích nếu cần thiết.
Trong khi đó, tòa đại sứ đang bối rối
trước tin tức là các tướng lĩnh không chịu thương lượng trực tiếp với
ông Diệm, và họ muốn ông đại sứ chuyển giao tối hậu thư cho anh em họ
Ngô.
Tướng Dương Văn Minh nói với ông Nhu là
ông ta có 5 phút để đầu hàng, nếu không thì tòa nhà sẽ bị máy bay oanh
kích. Để làm nhụt nhuệ khí anh em ông Diệm, tướng Minh buộc đại tá Tung
cùng những nhân vật trung thành với nhà Ngô nói cho ông Nhu biết là họ
đang nằm trong tay của quân đảo chính. Đặc biệt, Conein muốn tướng Đính
nói lâu hơn để cho anh em ông Diệm không còn gì hy vọng ở vị tướng “Tổng
trấn” Sài Gòn-Gia Định mà nhất là ông Nhu, trước đó đã giao cho tướng
Đính lãnh đạo một cuộc đảo chính “giả” để “gài” các tướng lĩnh (nhưng
ông Đính đã tương kế tựu kế, nên đến giờ chót, ông Nhu không còn gì).
Lúc 16 giờ 30, ông Diệm gọi điện cho Đại
sứ Cabot Lodge báo cho biết là có vài đơn vị quân đội tạo phản và hỏi
ông Lodge về thái độ của Mỹ. Lodge trả lời là ông không đủ thông tin
cũng như không nhận được hướng dẫn gì từ Washington nên chưa thể đưa ra
quan điểm của mình. Thời khắc đó, mối ưu tư nhất của Lodge là sự an nguy
của anh em họ Ngô, nên ông Lodge đã nói với ông Diệm rằng, nếu ông đồng
ý xuất ngoại, thì lãnh đạo cuộc đảo chính sẽ để cho anh em của ông an
toàn ra đi. Ông Diệm nói: “Không”.
Tới 17 giờ, tướng Minh gọi điện đến Dinh
Gia Long, nhưng ông Diệm không thèm bắt máy. Ông Minh nói với Conein là
đã ra lệnh oanh kích vào tòa nhà. Hai giờ sau, tướng Minh lại ra một tối
hậu thư khác: Nếu ông Diệm không đầu hàng, ông sẽ cho lệnh san bằng Dinh
Gia Long.
Lúc 20 giờ 20, một tiểu đoàn có thiết
giáp yểm trợ tấn công Dinh Gia Long. Phe phòng vệ có 17 xe tăng và
khoảng 400 tay súng thiện chiến chống đỡ. Tuy nhiên, hội đồng các tướng
lĩnh đảo chính không muốn đổ máu.
Đến 3 giờ sáng ngày 2.11, một chính phủ
“hỗn hợp” đã được thăm dò, với ông Nguyễn Ngọc Thơ, phó tổng thống của
ông Diệm - nắm ghế thủ tướng. Tân nội các sẽ có mặt nhiều tướng lĩnh...
Ai ra lệnh giết ông
Ngô Đình Diệm?
Thi thể ông Diệm trong
chiếc thiết vận xa M-113 - Ảnh: N.A
Sự kiện anh em ông Ngô Đình Diệm bị hành
quyết trong thùng xe bọc thép là một trong những bí ẩn lớn của lịch sử.
Lúc 6 giờ 20 ngày 2.11.1963, ông Diệm gọi
điện đến Bộ Tổng tham mưu đòi nói chuyện với tướng Đôn. Ông nói là đồng
ý đầu hàng nếu phe đảo chánh cam kết để cho anh em ông rời Việt Nam an
toàn. Tướng Đôn và tướng Khiêm nói với Conein là họ cần một máy bay của
Mỹ để lo việc này. Conein liên lạc ngay với tòa đại sứ, và Trưởng nhánh
CIA Sài Gòn Smith đang ở đó, trả lời rằng, Pháp là quốc gia thích hợp
nhất để cho anh em ông Diệm đến tị nạn. Smith cũng nói là cần 24 giờ mới
có được một máy bay có thể tránh các điểm ngừng dọc đường trong không
trình Sài Gòn - Paris. Conein báo lại cho các tướng lĩnh, kể cả “big”
Minh, vị tướng tỏ vẻ không hài lòng với việc kéo dài thời gian như thế.
Âu cũng là sự trả giá cho “kế hoãn binh” lần trước của ông Diệm khiến
đại tá Thi thất bại.
Lúc này thì ông Diệm đã lệnh cho lực
lượng phòng vệ ngưng bắn. Tướng Minh rời Bộ Tổng tham mưu để tới Dinh
Gia Long. Lúc 8 giờ, một nhân viên CIA báo cáo đã thấy một chiếc quân xa
đậu bên ngoài Dinh Gia Long chờ đợi anh em ông Diệm. Nhưng đến 10 giờ
vẫn không thấy động tĩnh gì. Tổng hành dinh CIA ở Washington yêu cầu
khẩn báo về tình hình của anh em ông Diệm, trong khi tại Sài Gòn, tin
của nhánh CIA ở đó đặt giả thuyết là anh em họ Ngô đã trốn thoát.
Khi tướng Minh đi đến Dinh Gia Long lúc 6
giờ 30 thì Conein trở về tòa đại sứ. Tại đó, ông nhận lệnh phải nhắc nhở
các vị tướng về sự an nguy của hai ông Diệm và Nhu, cũng như đề nghị các
tướng không bắt giữ thủ lĩnh nghiệp đoàn Trần Quốc Bữu. Conein trở lại
Bộ Tổng tham mưu lúc 11 giờ để tìm “big” Minh lúc đó đã từ Dinh Gia Long
trở về. Số phận của anh em họ Ngô đã rõ ràng khi tướng Minh thừa nhận là
cả hai đã chết. Ông Minh báo cho Conein là hai anh em ông Diệm đã tự sát
trong một nhà thờ Thiên Chúa giáo. Conein phản ứng giận dữ, nói là các
ông tướng đã không làm theo “lệnh” của Washington, kể cả việc đã bắt giữ
ông Bữu.
Trưa ngày 2.11, dù vẫn thiếu nhiều dữ
kiện về cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu
theo tuyên bố của “big” Minh, Chi nhánh CIA Sài Gòn báo cáo về Tổng hành
dinh CIA rằng, họ nghĩ là anh em họ Ngô đã chết. Nhưng cho dù anh em ông
Diệm có còn sống hay ở đâu thì một điều đã rõ ràng là chế độ của ông
Diệm đã bị lật đổ. Dân chúng Sài Gòn đã đổ xuống đường phố. Họ tặng hoa
cho binh lính, và đám đông dân chúng đã tụ tập, rồi đốt cháy tan tành
Tổng hành dinh Phong trào Liên đới Phụ nữ của bà Ngô Đình Nhu.
Quá trưa thì tướng “big” Minh, tướng Đôn
và Kim, riêng rẽ từng người báo cho Conein biết xem ông ta có muốn nhìn
thi thể của ông Diệm và ông Nhu không. Conein từ chối, chấp nhận sự thật
là anh em nhà họ Ngô đã chết.
Báo cáo của CIA Sài Gòn được Giám đốc CIA
McCone thông báo trong cuộc họp với Tổng thống Kennedy lúc 16 giờ 30 giờ
Washington, và số phận của anh em ông Diệm vẫn là điều quan tâm lớn nhất
của Chính phủ Mỹ. Vào thời điểm đó, CIA Sài Gòn chỉ có thể báo cáo rằng,
Conein nghĩ là thi thể của ông Diệm và ông Nhu đang đặt ở Bộ Tổng tham
mưu, và Conein tin rằng “big” Minh chính là người ra lệnh hạ sát. Lý do
biện minh cho suy nghĩ của Conein là tướng Minh đã tỏ ra giận dữ khi ông
Diệm từ chối nói chuyện điện thoại với ông khi quân đảo chánh tấn công
vào Dinh Gia Long. Conein cũng lưu ý rằng, tin tức trước đó của “big”
Minh nói anh em ông Diệm tự tử chỉ là để tạo hỏa mù cho việc điều tra số
phận của ông Diệm.
Việc truy tìm thông tin liên quan đến cái
chết của anh em họ Ngô vẫn tiếp tục. Qua ngày 3.11, CIA Sài Gòn có được
tấm ảnh chụp ông Diệm và ông Nhu nằm chết trong xe bọc thép, tay bị trói
thúc ké về phía sau. Những tấm ảnh này là của phóng viên ảnh của quân
đội Sài Gòn. Nhân viên CIA đã nắm được tin tức là anh em ông Diệm bị bắt
ở một nhà thờ trong Chợ Lớn. Hầu hết các thông tin mà nhân viên CIA Sài
Gòn thu lượm được đều đổ cho tướng Dương Văn Minh về quyết định sát hại
anh em họ Ngô. Nhưng vài báo cáo chậm hơn thì đặt nghi vấn lên tướng Mai
Hữu Xuân, thành viên trong nhóm lãnh đạo cuộc đảo chánh và là người từng
làm việc cho tình báo Pháp, cùng một người nữa là viên sĩ quan nhận lệnh
đi bắt ông Diệm. Có một chi tiết mà những báo cáo đều đồng ý là người
thực hiện vụ bắn chết ông Diệm và ông Nhu là viên sĩ quan tên Nhung. Ông
này là cận vệ thân cận của tướng Minh và là người ủng hộ nhiệt tình
tướng Xuân.
Vụ sát hại dã man 2 nhân vật cao cấp nhất
của chính quyền Sài Gòn lúc đó khiến Tổng thống Kennedy bị sốc mạnh. Ông
hạ lệnh cho Giám đốc CIA McCone là hãy lập tức lo bảo vệ sinh mạng cho
những đứa con của ông Nhu cùng bà cố vấn Ngô Đình Nhu, lúc đó đang đi
thăm Âu châu. Tướng Đôn báo cho McCone là ông bảo đảm an toàn cho những
đứa trẻ, nhưng cần Mỹ giúp phương tiện đưa chúng ra hải ngoại. Đại sứ
Cabot Lodge đã phái viên phụ tá là Flott đích thân cùng một y tá, tháp
tùng những đứa con của ông Nhu đi Rome. Tại phi trường Tân Sơn Nhất,
Conein chỉ thị cho viên phi công là trực chỉ Bangkok mà không được nghe
lệnh của một ai khác để thay đổi không trình. Những đứa trẻ đã được giao
tận tay cho Ngô Đình Thục tại Rome.
Lê Đình Bì
* Tổng hợp từ hồ sơ CIA and The House of
Ngo (CIA và Triều đại nhà Ngô) của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét