17/09/2017
Hoài Hương-VOA
Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The
Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim
tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung
tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo
luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương
trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John
McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng
Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
Trong cử tọa ngồi hầu như chật kín cả hội
trường, người ta ghi nhận sự hiện diện của nhiều giới chức trong quân
đội và chính phủ, các cựu chiến binh, lãnh đạo doanh nghiệp, các nhà lập
pháp và nhân viên quốc hội, cũng như truyền thông báo chí. Mở đầu sự
kiện, đạo diễn Ken Burns đã gây hào hứng lập tức khi ông mời các cựu
chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam có mặt trong cử tọa hãy đứng
dậy. Nhiều người đàn ông tóc điểm sương đứng lên. Hội trường òa vỡ với
những tiếng vỗ tay không dứt. Ngay sau đó nhà đạo diễn mời những người
từng tham gia phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam đứng lên,
một số người đã ôm chầm các cựu chiến binh, những người mà họ từng
nguyền rủa và ruồng bỏ trong cao trào phản chiến. Cử tọa lại òa vỡ với
nhiều tràng vỗ tay vang dội.
Đạo diễn Ken Burns tiết lộ rằng khi bắt
đầu cuộc hành trình chông gai để thực hiện dự án này, những người đầu
tiên mà hai đạo diễn tìm đến là Thượng nghị sĩ McCain, và ông Kerry, lúc
đó cũng là một Thượng nghị sĩ.
“Chúng tôi nói chúng tôi cần sự giúp đỡ
của hai ông, nhưng chúng tôi sẽ không phỏng vấn, mặc dù câu chuyện của
hai người được kể lại trong phim, tự nó đã đầy kịch tính. Chúng tôi cho
rằng vì hai ông còn là những nhân vật của công chúng, như ông Kissinger,
như Jane Fonda, Daniel Ellesberg, chúng tôi tránh phỏng vấn họ mà chọn
những người khác. Nhưng tôi tin rằng Lynn và tôi đã không thể hoàn thành
bộ phim này mà không có sự giúp đỡ của hai ông.”
Những clip mà đạo diễn Burns chọn cho
công chiếu để giới thiệu bộ phim thực hiện cùng với đạo diễn Lynn
Novick, nêu bật những sự chia rẽ sâu sắc và tình trạng hoang mang trong
xã hội Mỹ trong và sau cuộc chiến. Những hình ảnh, đoạn phim tài liệu
sống động của thời chiến chen lẫn với các cuộc phỏng vấn thực hiện hồi
gần đây hơn với tất cả những người thuộc mọi bên trong cuộc xung đột,
gợi lại những kinh hoàng trên chiến trường Việt Nam, sự phẫn nộ tột độ
thể hiện trong các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam, về hậu
quả bi thương của cuộc chiến, chiến tranh đầu tiên của người Mỹ không
kết thúc trong chiến thắng. Kết thúc là đoạn clip khá dài về những sự
xúc động mà Đài Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam gợi lên cho mãi tới ngày
hôm nay, phơi bày những vết thương sâu đậm vẫn chưa lành hẳn, gần nửa
thế kỷ sau khi chiến tranh kết thúc.
Nên rút ra bài học nào từ chiến tranh
Việt Nam? Thượng nghị sĩ John McCain:
“Tôi nghĩ đây là thời điểm đúng lúc để kể
lại Chiến tranh Việt Nam, sau một cuộc xung đột, phải có một thời gian
để những cảm xúc dịu bớt, nhường chỗ cho một cái nhìn khách quan hơn, và
như thế chúng ta mới nắm được câu chuyện nó thực sự xảy ra như thế nào.
Tôi tin nó đúng lúc đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới đang xáo
trộn như bây giờ. Có thể chúng ta sẽ nhìn lại cuộc xung đột tại Việt Nam
để bảo đảm chúng ta không lặp lại những sai lầm đã phạm trong cuộc chiến
đó. Bài học rút ra là, chúng ta phải đảm bảo các nhà lãnh đạo quân sự và
dân sự phải thành thực với công chúng, và tránh thi hành lệnh nhập ngũ
chỉ nhắm vào các thành phần có thu nhập thấp.”
Ông McCain, cựu tù binh chiến tranh từng
bị giam cầm ở nhà tù Hỏa Lò, tiết lộ ông thường xuyên tới thăm Đài Tưởng
niệm Chiến tranh Việt Nam, nơi ghi khắc tên tuổi của 58,000 binh sĩ Mỹ
đã nằm xuống trên chiến trường Việt Nam. Ông cho biết là thường đến vào
sáng sớm hoặc giấc chiều tối, chỉ để bắt tay và trò chuyện với những cựu
chiến binh và tưởng nhớ các đồng đội đã ra đi.
“Những người trẻ tuổi này phải hy sinh
mạng sống bởi vì lãnh đạo thiếu tài năng và bị hủ hóa - Chúng ta cần các
nhà lãnh đạo có khả năng lãnh đạo, giúp vạch ra một lộ trình dẫn tới
chiến thắng để chúng ta không bao giờ còn phải hy sinh tính mạng của các
quân nhân vào một cuộc chiến không có lối thoát.”
Cựu Ngoại Trưởng John Kerry, một chiến
binh từng được trao nhiều huân chương, kể cả Chiến Thương Bội Tinh, thì
nêu bật tầm quan trọng của các nỗ lực ngoại giao.
“Bài học mà chúng ta rút ra thật đáng
giá. Chúng ta phải biết chúng ta đang làm gì, phải thành thực với dân
chúng, chiến tranh phải là giải pháp cuối cùng sau khi đã khai thác
triệt để giải pháp ngoại giao. Tất cả những điều đó đều đúng cho chiến
tranh Việt Nam và đúng cho tất cả mọi sự lựa chọn mà bây giờ chúng ta
đang đối mặt.”
Ông Kerry nói nếu có một điều gì có thể
giúp hàn gắn những sự chia rẽ trong xã hội Mỹ, khiến những người theo
phong trào phản chiến có thể ôm lấy các cựu chiến binh đã cầm súng chiến
đấu tại Việt Nam, thì đó là phim tài liệu Chiến tranh Việt Nam của Ken
Burns và Lynn Novick.
Hoài Hương tường trình về buổi công chiếu
"The Vietnam War"
Một cựu chiến binh cũng từng được trao
Chiến thương Bội tinh như ông Kerry, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck
Hagel ca ngợi những nỗ lực của ông McCain và Kerry trong việc bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ông nói phim The Vietnam War sẽ có ảnh
hưởng sâu rộng không những ở Hoa Kỳ mà còn ở cả Việt Nam.
“Tôi chưa xem hết phim, nhưng đã xem khá
nhiều. Tôi tin rằng nó đại diện cho và sẽ tiếp tục có ảnh hưởng đáng kể
tới xã hội của chúng ta và cả Việt Nam nữa. Bộ phim này là bộ phim hấp
dẫn, có tính thuyết phục nhất, đầy đủ nhất, trung thực nhất khi kể lại
câu chuyện về chiến tranh Việt Nam.”
Ông Hagel nói tuy xem phim khơi lại những
vết thương cũ, nhưng là điều có ích, nhất là cho các thế hệ lãnh đạo
tương lai của nước Mỹ.
“Vâng, xem phim rất là đau lòng, nhưng
rất quan trọng cho các thế hệ lãnh đạo kế tiếp của Mỹ phải hiểu được
những hậu quả của chiến tranh và những hậu quả của các quyết định của
chúng ta. Có thể chúng ta không bảo đảm được là tất cả các quyết định
đều đúng nhưng bộ phim này sẽ mang lại cho chúng ta một kích thước
khác.”
View image on Twitter
View image on Twitter
Follow
Ken Burns
✔@KenBurns
I've always admired the #NYC streetscape.
#VietnamStoriesPBS @PBS @ThirteenWNET
10:12 PM - Sep 14, 2017
6 6 Replies 26 26 Retweets 113 113
likes
Twitter Ads info and privacy
Một chi tiết có lẽ sẽ gây rất nhiều chú ý
đối với khán giả Việt Nam là biến cố Tết Mậu Thân năm 1968, khi nhiều
thường dân bị cộng sản Bắc Việt thảm sát, có người bị chôn sống, đã được
nhắc đến trong phim. Đây có lẽ là phim tài liệu có tầm cỡ đầu tiên của
Mỹ nhắc đến vụ thảm sát ở Huế.
Bà Duong Vân Mai Elliott, tác giả cuốn
“The Sacred Willow” về 4 thế hệ của một gia đình Việt Nam, được các nhà
làm phim yêu cầu cộng tác và xuất hiện nhiều lần trong phim. Bà có gia
đình ở cả hai bên chiến tuyến, nói bà kinh ngạc khi thấy đạo diễn Ken
Burns nhắc đến biến cố Tết Mậu Thân.
“Tôi xem tôi rất là sửng sốt, tôi cũng
nói với ông (đạo diễn Burns) đây là lần đầu tiên mà một người ngoài Bắc
đã tham chiến, công nhận vụ thảm sát ở Huế xảy ra năm Mậu Thân 1968. Tôi
rất là ngạc nhiên. Nếu mà ông ấy phỏng vấn như thế này cách đây mười mấy
năm thì chưa chắc họ đã dám nói như vậy, nhưng mà lúc ông phỏng vấn thì
tôi thấy họ nói trung thực lắm.”
Thẩm phán Phan Quang Tuệ, từng phục vụ
tại Tòa án Di trú San Francisco nay đã về hưu, cũng xuất hiện trong
phim. Ông nhận xét:
“Nhìn qua những bộ phim đã có, tôi thấy
không có phim nào có thể trung thực hơn, và tôi không nghĩ là tương lai
sẽ có một cuộn phim nào khác nữa vì cho tới khi phim này ra thì đã 42
năm sau cuộc chiến. Hai, ba thế hệ đã lớn lên, cuộn phim này ghi lại
trung thực lịch sử, không phải của cuộc chiến mà qua cái lịch sử cuộc
chiến đó, lịch sử Việt Nam, Nam cũng như Bắc. Tôi thấy điều cần làm là
phải phổ biến rộng rãi phim này ở Việt Nam.”
Chiến tranh Việt Nam, hơn 4 thập niên
sau, vẫn là một chủ đề hóc búa cho một phim tài liệu, và chắc chắn trong
những ngày tới, “The Vietnam War” sẽ còn gây rất nhiều tranh cãi tại Hoa
Kỳ, tại Việt Nam và trong các cộng đồng người Việt hải ngoại khắp nơi.
Phim tài liệu 10 tập “The Vietnam War”
của đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick sẽ lần lượt được công chiếu trên
đài PBS, bắt đầu từ ngày Chủ nhật 17 tháng 9.
Nguyên Ngọc: “Người Việt cũng cần xét
lại cuộc chiến Việt Nam”
25/09/2017
Thanh Phương
25-9-2017
Mời nghe phần âm thanh phỏng vấn:
Audio Player
00:0000:00Use Up/Down Arrow keys to
increase or decrease volume.
Là một trong những người có mặt trong bộ
phim tài liệu nhiều tập “ The Vietnam War” về chiến tranh Việt Nam của
đạo diễn Ken Burns, nhà văn Nguyên Ngọc, nguyên là một sĩ quan trong
quân đội miền Bắc, cho rằng Việt Nam cũng nên làm như Mỹ, tức là phải
nhìn lại quá khứ, xét lại một cuộc chiến tranh mà theo ông đã dần dần
trở thành một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn do khác biệt ý thức hệ.
RFI: Thưa nhà văn Nguyên Ngọc, khi xem
lại toàn bộ phim “ The Vietnam War”, ông có những nhận xét như thế nào
về cách thực hiện bộ phim này?
Nhà văn Nguyên Ngọc: Theo tôi, đây là một
phim lớn và rất quan trọng về chiến tranh Việt Nam. Trước đây đã có
nhiều phim về chiến tranh Việt Nam, kể cả hư cấu và phim tài liệu, nhưng
đây là phim lớn nhất, dài đến 10 tập và 18 giờ. Đáng nói hơn nữa, đây là
một phim rất quan trọng. Sau hơn 40 năm, phim này cho thấy nước Mỹ vẫn
chưa ra khỏi cái ảm ảnh của cuộc chiến tranh đó.
Khi nói rằng nước Mỹ chưa ra khỏi chiến
tranh Việt Nam, nhiều người, kể cả tôi, đã nghĩ rằng đó là một điểm yếu
của nước Mỹ. Nhưng xem phim này thì tôi thấy hóa ra đó là cái mạnh của
nước Mỹ. Đấy là một quốc gia luôn luôn nhìn trở lại và đặt câu hỏi về
quá khứ, về cuộc chiến tranh của mình, về những gì mình đã làm trong
suốt cuộc chiến tranh đó. Sức mạnh của nước Mỹ chính là luôn luôn biết
tự đặt câu hỏi về quá khứ của mình.
RFI: Thưa nhà văn Nguyên Ngọc, cho tới
nay, về phía Việt Nam, chiến tranh Việt Nam vẫn được mô tả như là chiến
tranh chống Mỹ cứu nước. Nhưng nay nhìn lại thì ông có thấy cần đặt lại
vấn đề về định nghĩa cuộc chiến tranh này hay không?
Nhà văn Nguyên Ngọc: Chính là tôi muốn
nói về điều đó. Phim này gợi ý rất nhiều điều cho chúng ta. Vì sao mình
làm cuộc chiến tranh đó, mình đã làm nó như thế nào, nó để lại những gì
cho mình? Những điều đó không được đặt mạnh, đặt một cách đầy đủ.
Đã hơn 40 năm rồi, khi mà nói về chiến
tranh này, bởi vì Việt Nam là người thắng cuộc, nên người ta thường nói
theo chiều hướng khẳng định và ca ngợi nó. Còn cuộc chiến tranh đó đem
lại những gì cho đất nước này, kể cả mặt tốt và mặt tàn phá của nó, tàn
phá cả về vật chất lẫn tinh thần, thì chưa bao giờ được đặt ra một cách
nghiêm túc.
Riêng tôi là một người làm nghệ thuật,
tôi ao ước Việt Nam có thể có một bộ phim tài liệu theo kiểu như vậy.
Giá như Việt Nam cũng tự hỏi mình như thế. Theo tôi đó là điều cần
thiết.
RFI: Thưa ông Nguyên Ngọc, một trong
những điều cần phải được đặt lại đó thiệt hại quá lớn về nhân mạng về
phía Việt Nam để đổi lấy chiến thắng đó? Có nên đặt lại vấn đề là lẽ ra
chúng ta có thể chọn cách khác để đạt được mục tiêu thống nhất và hòa
bình mà không cần phải đổ máu nhiều như vậy?
Nhà văn Nguyên Ngọc: Để trả lời câu hỏi
đó thì tôi xin nói vì sao tôi đã đến với phim này. Người rủ tôi đến với
phim này là một người bạn Mỹ Thomas Vallely. Tôi với Vallely có một cái
duyên rất kỳ lạ: Hồi sau Mậu Thân, khoảng 1970-1971, tôi hoạt động ở
vùng bắc Quảng Nam, trên bờ sông Thu Bồn. Thời kỳ đó vô cùng ác liệt và
cả bờ sông đều trắng hết, không còn màu xanh trên mặt đất. Bãi sông Thu
Bồn trước đây là một bãi dâu xanh ngắt, thì bây giờ trên đó có mọc lên
một loại cây rất lạ, gọi là cây bói, giống như lau sậy. Chúng tôi đào
hầm bí mật trong những bãi bói đó.
Sau này, Vallely mới kể rằng chính ông là
thủy quân lục chiến đã hoạt động ngay tại khu vực đó. Hàng ngày ông vẫn
bắn vào bãi bói vì nghi chúng tôi núp trong bãi bói đó. Có hôm chúng tôi
cũng bắn lại. Có lần tôi nói với Vellely rằng: “ May là ông bắn cũng
xoàng và tôi thì cũng bắn xoàng!”
Chúng tôi gặp lại nhau và trở nên thân
thiết với nhau là vì hai điều. Thứ nhất là chúng tôi gặp nhau trong giáo
dục: Vallely là người đã giúp rất nhiều cho giáo dục Việt Nam. Thứ hai
là chúng tôi đều hết sức ngưỡng mộ Phan Châu Trinh. Tôi nhắc đến chuyện
đó để mà nói như thế này: Phan Châu Trinh đã từng nghĩ đến một con đường
khác, mà nếu làm được thì chúng ta đã có thể đạt những điều mà chúng ta
tha thiết mong muốn và có thể tránh được hai cuộc chiến tranh bi thảm và
tàn phá ghê gớm như thế. Vallely cũng rất ngưỡng mộ Phan Châu Trinh
trong ý tưởng đó. Cho nên chính ông đã rủ tôi đến nhóm làm phim của Ken
Burns và Lynn Novick.
RFI: Phim nói về nhiều giai đoạn của cuộc
chiến, trong đó có một sự kiện mà cho tới nay ở Việt Nam không ai nói
đến, đó là vụ thảm sát ở Huế 1968, mà bản thân ông có nhắc đến trong
phim. Theo ông biết thì vì sao lại có vụ đó?
Nhà văn Nguyên Ngọc: Trong chiến dịch Mậu
Thân 1968 thì Huế là thành phố mà đánh vào được và chiếm lâu nhất. Do
chiếm lâu nhất và tưởng là giải phóng hẳn rồi và đã lập chính quyền, cho
nên các cơ sở bí mật trong thành phố đều xuất hiện hết, bộc lộ ra hết.
Sau đó, lực lượng chiếm thành phố bị đối
phương vây trở lại và phải mở đường máu mà ra. Trước đó, khi vào chiếm
Huế, người ta đã bắt những người bị cho là cộng tác với Mỹ, với chính
quyền miền Nam. Trong số đó có thể có những người đúng là có làm cho Mỹ
và chính quyền miền Nam, và cũng có thể có những người phạm những tội ác
với những cơ cơ sở hoặc là những người theo cách mạng ở Huế. Nhưng cũng
có thể có những người bị bắt nhầm và thậm chí cũng có thể có những người
bị bắt chỉ vì thù hằn riêng tư.
Cho đến khi bí quá, rút ra không được,
nếu thả những người này ra thì tất cả những cơ sở bí mật được chuẩn bị
bao nhiêu năm, bây giờ bộc lộ ra hết, nếu thả những người bị bắt ra thì
họ sẽ chỉ điểm số người hoạt động bí mật.
Trong tình thế như vậy, người ta đã có
chủ trương giết những người đó. Tôi không trực tiếp ở đấy và cũng không
biết cái lệnh đó là từ ai. Nhưng trong phim tôi có nói, đấy là một vết
nhơ, một vết đen trong cuộc chiến tranh, về phía Việt Nam.
Trong phim không chỉ có chuyện đó, mà còn
có những vụ như những vụ thanh trừng từ sau Cách mạng tháng Tám. Theo
tôi, phim đã nói chính xác, nói đúng, nói khách quan, công bằng về những
điều đó, kể cả về phía Việt Nam, kể cả phía Mỹ và phía chính quyền miền
Nam. Đấy cũng là một cái quý của phim này và điều đó làm chúng tôi phải
nghĩ lại. Chúng tôi đã đi một con đường như thế nào mà để dẫn đến những
hành động như thế, những vết đen như thế.
RFI: Chiến tranh đã chấm dứt từ lâu, Việt
Nam và Mỹ đã hòa giải với nhau, vì sao giữa người Việt Nam vẫn chưa có
hòa giải?
Nhà văn Nguyên Ngọc: Trong phim, Bảo Ninh
có nói một ý, mà theo tôi ở Việt Nam bây giờ người ta cũng nghĩ như vậy.
Cuộc chiến tranh Pháp rồi chiến tranh Mỹ vừa có tính chất chống xâm
lược, vừa có tính chất giải phóng dân tộc, nhưng cũng có tính chất nội
chiến. Và càng về sau thì tính chất nội chiến càng sâu đậm hơn. Một cuộc
tàn sát nhau, huynh đệ tương tàn vì ý thức hệ. Đó là một sự thật. Bảo
Ninh đã nói điều đó và ở Việt Nam bây giờ có người đã nói ra, có người
chưa nói ra, nhưng ai cũng thấy điều đó.
Ông Lê Xuân Khoa gọi cuộc chiến tranh
Việt Nam là cuộc chiến tranh mang tính chất ủy nhiệm, chiến tranh mang
tính ý thức hệ. Chính cái đó nó đã phá nát xã hội Việt Nam. Trong phim,
tôi có nói rằng cuộc chiến tranh này đã chia rẽ dân tộc một cách kinh
khủng. Chưa bao giờ dân tộc Việt Nam bị chia rẽ như bây giờ. Cái tính
chất ý thức hệ của cuộc chiến tranh làm cho xã hội Việt Nam bị xé nát,
hậu quả đó đến bây giờ vẫn còn?
RFI: Sự chia rẽ đó phải chăng một phần
xuất phát từ thời gian sau 1975, khi miền Bắc chiến thắng miền Nam thì
họ đã đưa nhiều quân nhân, công chức chế độ cũ đi học tập cải tạo, và đã
có những chính sách, những hành động khiến cho rất nhiều người đã vượt
biên, bỏ nước ra đi và nhiều người đã bỏ mạng?
Nhà văn Nguyên Ngọc: Sự chia rẽ đó chính
là hậu quả của tính chất nội chiến càng ngày càng đậm của cuộc chiến
tranh. Lẽ ra là sau năm 75 anh phải hiểu ra điều đó để mà quay trở lại.
Anh đã lỡ đi qua con đường đã chọn, con đường dẫn đến một cuộc nội chiến
như thế. Nhưng sau năm 1975, không những anh đã không sửa chữa những
điều đó, đã không tỉnh táo để chủ động hòa giải, mà một loạt những chính
sách đã khiến sự chia rẽ thêm sâu sắc, làm cho tình hình thêm tệ hại.
Thấy gì từ tập đầu phim The Vietnam War?
Peter Zinoman
Giáo sư Lịch sử và Đông Nam Á Học, Đại
học California ở Berkeley
19 tháng 9 2017
Phim 'The Vietnam War' (Cuộc chiến Việt
Nam) - hình do đoàn làm phim cung cấp
Vietnam War (Chiến
tranh Việt Nam) khác tất cả các phim tài liệu mà Ken Burns/Lynn Novicks
đã làm xưa nay. Các bộ phim đó đều kể về một câu chuyện đặc trưng và rõ
ràng với quan điểm "nước Mỹ trên hết." Ngoài người Mỹ ra thì còn ai có
thể là diễn viên chính trong các bộ phim trước đây của Burns/Novick,
chẳng hạn như The Brooklyn Bridge (Cây cầu Brooklyn), The Statue of
Liberty (Tượng thần Tự do), The Civil War (Nội chiến), Baseball (Bóng
chày), The West (Miền Tây), Thomas Jefferson, Lewis and Clark (Lewis và
Clark), Jazz (nhạc Jazz), Mark Twain, Prohibition (Luật cấm đồ cồn) and
The Dust Bowl (Một vùng cát bụi).
Nhưng với cuộc chiến ở Việt Nam, chúng ta
có thể biện luận rằng người Việt xứng đáng đóng vai chính trong câu
chuyện. Xét cho cùng, từ 1 đến 3 triệu người Việt đã bỏ mạng trong chiến
tranh, lớn hơn rất nhiều (gấp từ 20 đến 60 lần) con số khoảng 58.000
người Mỹ chết trong cuộc xung đột.
Một cựu binh Mỹ lau rửa bức tường Tưởng
niệm Cuộc chiến Việt Nam ở Venice Beach, California hồi 2016
Những thiệt hại kinh khủng cả về vật chất
và môi trường do bom đạn, chất khai quang, chiến tranh ở các vùng đô
thị, chiến tranh du kích và chống du kích ở vùng nông thôn đã ảnh hưởng
trầm trọng đến riêng vùng lãnh thổ Đông Nam Á, cũng như vấn nạn khổng lồ
của tình trạng người dân trong nước buộc phải tản cư, di cư.
Hệ quả của cuộc chiến đối với người Việt
lớn hơn so với người Mỹ cũng được thể hiện rõ qua khoảng thời gian trung
bình mà mỗi bên phải trải nghiệm. Trong khi phần lớn người Mỹ tham chiến
ở Việt Nam khoảng trên dưới 1 năm trong giai đoạn giữa 1965 và 1973, thì
người Việt sinh ra sau Thế chiến thứ Hai phải sống trong thời chiến suốt
ba mươi năm ròng rã từ 1945 đến 1975.
Xét sự nổi trội cả về con số người Việt
lẫn tầm mức thiệt hại không thể sánh được mà họ là nạn nhân, việc đặt
người Việt vào vai trò trung tâm trong thời đoạn lịch sử đen tối này, ít
ra, cũng phải là một mệnh lệnh đạo đức khiêm tốn.
Hàng triệu người Việt Nam đã bỏ mạng
trong chiến tranh
'Dĩ Mỹ vi trung'
Thế nhưng, ý đồ lấy Mỹ làm trọng tâm
không hề giấu giếm trong Vietnam War được thể hiện rõ ngay trong 3 cảnh
mở màn giới thiệu phần 1 của bộ phim tài liệu 10 tập này. Cảnh đầu tiên
tả những người lính Mỹ tham chiến, cảnh thứ hai cho thấy một cuộc diễu
binh của quân đội Mỹ, và cảnh thứ ba là lời bình luận của cựu chiến binh
Mỹ Karl Marlantes. Bài hát Hard Rain của Bob Dylan làm nền nhạc kết thúc
phần một càng báo hiệu rõ hơn nữa xu hướng "dĩ Mỹ vi trung" làm điểm
tham chiếu. Mặc dù trong tập đầu, số lượng nhân vật người Việt và người
Mỹ phát biểu tương đương nhau, nhưng trọng tâm tự sự vẫn nghiêng về
những câu chuyện thứ yếu của người Mỹ với tầm quan trọng lịch sử đáng
ngờ.
Chẳng hạn, việc Hồ Chí Minh được cho là
ngưỡng mộ Hoa Kỳ, thể hiện qua bằng chứng ông hợp tác với nhân viên tình
báo Mỹ trong Cục Tình báo Chiến lược (OSS) và việc ông dẫn Thomas
Jefferson trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Trong lịch sử chính
thống về cuộc chiến, những tình tiết quá quen thuộc này được sử dụng để
nhấn mạnh số phận éo le đầy kịch tính khiến Mỹ và Hồ Chí Minh "bỏ lỡ cơ
hội" kết bạn với nhau. Nhưng các nghiên cứu học thuật từ lâu nay đã cho
thấy tinh thần chống Mỹ mạnh mẽ trong các bài báo của Hồ Chí Minh ngay
từ thập niên 1920, bao gồm cả những bài viết đầy phẫn nộ về việc hành
quyết người da màu và về đảng 3K (Ku Klux Klan).
Hình chụp Chủ tịch Hồ
Chí Minh phát biểu tại Đại hội Đảng lao động Việt Nam năm 1953
Gần đây hơn, nhà nghiên cứu khoa học
chính trị Vũ Hữu Tường dẫn lại một loạt các bài báo chống Mỹ tương tự do
Hồ Chí Minh viết trong khoảng từ năm 1951-1956. Là một thành viên của
quốc tế cộng sản Đệ tam, đồng thời là một sáng lập viên của Đảng Cộng
sản Pháp trung thành với Stalin và kịch liệt chống Mỹ, ít có khả năng là
Hồ Chí Minh thực lòng mong muốn nhận được sự trợ giúp của Mỹ như tập đầu
của bộ phim gợi ý. Thay vào đó, những đợt tương tác của Hồ Chí Minh với
người Mỹ (bao gồm cả thư gửi cho các tổng thống và các buổi trà đàm với
nhân viên tình báo Mỹ) nhiều khả năng là do sự nhận biết mang tính thực
dụng của ông về tiềm năng sức mạnh Hoa Kỳ và về nhu cầu trung lập hóa
sức mạnh ấy qua liên lạc trực tiếp.
Quan điểm "dĩ Mỹ vi trung" trong tập đầu
tiên của bộ Chiến tranh Việt Nam cũng được thể hiện rõ qua cách tái hiện
câu chuyện từ phía Việt Nam quá giản đơn. Tập đầu vẽ lại lịch sử hiện
đại Việt Nam như một bức biếm họa, trong đó ách áp bức của thực dân Pháp
chỉ bị thách thức bởi sự xuất hiện của Hồ Chí Minh, nhân vật có tinh
thần quốc gia duy nhất trong thời thuộc địa được đề cập đến trong tự sự.
Thiếu vắng trong tường thuật này là vô số
các lực lượng đối lập với Hồ Chí Minh trong phong trào chống thực dân
rộng lớn hơn, bao gồm các phe quốc gia, phe lập hiến, phe Trotskyists,
phe cộng hòa, phe bảo hoàng, phe phát xít và phe tân truyền thống. Đối
với nhiều học giả, cuộc xung đột đẫm máu giữa phe cộng sản do Hồ Chí
Minh lãnh đạo và các lực lượng chống cộng khác trong cả cuộc chiến tranh
Đông Dương lần thứ Nhất (1946-1954) và lần thứ Hai (1954-1975) chỉ có
thể hiểu được trong bối cảnh tiếp nối của xung đột chính trị từ cuối
thời thuộc địa. Thiếu vắng khía cạnh này của câu chuyện, sự hình thành
chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền nam, lực lượng chống đối Hồ Chí
Minh quan trọng nhất thời hậu thuộc địa, có vẻ chỉ là sản phẩm độc quyền
của Mỹ trong cuộc kiếm tìm đồng minh thời Chiến tranh Lạnh, chứ không
phải là một tinh thần chủ nghĩa quốc gia chống cộng bản địa với gốc rễ
lịch sử có từ thời thuộc địa.
Hình chụp vua Bảo Đại (không rõ ngày) tại Hà Nội. Ông thoái vị tháng
8/1945 và sang sống ở Pháp từ năm 1955.
Một bức tranh bị bóp méo tương tự cũng
xuất hiện trong tập đầu là việc không đề cập đến vua Bảo Đại. Sự lãnh
đạo của ông với Quốc gia Việt Nam do Pháp hậu thuẫn năm 1950 đã nhận
được sự ủng hộ của nhiều người Việt chống cộng, những người tiếp tục
chống lại sự bá quyền của cộng sản sau năm 1954.
Hướng tiếp cận "dĩ Mỹ vi trung" trong
Chiến tranh Việt Nam cũng được thể hiện qua cách phim mô tả Ngô Đình
Diệm. So với Hồ Chí Minh, người được mô tả trong tập đầu, ít nhất là một
phần nào đó, qua cách nhìn của người Việt, Ngô Đình Diệm chỉ được giới
thiệu qua lời của giới chức Mỹ (ông "kiêu căng" và "ngạo mạn," một "đấng
cứu thế không có thông điệp"). Mặc dù ông cầm quyền suốt gần 10 năm
trong những hoàn cảnh vô cùng bấp bênh, tập phim đầu thể hiện rất ít sự
quan tâm tới việc người dân Việt ở miền nam Việt Nam nghĩ gì về ông.
Ông Ngô Đình Diệm
phát biểu trong ngày thành lập Việt Nam Cộng hòa ngày 10/10/1955.
Quan điểm "dĩ Mỹ vi trung" trong Chiến
tranh Việt Nam và lý giải hời hợt về lịch sử Việt Nam đã bị nhiều cây
bút có tầm ảnh hưởng lớn trên facebook tiếng Việt, diễn đàn công không
bị kiểm soát quan trọng nhất ở Việt Nam, phê bình. Blogger nổi tiếng
Nguyễn Quang Lập hiện sống ở Thành phố Hồ Chí Minh viết, "Còn nội dung
thì phim này chỉ thuần tuý thông sử, không có gì mới. Phần về phía Mỹ
cảm động, sâu, đa diện- 8/10. Phần về phía Việt Nam quá hời hợt và phiến
diện, may ra được 4/10. Đạo diễn phim tài liệu số 1 nước Mỹ làm phim này
trong 10 năm mà chỉ có thế thì chưa đạt yêu cầu."
Phim tài liệu The Vietnam War:
Cuộc thảm bại tái diễn
24/09/2017
Giao Chỉ San Jose
Trong công việc sưu tầm tài liệu cho Việt
Museum, chúng tôi phải xem và đọc biết bao nhiêu tài liệu, đặc biệt phim
về chiến tranh Việt Nam. Hết sức đau lòng. Xem bộ phim Vietnam War mới
đây lại thêm đau lòng. Vẫn hiểu rằng đây là phim của người Mỹ làm cho
khán giả Mỹ. Không phải dành cho người Mỹ gốc Việt. Tôi viết bài nhận
xét sau đây, đã phổ biến nhưng phần lớn không đến tay các bạn. Xin gửi
lại thêm một lần nữa. Nếu nhận được xin vui lòng cho biết. Cảm ơn.
-
Tin tức thời sự chính trị nước Mỹ vẫn
tràn ngập trên diễn đàn truyền thông. Thiên tai vừa trải qua với cuồng
phong và mưa bão tại miền Đông Nam Hoa Kỳ rồi tiếp đến động đất Mễ Tây
Cơ. Bộ phim 10 tập 18 giờ do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick
bỏra mười năm với 30 triệu mỹ kim mới hoàn tất vẫn làm xôn xao dưluận.
Phần lớn các nhà bình luận, các chính khách và nhân vật cộng đồng Hoa Kỳ
đều hết lòng khen ngợi. Riêng phần chúng tôi có nhận định khác biệt. Là
quân nhân của phe bại trận với niềm đau thương gặm nhấm suốt cuộc đời.
Mất nước là mất tất cả. Một lần bại trận và phải đào thoát ngay trên quê
hương. Từ đó thấy lại biết bao lần thảm bại tái diễn trên phim ảnh, làm
sao mà vui mừng khi nhìn lại vết thương. Sau 42 năm phe tự do thua trận,
với bộ phim công phu phổ biến năm nay, cuộc thảm bại trên chiến trường
Việt Nam lại một lần nữa tái diễn. Xin có đôi lời đóng góp ý kiến như
sau.
1) Vẫn hình ảnh đau
thương cũ:
Các nhà làm phim mới đã soạn lại tài liệu
cũ. Thêm tài liệu sưu tầm trong thập niên qua. Cắt ráp và bình luận công
phu, nhạc đệm xuất sắc. Phỏng vấn khoảng 100 người trong đó có chừng 30
nhân vật từ cả hai phía quốc cộng Nam Bắc Việt Nam. Đặc biệt có những
hình ảnh và lời bình luận khen chê cả hai bên. Lần đầu tiên có đề cập
đến vai trò của chiến binh Việt Nam Cộng Hòa cũng như vụ Việt cộng thảm
sát Mậu Thân. Nhưng sau cùng khán giả của thế hệ hôm nay thuộc thế kỷ21
đều thấy rằng những nhà làm phim đã gián tiếp xác định sựchiến thắng của
Cộng sản Việt Nam là hữu lý và tất yếu. Hình ảnh sau cùng vẫn là một dân
tộc chống ngoại xâm và thống nhất đất nước. Dù hy sinh bao nhiêu họ cũng
vẫn khoác danh hiệu chống Pháp xâm lược, chiến thắng trận Điện Biên thần
thánh. Dủ chết thêm bao nhiêu cũng giữ được hào quang đánh Mỹ giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Bốn mươi năm sau chiến tranh, Hoa Kỳ vẫn
còn vẳng nghe tiếng hô vang của hàng triệu thành viên phản chiến. Thế hệ
Hoa Kỳ ngày nay làm sao hiểu được những khúc mắc phức tạp của cuộc chiến
tranh Quốc Cộng. Trong lãnh vực truyền thông, hình ảnh sống động vẫn có
khả năng thuyết phục hơn cảngàn lời nói. Một bên là chiến binh đồng minh
dù là lính Pháp, lính Mỹ hay chiến binh miền Nam mặc quân phục, trang bị
đầy đủ được yểm trợ bằng phi pháo hùng mạnh. Phía bên địch toàn là hình
ảnh nữ dân quân, vũ khí thô sơ, chân dép áo nâu quyết tâm chiến đấu. Phe
ta thua trên từng thước phim. Hình ảnh hàng ngũ lãnh đạo miền Bắc. Ốm
yếu khắc khổ, cuộc sống thanh đạm và ý chí chiến đấu mãnh liệt. Tất cả
đều đã vào tù ra khám. Trong khi đó phe ta là hình ánh quan lại, xiêm áo
lịch sự, xa cách quần chúng, không chứng tỏ được tinh thần hy sinh cho
dân và quyết tâm bảo vệ đất nước. Hình ảnh vị tướng VNCH đích thân lạnh
lùng xử bắn tù binh trước ống kính của báo chí quốc tế, hình em bé trần
truồng chạy bom. Những bức hình đã mang danh hiệu biểu tượng đau thương
của cả thế kỷ. Và rất nhiều hình ảnh sẵn có phô diễn những sai lầm dã
man của phe ta mà không có chứng tích tội ác của đối phương. Không thể
nào có đủ lời lẽđể giải thích nguồn cơn. Dù 40 năm trước hay bốn mươi
năm sau, một lần nữa chúng ta thua trận trên từng thước phim.
2) Không thể tranh luận được với sự
thành công.
Chúng ta phải chấp nhận rằng phe cộng sản
đã chiến thắng phe tự do trong cuộc chiến Việt Nam. Hoa Kỳ từ tổng thống
Johnson thực sự đã từng quyết tâm chiến thắng. Sau vụ hỏa mù trên Vịnh
Bắc Việt, quốc hội Hoa Kỳ đã biểu quyết đồng thuận cho tổng thống toàn
quyền. Nhưng sau cùng ý chí của chính phủ Mỹ thua ý chí của phe cộng
sản. Nga, Tàu và Việt cộng không hề nao núng. Phong trào phản chiến đánh
gục ý chí của chính phủ Hoa Kỳ. Mỹ thua trận ngay từ trong lòng dân
chúng quốc nội.. Tiếp theo chính thức thua trận trên giấy tờ ký hiệp
định Paris 1973. Sau cũng là cuộc bỏ chạy cùng Việt Nam Cộng Hòa trên
nóc tòa đại sứ. Trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã thua hết sức cay
đắng, nhưng vẫn còn vượt qua được vì đây chỉ là một chiến dịch trong
chiều dài của lịch sử Hoa kỳ. Đối với Mỹ, Việt Nam chỉ là một mặt trận.
Một cuộc chiến. Thế giới Tự do thua trong một cuộc chiến nhưng 20 năm
sau đã toàn thắng khi liên bang Sô viết xụp đổ tại Nga. Với Nam Việt Nam
năm 1972 thắng trận Bình Long, Kon Tum và lấy lại được Quảng Trị. Nhưng
thua trận 75 là mất tất cả. Dù sau này một lần hay là 10 lần cờ đỏ phải
hạ xuống ở điện Cẩm Linh thì Việt Nam Cộng Hoà cũng đã mất tất cả. Bao
nhiêu sự hy sinh trong 21 năm chiến đấu và xây dựng 2 nền cộng hòa của
miền Nam đều đổ ra sông ra biển.
3) Vì đâu nên nỗi:
Phía Hoa Kỳ sai lầm hẳn đã học được bài
học chiến tranh Việt Nam. Dù trở thành cơn ác mộng nhưng người Mỹvẫn còn
sống. Nam Việt Nam thì hoàn toàn đã chết qua sự sai lầm trong chiến
tranh. Đối với miền Nam Việt Nam thì việc thất trận là một thảm kịch vô
cùng đau thương, không có điều gì có thể bào chữa ngoài lý do duy nhất
là lỗi ở chính chúng ta. Kết quả mất nước là mất tất cả. Lỗi lầm không
phải tại đồng minh không quyết tâm, cũng không phải bởi kẻ thù quá mạnh.
Lỗi lầm là lãnh đạo ta không đủ sức vượt qua những khó khăn lớn lao và
toàn dân không được vận động để quyết tâm tham chiến. Trong cuộc chiến 2
thập niên, trong khi miền Bắc vận dụng toàn dân tấn công thì miền Nam
chỉ xử dụng được một phần rất nhỏ để tự vệ. Lãnh đạo lè phè và dân chúng
thờ ơ. Tất cả tùy thuộc vào Hoa Kỳ. Mỹ trực tiếp tham chiến đã cứu Việt
Nam nhưng đồng thời cũng làm mất Việt Nam.Việt Nam mất khả năng tự chủ.
Không dùng hết khả năng vào công việc phòng thủ. Không vận động được dư
luận thế giới và đồng minh. Bị đồng minh Hoa Kỳ và thế giới bỏ rơi và
chính nhân dân miền Nam cũng bỏ rơi cuộc chiến. Cho đến khi cả chính
quyền và nhân dân miền Nam mất nước mới biết là mất tất cả.
4) Những cuộc chiến sau chiến tranh.
Khi miền Bắc chiếm được miền Nam, hàng
trăm ngàn chiến binh bị tù đầy, hàng triệu người miền Nam trở thành dân
"Ngụy." Lúc đó mới bừng tỉnh và tham dự vào hai cuộc chiến sau chiến
tranh. Cuộc chiến trong tủ đầy chiến đấu để tồn tại, và không bị khuất
phục. Cuộc chiến của người dân bên ngoài tiếp tục chịu đựng phấn đấu
đểnuôi tù và toàn dân tìm đường vượt thoát. Trong chiến tranh, hàng trăm
ngàn chiến binh cộng sản đã được miền Nam Chiêu Hồi. Sau cuộc chiến,
hàng trăm ngàn chiến binh VNCH bị tù đầy. Dù bịtuyên truyền và bỏ mặc
đói rét. Dù bị hành hạ lao động khổ sai. Dù tuyệt đường tương lai, vô hy
vọng có ngày tự do, nhưng tuyệt nhiên không hề đầu hàng cộng sản. Không
một ai trở thành cộng sản. Đó là chiến thắng sau chiến tranh.Trong chiến
tranh, đa sốdân miền Nam vẫn sống trong thanh bình tại các đô thị. Sau
chiến tranh bắt đầu cuộc sống phải chiếu đấu khi được kẻ thù "Giải
phóng" Đây là lúc toàn dân miền Nam tham gia chiến dịch chiến đấu để đào
thoát. Cuộc chiến dành cho tất cả mọi người tham dự. Người già, em bé.
Nam phụ lão ấu cùng tìm đường vượt biên. Đàn bà có bầu và trẻ sơ sinh.
Tu sĩ và thầy chùa. Các nông dân và các giáo sư, bác sĩ. Trên đường tìm
tự do đã hy sinh hàng trăm ngàn người. Tù đầy, sóng gió và hải tặc. Mọi
người dù thất bại năm mười lần vẫn tiếp tục lên đường. Đó là cuộc chiến
sau chiến tranh.
5) Ý nghĩa của chiến thắng:
Kết quả ngày nay phe chiến thắng trở
thành lũ độc tài đảng trị trăm lần tham nhũng, bất công. Kết quả ngày
nay sau khi cả ngàn ngôi mộ hoang nằm lại trên các trại tù cải tạo và
hàng trăm ngàn người vượt biên nằm dưới đáy biển. Đây mới là lúc luận
bàn thắng bại trong chiến tranh Việt Nam. Nếu ngày nay, sau khi thống
nhất đất nước, Việt Nam trởthành quốc gia dân chủ tự do không cộng sản.
Việt Nam trở thành một con rồng châu Á như Nam Hàn, Singapore, Hồng
Kông, Đài Loan..Dân Việt Nam từ Bắc vào Nam đều sống trong tự đó hạnh
phúc. Dân trí mở mang, các tệ trạng xã hội được giải quyết. Không kỳ thị
về chính trị và tôn giáo. Không quá cách biệt giầu nghèo. Người dân Việt
được kính trọng trên 5 châu 4 bể. Được như vậy thì sự thất bại của Nam
Việt Nam cũng là chuyện đáng cam chịu. Được như vậy thì cuộc chiến thắng
của miền Bắc mới là điều cho Hoa Kỳ và chúng ta cần học hỏi. Nhưng Việt
Nam ngày nay là nước độc tài đảng trị, tham nhũng và bị cả thế giới coi
thường. Cuộc chiến thắng do đó trở thành vô nghĩa. Mọi hy sinh của người
miền Bắc đều trởnên vô nghĩa. Và những tổn thất của miền Nam cũng như sự
hy sinh của Hoa Kỳ vẫn muôn đời là những ghi dấu vô cùng cay đắng.
Không, chúng ta không thể kết luận là Hoa Kỳ đã chiến thắng trong chiến
tranh Việt Nam. Chỉ có thể nhận định rằng Miền Bắc đã chiến thắng trong
một cuộc chiến nhưng không đem lại hạnh phúc cho toàn dân.
Riêng tại Hoa Kỳ, không có ai làm phim
chiến thắng cho những người bại trận. Không bao giờ có vòng hoa cho
người chiến bại. Sau chiến tranh Đông Dương, đại diện Khmer Đỏ với bàn
tay diệt chủng giết cả triệu dân bước vào diễn đàn Liên Hiệp Quốc với
những tiếng vỗ tay vang dội. Tiếp theo, tiếng vỗ tay lại vang dội nhiều
hơn khi đại diện Hà Nội trở thành hội viên chính thức với thành tích
đánh thắng 2 đế quốc Pháp và Mỹ. Sau gần nửa thế kỷ, dù thiên đàng Sô
Viết đã tan rã, Việt Nam thống nhất đã biến hình ảnh những người nữ dân
quân anh hùng trở thành nạn nhân nô lệ tình dục khắp Đông Nam Á. Trong
chiến tranh, dù ở bên này hay bên kia, chỉ những người chết mới là người
thua cuộc. Nhân chứng không phải là sự thực. Lời bình luận không phài là
sự thực và ngay cả những thước phim cũng không phải là sự thực. Dù là
phim tài liệu Vietnam War trị giá 30 triệu mỹ kim, 10 năm sưu tầm kéo
dài 18 giờ qua 10 phim tập. Sự thực đã chôn vùi cùng những người lính
trẻ ở cả hai bên chiến tuyến.
Viết về bộ phim The Vietnam War
Nguyễn Tiến Hưng
September 27, 2017
(Hình minh họa: Mark Ralston/AFP/Getty
Images)
Lời phản biện tại buổi trình chiếu sơ lược phim The
Vietnam War
Giai đoạn khi Đồng
Minh nhảy vào
Năm 1958, từ Đại Học Virginia (UVA ở
Charlottesville) chúng tôi đã theo dõi cuộc chiến Việt Nam từ lúc khởi
sự (thời TT Eisenhower) tới lúc Mỹ đưa quân vào (thời Kennedy) rồi leo
thang thật nhanh (thời TT Johnson). Chúng tôi cũng đã xem (và tham gia)
cuốn phim Cuộc Chiến Mười Ngàn Ngày (The Ten Thousand Day War) của
Maclear được chiếu năm 1980. Bộ phim 26 giờ còn dài hơn phim 18 giờ của
Ken Burns và Lynn Novick (B & N).
Với những kinh nghiệm cá nhân và sưu tầm
nhiều năm, nhất là từ tài liệu The Pentagon Papers dài 7,000 trang, được
giải mật ngày 13 Tháng Sáu 2011, chúng tôi đã viết về giai đoạn Mỹ mang
quân vào Việt Nam trong cuốn sách Khi Đồng Minh Nhảy Vào (KĐMNV) với gần
900 trang gồm nhiều tài liệu gốc, xuất bản năm 2016.
Năm phần đầu bộ phim của Ken Burns và
Lynn Novick (B & N) nói về cùng một thời điểm như cuốn KĐMNV (từ thập
niên 40 tới cuối 1967). Cách bố cục cũng giống, nhưng với những tựa đề
có kịch tính. Thí dự như tựa đề cho Tập 2: Dòng Sông Styx (The River
Styx) rất hấp dẫn vì Styx là một dòng sông trong thần thoại Hy Lạp nói
đến ranh giới giữa trái đất này và thế giới bên kia hay cõi chết. Nó
cũng còn có ý nghĩa tương đương với địa ngục. Từ Tập 3 tới Tập 5 hầu hết
chỉ chiếu lại những trận chiến lớn: An Khê, (trận đầu tiên), Plei Me, Ia
Drang, Pleiku, Bình Giã, Đồi 1338, Đồi 875. Đây là những trận đã được
chiếu nhiều lần trong các phim Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Cái mới là có
những câu chuyện thương tâm hơn, đau đớn hơn của những người quân nhân
Mỹ và gia đình của họ.
So với phim của Maclear, những hình ảnh
trong phim này cũng không có gì mới lạ. Tuy nhiên nó được làm sống động
hơn, rất ấn tượng nhờ áp dụng kỹ thuật mầu sắc, ca nhạc, âm thanh tân
tiến cùng với nhiều cuộc phỏng vấn những người tham chiến và cách dẫn
giải của các bình luận gia.
Trong khuôn khổ giới hạn của bài này,
chúng tôi tập trung nhiều hơn vào hai phần đầu vì ba phần sau hầu hết là
chiếu lại những trận chiến lớn như đã đề cập.
Trên mạng BBC có bài tường thuật về buổi
giới thiệu cuốn phim ở Sài Gòn. Cuối phần trả lời các câu hỏi, đạo diễn
Lynn Novick tóm tắt về bộ phim: “Chúng tôi muốn biết cái gì đã xảy ra ở
nơi đây… mô tả thực tại, chiến tranh, chiến trường, sự chết chóc, sự hy
sinh… Chúng tôi cố gắng không phán xét. Chúng tôi nói về những trải
nghiệm tối tăm nhất trong cuộc đời nhân vật. Chúng tôi cố gắng trung
thực với những bi kịch, kể câu chuyện từ nhiều phía, và tìm cách thể
hiện rất nhiều trải nghiệm của người Việt Nam trong cuộc chiến.”
Hai nhà làm phim B & N cho rằng, khác với
vô số tài liệu và phim ảnh về cuộc chiến đã có trước đây chỉ trình bày
những gì người Mỹ làm, hay những chiến trận hay đau khổ của người Mỹ
(như phim Apocalypse Now hay Platoon), phim THE VIETNAM WAR sẽ cho cử
tọa biết thêm nhiều về những biến cố, những câu chuyện về thân phận cá
nhân xẩy ra cho người Việt Nam, được kể lại trong các cuộc phỏng vấn từ
mọi phía, với các tham dự viên người Việt ở cả hai phía Miền Bắc và Miền
Nam Việt Nam.
Dù đã có một chiến lược tiếp cận rất hay
và đầy tính cách con người, bộ phim có nhiều khuyết điểm. Sau đây là
những thí dụ:
-Hai nhà đạo diễn B & N nói là “không
phán xét” nhưng thực ra là có phán xét một cách thầm kín. Thí dụ như
đoạn phim Mỹ chiến đấu trong những năm 1966-1967 được lồng vào đoạn phim
hình ảnh trong cuộc chiến khốc liệt của Pháp trong thập niên 40-50. Như
vậy là coi người lính Mỹ cũng giống như người lính Pháp: áp bức, tàn
bạo? Và rồi Mỹ cũng sẽ lặp lại những sai lầm của thực dân Pháp?
Phim phán xét về TT Ngô Đình Diệm: “Ông
là con người tàn nhẫn, không tin ai ngoài gia đình, lanh lợi, tháo vát,
biết khai thác những yếu điểm của đối phương.” Rồi gán cho ông một biệt
hiệu: “Đấng cứu thế không có thông điệp.”
Phán xét này ngược hẳn với đánh giá của
tờ New York Times năm 1957, gọi ông Diệm là “một người giải phóng Á
Châu,” hay tuần báo Life: “Con người cứng rắn và như phép lạ của Việt
Nam,” hay Nghị Sĩ Jacob Javits (tiểu bang New York): “Ông là một trong
những anh hùng của thế giới tự do,” hay Nghị Sĩ Mike Mansfield
(Montana): “Công trạng ngăn chận được xâm lăng của Cộng Sản ở Việt Nam,
và vì vậy ở cả Đông Nam Á, là do sự quyết tâm, can đảm, trong sạch và
chính trực của Tổng Thống Diệm, một người đã chứng tỏ khả năng rất cao
trước những khó khăn thật là to lớn.” Năm 1961, Phó Tổng Thống Johnson
đi xa hơn, gọi ông Diệm là “Winston Churchchil của Đông Nam Á.”
-Phim muốn kể câu chuyện từ nhiều phía…
rất nhiều trải nghiệm của người Việt Nam trong cuộc chiến nhưng đã phỏng
vấn rất ít người từ phía VNCH, mà cuộc chiến xảy ra căn bản là ở Miền
Nam Việt Nam. Thời giờ dành cho những người này cũng rất vắn vỏi, coi
như chỉ qua loa để gọi là có phỏng vấn. Đâu là những hình ảnh và câu
chuyện của những người quân nhân anh dũng của VNCH? Đâu là những hình
ảnh vợ con của họ sống trong cảnh khó khăn, cô đơn ở thôn quê Miền Nam,
chờ mãi không thấy chồng về?
-Về phía các bình luận gia thì Neil
Sheehan (ký giả thiên tả, cực lực chống đối chinh phủ VNCH) là một trong
những diễn giả chính của phim. Không thấy có phỏng vấn những tác giả
thuộc thành phần xét lại như Mark Moyar, Lewis Sorley.
Một sai sót lớn: phim đã khai thác khá
dài về Trận Ấp Bắc (1/1963) dựa trên cuốn A Bright Shining Lie (Lời Nói
Dối Sáng Ngời) của Neil Sheehan, đổ lỗi cho người chỉ huy quân đội VNCH
và ca tụng ông Paul Vann hết lời. Tác giả Moyar đã thuật lại chi tiết
trận đánh, địa hình địa vật, và quân số hai bên, cũng như diễn tiến trận
đánh, để đi đến nhận xét rất rõ ràng về những dối trá của Paul Vann khi
ông cung cấp thông tin về trận này cho Sheehan (KDMNV, trang 470-472).
-Phim không đề cập tới một thực tại quan
trọng ở Việt Nam trong thập niên 40, đó là sự hình thành của Chính phủ
Quốc Gia Việt Nam (QGVN).
Đâu là câu chuyện Đại Sứ Nhật Yokohama
đến gặp Hoàng đế Bảo Đại để chuyển giao nền độc lập sau khi lật đổ Pháp
(11/3/1945): “Tâu hoàng thượng, đêm hôm qua chúng tôi đã chấm dứt chủ
quyền của Pháp quốc trên đất nước này. Tôi được trao nhiệm vụ dâng nền
độc lập của Việt Nam cho hoàng thượng.” Có nghĩa là trao độc lập của
toàn thể lãnh thổ gồm cả các hải đảo mà Nhật đã chiếm như Hoàng Sa,
Trường Sa. Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố độc lập và thành lập chính phủ Trần
Trọng Kim. Tới lúc ký Hiệp Định Geneva chia đôi lãnh thổ thì chính phủ
QGVN đã được 35 quốc gia công nhận. Sau Geneva, chính phủ VNCH tiếp nối
QGVN. Hiệp Định Geneva có Trung Quốc ký vào, như vậy là TQ đã công nhận
Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam. Đây là một sự kiện quan trọng
giúp cho Việt Nam trong bối cảnh tranh chấp hiện nay ở Biển Đông.
-Phim cũng không nói đến bức thư đầu tiên
của lãnh đạo Việt Nam, Hoàng Đế Bảo Đại gửi TT Truman ngày 18 Tháng Tám
1945? Nhật vừa trả độc lập, HĐ Bảo Đại đã viết ngay cho TT Truman yêu
cầu Pháp phải tôn trọng nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc và trả lại
độc lập cho Việt Nam: “Thưa tổng thống, chế độ thuộc địa không còn thích
hợp với chiều hướng lịch sử hiện tại… Nước Pháp phải vui lòng nhìn nhận
điều đó để tránh khỏi thảm họa chiến tranh trên đất nước chúng tôi.”
(KĐMNV, trang 35). Cùng ngày, ông gửi một tâm thư cho Tướng de Gaulle:
“Nếu các ngài trở lại… mỗi làng xóm sẽ trở nên một tổ kháng chiến, mỗi
người bạn sẽ trở nên một kẻ thù.”
-Về phía chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, phim có nói tới một bức thư của Chủ Tịch Hồ Chí Minh (với chữ ký
của ông) gửi TT Truman yêu cầu Mỹ ngăn chận Pháp trở lại và ủng hộ nền
độc lập Việt Nam (bản chụp bức thư: xem KĐMNV, trang 709-710). Thực ra
là có tất cả tới 14 văn thư và công hàm của ông Hồ gửi Tòa Bạch Ốc và Bộ
Ngoại Giao Mỹ, yêu cầu ủng hộ nền độc lập và cứu trợ nạn đói đang hoành
hành khắp mền Bắc. Về bức thư được trích dẫn, người bình luận trong phim
(Leslie Gelb) nói rằng thư này không tới tay Tổng Thống Truman (có thể
với hàm ý là vì vậy cho nên ông Truman không trả lời). Điều này là không
đúng, vì trong 14 văn thư và công hàm được tóm tắt trong Phụ Lục cuốn
KĐMNV (trang 704-721) có một văn kiện (ngày 17/10/1945) do chính telex
của tòa Bạch Ốc in lại.
(Hình minh họa: Andrew
Caballero-Reynolds/AFP/Getty Images)
Trong cuốn KĐMNV, chúng tôi có viết: “Như
vậy là cả hai phía Việt Minh và Quốc Gia đều cầu cứu Mỹ ngăn chận Pháp
trở lại Việt Nam. Thời gian đó, nạn đói lại đang hoành hành ở miền Trung
và miền Bắc, chết từ 1.5 tới 2 triệu người. Xem như vậy, ta có thể đặt
ra một câu hỏi: nếu như lúc ấy Mỹ đáp ứng yêu cầu của cả hai phe phái
Việt Nam để ngăn chận Pháp và đặc biệt là cứu trợ nạn đói 1945 thì lịch
sử đã ra như thế nào? Liệu có Vietnam War hay không? Mỹ có thể dễ dàng
mở một Tòa Lãnh Sự ở Việt Nam để xử dụng số gạo thặng dư quá nhiều của
mình để cứu vớt gần 17% dân số Việt nam trong cảnh đói rét. Trong trường
hợp ấy toàn dân Việt Nam sẽ hoan hô Mỹ, và Pháp đã không thể trở lại.
-Đến thời chính phủ VNCH, cuốn phim nhận
định không đúng về việc Mỹ ủng hộ ông Diệm từ ban đầu. Một bình luận gia
nói (hình như Leslie Gelb): “Chúng tôi muốn giúp xây dựng một chính phủ
hợp pháp. Chúng tôi tin vào ông Diệm – hay cũng là nạn nhân của ông ta.”
Đây là nhắc lại bình luận của giới truyền thông thiên tả mà chúng tôi đã
thường nghe/xem trong những năm 1958-1963. Bây giờ, sau trên nửa thế kỷ,
với bao nhiêu nghiên cứu mới, giải mật, thông tin mới mà phim vẫn còn
“kể lại cho trung thực” kiểu này thì làm sao ta hiểu nổi? Sự thật là
ngay từ ban đầu Mỹ đã không tin vào ông Diệm (xem KĐMNV, Chương 10-11).
Sau đây là những gì đã xảy ra:
-Tháng Bảy 1954, ông Diệm chấp chính,
thành lập chính phủ;
-Tháng Tám 1954, Đại Sứ Mỹ Donald Heath
đề nghị về Washington: “Ta phải để ý theo dõi tìm một lãnh đạo khác;”
-Tháng Mười Hai 1954: Tướng Collins, đặc
ủy của TT Eisenhower đề nghị “Mỹ chỉ nên ủng hộ ông Diệm thêm vài ba
tuần nữa thôi.”
-Đầu Tháng Tư 1955: Tướng Collins đề nghị
rõ ràng về 5 bước để loại bỏ ông Diệm.
-Cuối Tháng Tư 1955: Washington gửi chỉ
thị tối mật: thay thế Thủ Tướng Diệm.
Như vậy là chỉ nội trong 10 tháng chấp
chính, Mỹ đã muốn lật đổ Thủ Tướng Diệm.
Phim cũng không nói đến các thành quả
kinh tế, xã hội mà phía VNCH đã gặt hái như “5-Năm Vàng Son 1955-1960”
(KĐMNV, Chương 13). Về hành chánh đã có các cán bộ được huấn luyện chu
đáo trong hai thập kỷ bởi Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, chẳng thua gì
Ecole Nationale D’Administration của Pháp (nơi xản xuất các lãnh đạo
Pháp), các đại học Luật khoa, Y khoa, nơi sản xuất ra các luật sư, thẩm
phán biết đẩy mạnh truyền thống pháp trị /rule of law và các bác sĩ làm
việc trong các bệnh viện thay thế bác sĩ Pháp. Miền Nam Việt Nam thực sự
đã đặt được những viên gạch đầu tiên trong các năm 1955-1960 cho mô hình
phát triển sau này của chính Nam Hàn dưới thời TT Phác Chính Hy.
Tại sao có chiến tranh Việt Nam – “WHY
VIETNAM WAR?”
-Phim lấy tên là Vietnam War mà lại không
chiếu hình ảnh và phỏng vấn về “tại sao có chiến tranh Việt Nam – Why
Vietnam War?” Đây là thiếu sót rất quan trọng. Thí dụ như TV không thể
chỉ chiếu và dẫn giải về cảnh tàn phá, hoang tàn ở Houston và Florida
mới đây mà không chiếu và dẫn giải về lộ trình và tốc độ của con mắt đỏ
Harvey và Irma, lồng lộn xoáy vào từ ngoài đại dương.
-Phim nói mập mờ cho rằng chiến tranh
Việt Nam đã leo thang từng bước vì những tính toán sai lầm của các lãnh
đạo kế tiếp nhau ở Washington. Sự thực là 5 tổng thống (Truman,
Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon) đã tính toán rất kỹ về quyền lợi
của Mỹ như đã được chứng minh rõ ràng trong cuốn KĐMNV. Tất cả có tới 7
quyền lợi mà Mỹ muốn bảo vệ ở Biển Đông, mà Việt Nam là “địa điểm chiến
lược quan trọng nhất” như Tổng Tham Mưu Mỹ đã xác định (KĐMNV, Chương
3).
-Vietnam War thực sự bắt đầu khi TT
Kennedy mang quân chiến đấu vào Việt Nam. Phim không nói sự thực về động
cơ nào đã đưa ông Kennedy tới quyết định ấy. Lý do đưa quân tác chiến
vào không phải là để “bảo vệ tự do của nhân dân Miền Nam” mà là vì hai
cú sốc. Thứ nhất, ngày đăng quang, ông tuyên bố “Chúng tôi sẽ trả bất cứ
giá nào, xốc vác bất cứ gáng nặng nào… để bảo đảm sự sống còn và sự
thành công của tự do.” Nhưng vừa tuyên bố như vậy thì phải chịu hai cái
thất bại liên tục, một ở Lào và một ở Cuba. Ông tâm sự: “Tôi không thể
chấp nhận cái thất bại thứ ba,” cho nên ông tập trung vào Việt Nam. Thứ
hai, mùa Hè 1961 ông bị một cú sốc mạnh khi Lãnh đạo Liên Xô Nilkita
Khrushchev thách thức ông tại cuộc họp thượng đỉnh Vienna: “Tôi muốn hòa
bình, nhưng nếu ông muốn chiến tranh thì đó là vấn đề của ông.”
Trở về Washington, TT Kennedy tâm sự với
James Reston, trạm trưởng của tờ New York Times tại Washington và là bạn
ông Kennedy: “Ông ta đối xử với tôi như một cậu bé con… Ông ta nghĩ rằng
vụ Vịnh Con Heo chứng tỏ là tôi thiếu kinh nghiệm. Có thể ông ta còn
nghĩ là tôi ngu nữa. Và có thể quan trọng nhất, ông ta nghĩ tôi không có
gan.”
Cho nên Kennedy đã quyết định phản ứng,
chọn Việt Nam làm nơi đọ sức với Liên Xô. Lúc ấy Khrushchev đang thay
đổi chiến lược: chuyển từ trực tiếp đối mặt với Mỹ sang gián tiếp, từ
chiến tranh quy ước tới chiến tranh du kích. Kennedy quyết định: “Việt
Nam là đúng chỗ rồi.” Ông đôn quân vào Miền Nam.
TT Diệm không đồng ý cho Mỹ mang quân vào
Sau quyết định ấy, cái gì đã xảy ra tại
Saigon thì phim Vietnam War đã bỏ qua hoàn toàn. Đây là điểm lịch sử cần
phải được làm sáng tỏ: Mỹ mang quân vào trái với ý muốn của TT Diệm.
Muốn trung thực thì bắt buộc phải chiếu hình ảnh và phỏng vấn về điểm
này. TT Diệm chỉ yêu cầu – vì chống Cộng là quyền lợi hỗ tương của cả
hai nước – Hoa Kỳ yểm trợ phương tiện vật chất, hoặc là hai bên đi tới
một hiệp ước quốc phòng song phương thay vì mang quân đội Mỹ vào.
Sau cùng Mỹ phải tìm hai cớ để đôn quân
vào. Chúng tôi đã nghiên cứu thật kỹ và viết lại cho rõ ràng trong cuốn
KĐMNV (Chương 15-16):
-Lấy cớ huấn luyện quân đội Miền Nam:
Tổng tham mưu Mỹ đề nghị “Để thuyết phục ông Diệm thì hay nhất là lấy cớ
đem quân ‘vào để huấn luyện’, rồi đem một đơn vị chiến đấu quân vào đóng
ở Việt Nam với công tác là giúp thiết lập hai doanh trại huấn luyện.”
-Lấy cớ “cứu trợ lũ lụt”: Tướng McGarr,
Chỉ huy trưởng cơ quan viện trở quân sự MAAG gửi một công điện về Ngũ
Giác Đài: “Trận lụt rất nặng ở Đồng Bằng Cửu Long… nặng nhất kể từ 1937
cho thấy ta có thể dùng việc cứu trợ lũ lụt để biện hộ cho việc mang
quân vào làm công việc nhân đạo, để rồi có thể giữ quân đội này lại nếu
muốn.”
Chẳng bao lâu, cố vấn, quân nhân, CIA, ký
giả thiên tả Mỹ tràn lan khắp nơi. Trong cuốn sách A Death in November,
tác giả Ellen Hammer kể lại: có lần TT Diệm phàn nàn với Đại sứ Pháp
Lalouette: “Tôi không bao giờ yêu cầu những người quân nhân này tới đây.
Họ cũng chẳng có cả hộ chiếu nữa.”
-Phim không nói tới sự kiện là trước bối
cảnh đó, TT Diệm ngỏ ý muốn Mỹ rút bớt cố vấn đi. Đại Sứ Pháp Lalouette
cho rằng “lý do chính đưa tới quyết định của Mỹ loại bỏ ông Diệm là vì
vào Tháng Tư năm ấy (1963), ông đã toan tính yêu cầu Mỹ rút cố vấn.”
TT Diệm nhìn thấy chân trời tím, muốn tìm
giải pháp hòa bình. Qua Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông đã sắp xếp để điều đình
về hiệp thương với miền Bắc, rồi từng bước tiến tới thống nhất trong hòa
bình. Thời điểm ấy, miền Bắc đang gặp khủng hoảng về lương thực trầm
trọng. Theo người môi giới giữa hai bên là ĐS Balan là ông Maneli (trong
phái đoàn kiểm soát đình chiến), thì chính phủ miền Bắc sau cả năm suy
nghĩ đã đồng ý để hợp tác với TT Diệm và Mỹ để đi bước này.
Nhưng ĐS Lodge, rồi Bộ Trưởng McNamara và
Tướng Taylor báo cáo cho TT Kennedy: “Sự ve vãn của ông Nhu với ý định
điều đình (với Hà Nội) – cho dù là nghiêm chỉnh hay không đi nữa – cũng
đã cho thấy có sự bất tương phùng căn bản đối với những mục tiêu của Hoa
Kỳ.”
-Về bối cảnh đảo chính, phim chỉ chiếu
cảnh Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự thiêu, thanh niên biểu tình, không
nói gì về vai trò của các ký giả thiên tả (như Sheehan, Halberstam,
Brown, Sully) và quan chức Mỹ (Harryman, Hillsman, Forrestal, Ball) nhất
là Đại Sứ Henry Cabot Lodge (chúng tôi gọi là Đao phủ Henry I) đã đưa
tới đảo chính và sát hại TT Diệm.
Biến cố này là điểm ngoặt, dẫn đến xáo
trộn và khủng hoảng chính trị ở Miền Nam trong hai năm tiếp theo. Trước
viễn tượng Miền Nam bị sụp đổ, TT Johnson mang đại quân vào để yểm trợ.
Cuộc chiến leo thang rất nhanh từ đó, và thương vong, chết chóc cũng
tăng lên rất nhanh từ đó.
Bộ phim có nhiều thiếu sót và sai sót.
Thiếu sót quan trọng nhất trong phần đầu là không đề cập tới trách nhiệm
của Mỹ trong cuộc đảo chính và hạ sát TT Diệm. Nếu như thay vì đảo
chính, Mỹ ủng hộ sáng kiến và đồng hành với TT Diệm để tìm giải pháp hòa
bình thì liệu VIETNAM WAR có xảy ra hay không? Biểu tình nửa triệu người
có xảy ra hay không?
Không đề cập tới những gì đã xảy ra tại
Dinh Gia Long, những bi kịch, hậu quả của những quyết định của TT
Kennedy (như đem quân vào, đảo chính TT Diệm) thì làm sao đạo diễn
Novick có thể nói rằng: “Chúng tôi muốn biết cái gì đã xảy ra ở nơi đây…
mô tả thực tại… trung thực với những bi kịch, kể câu chuyện từ nhiều
phía, và tìm cách thể hiện rất nhiều trải nghiệm của người Việt Nam
trong cuộc chiến?”
Hy vọng rằng trong 5 phần còn lại được
bắt đầu chiếu từ ngày 24 Tháng Chín cuốn phim sẽ đi sâu hơn, cân đối
hơn, chính xác hơn, và công bằng hơn.
Hãy trả lại cho César những gì thuộc về
César.
Tản mạn về chuyện ‘The VietNam War’
28/09/2017
Hồ Phú Bông
Một nữ du kích Việt Cộng mang súng Nga,
đang bị điều tra ngày 25/8/1965. Nguồn: AP
Khi bộ phim tài liệu dài 10 tập “The
VietNam War”, mà toán làm phim do đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick bỏ
ra cả 10 năm để thực hiện chỉ mới chiếu trailer quảng cáo thì dư luận đã
bàn tán, bình luận xôn xao về nhiều mặt. Điều nầy cho thấy người Việt
Nam vẫn đang còn băn khuăn tự hỏi về cuộc chiến đã chấm dứt từ 42 năm
trước.
Tại sao có chiến tranh và mục đích đã đạt
được là gì? Khi đặt câu hỏi như vậy thì tự nó đã mang nội hàm là tại sao
lại chọn con đường chiến tranh trong khi các nước chọn con đường khác
cũng đạt cùng mục đích mà không gây ra thảm họa? Thảm họa ở đây là xương
máu, là sự chia rẽ đến cùng cực trong lòng dân tộc!
Đặt dấu hỏi là đương nhiên không chấp
nhận thực trạng như đang có. Vì nếu Việt Nam đang là Nam Hàn thì cuộc
chiến tàn khốc 20 năm tại miền Nam trước 1975 (còn miền Bắc bị bom Mỹ
tàn phá là hậu quả tất yếu về chiến thuật của Mỹ lúc đó, một vấn đề
khác) tự nó đã đi vào lịch sử với ý nghĩa là tan biến theo thời gian.
Việc còn lại là nghiên cứu để viết sử của giới sử gia mà thôi. Vì khi
chế độ thành công việc thực hiện tự do hạnh phúc cho người dân, vật chất
đầy đủ, tinh thần thoải mái, dân chủ pháp quyền, người Việt đang ngẩng
cao đầu trước thế giới… thì đương nhiên họ đã nghĩ cuộc chiến đó là cần
thiết.
Nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược!
Hiện tại, không như hứa hẹn của đảng cộng
sản Việt Nam lúc ban đầu, mà tất cả ngược lại, thì đương nhiên người ta
muốn tìm về nguyên nhân. Như một cuộc hôn nhân không hạnh phúc người
trong cuộc băn khoăn nhìn về quá khứ.
Nhà văn Nguyên Ngọc, người được ca ngợi
là “cây xà nu Tây nguyên”, hiện vẫn là một đảng viên, đã từng lăn lộn
tại chiến trường miền Nam, ca ngợi bộ phim là khá trung thực. “Đây là
một phim lớn, rất quan trọng về chiến tranh Việt Nam”. Ông khen người Mỹ
“luôn luôn nhìn trở lại và đặt câu hỏi về quá khứ”, đó là “điểm mạnh” để
Hoa Kỳ được như hiện tại. Ông cũng muốn Việt Nam biết “nhìn lại” một
cách trung thực, “tôi ao ước Việt Nam có thể có một bộ phim tài liệu
theo kiểu như vậy. Giá như Việt Nam cũng tự hỏi mình như thế” và, theo
ông, chiến tranh để giải phóng đất nước lúc ban đầu là đúng nhưng càng
về sau đã biến thành nội chiến, cốt nhục tương tàn.
Nhận xét như vậy thì chuyện Việt Minh
cướp chính quyền hợp pháp của chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945, một
chính phủ đã tập hợp được thành phần ưu tú thời đó, rồi từng bước tiêu
diệt các đảng phái khác qua nhiều thủ đọan, cuối cùng là độc quyền gây
chiến tranh tiến chiếm miền Nam sau nầy là “đúng”? Còn những người yêu
nước chống Pháp, dựa vào Mỹ, khác chính kiến với cộng sản đều sai? Đó là
chưa nói đến việc nhân loại đã loại bỏ chủ nghĩa cộng sản từ năm 1989,
1990 thì phải giải thích thế nào?
Bộ phim có lẽ khá hấp dẫn với người ở
phía Bắc vì ngày đó họ hoàn toàn mù tịt về mọi sinh hoạt xã hội miền Nam
cho đến sau “giải phóng”! Nhưng với người miền Nam, là nạn nhân trực
tiếp, và bị phe chiến thắng gán ghép vô số tội ác dù họ chỉ hoàn toàn tự
vệ, tại sao không là trọng tâm phim? Khi đã gọi là “tài liệu” mà bỏ
tiếng nói của nạn nhân chính thì đã hẳn chủ đích của phim nhắm vào đối
tượng khác. Đối tượng đó là cho chính người Mỹ vì những hệ lụy bi đát
của quân nhân Mỹ sau ngày họ thảm bại quay trở về nước. Cho dù sau nầy
đã sáng tỏ phần nào, như bức tường đen ghi danh 58.000 tử sĩ, nhưng sự
chia rẽ quan điểm về sự thất bại đó vẫn còn là điều nhức nhối.
Nhưng chính người Việt Nam “học” được gì?
Người lính miền Bắc học được bài học đắt
giá nhất. Đó là bài học bị tuyên truyền nhồi sọ và cưỡng bức vô Nam.
Đảng cộng sản đã đưa họ vào chỗ chết. Chết rải rác dọc Trường sơn. Chết
không tên tuổi, không mồ mả đến nỗi hơn 40 năm sau đồng đội vẫn còn bươn
bã đi tìm. Những nghĩa địa dọc Trường sơn ai dám xác tín đó đúng là hài
cốt của từng cá nhân chứ chưa nói đến là xương động vật! Chế độ khéo léo
tạo ra phong trào tìm xác qua các “dịch vụ ngoại cảm”, cốt để xoa dịu
nhất thời nỗi phẫn uất của thân nhân, cho thấy họ chỉ là những con tốt
thí, hy sinh cho các “bầy sâu” “ăn không chừa một thứ gì” hiện tại.
Với người phía Bắc thì có đổi đời, tiến
từ “bao cấp” đến văn minh hơn. Tiến từ đói rách lầm than đến tiện nghi
vật chất. Nhưng nếp văn hóa cổ truyền lại gần như mất trắng. “Giá trị
cao quý” hiện tại là bất chấp mọi thủ đoạn chỉ vì tiền, vì quyền, sẵn
sàng đạp lên mạng sống người khác để hưởng thụ!
Sau 1975, người phía Bắc đã ồ ạt vào Nam
mang theo tính giành giật và dối trá thời bao cấp, vì đã trở thành bản
chất, rồi dựa vào gốc tích, đảng tịch nên chiếm được những cơ ngơi tốt
đẹp từ thành phố đến khắp thôn quê, người “bản địa” bỗng chốc trở thành
loại công dân hạng hai về mọi mặt. Như vậy khi kể lể “có công thống nhất
đất nước” thì thống nhất thế nào? Và câu trả lời đã có sẵn: Hàng triệu
người miền Nam liều chết vượt biên!
Đó là kết quả cụ thể của chiến tranh
“giải phóng miền Nam”.
Sự thật trần trụi như thế thì The VietNam
War lột tả được những gì?
Đây là lời của đạo diễn Lynn Novick tóm
tắt về bộ phim:
“Chúng tôi muốn biết cái gì đã xảy ra ở
nơi đây … mô tả thực tại, chiến tranh, chiến trường, sự chết chóc, sự hy
sinh…Chúng tôi cố gắng không phán xét. Chúng tôi nói về những trải
nghiệm tối tăm nhất trong cuộc đời nhân vật. Chúng tôi cố gắng trung
thực với những bi kịch, kể câu chuyện từ nhiều phía, và tìm cách thể
hiện rất nhiều trải nghiệm của người Việt Nam trong cuộc chiến.”
Và, sau khi xem bộ phim, Tiến sĩ Nguyễn
Tiến Hưng để lại câu hỏi: “Phim muốn kể câu chuyện từ nhiều phía…rất
nhiều trải nghiệm của người Việt Nam trong cuộc chiến” nhưng đã phỏng
vấn rất ít người từ phía VNCH, mà cuộc chiến xảy ra căn bản là ở Miền
Nam Việt Nam.
Thời giờ dành cho những người này cũng
rất vắn vỏi, coi như chỉ qua loa để gọi là có phỏng vấn. Đâu là những
hình ảnh và câu chuyện của những người quân nhân anh dũng của VNCH? Đâu
là những hình ảnh vợ con của họ sống trong cảnh khó khăn, cô đơn ở thôn
quê Miền Nam, chờ mãi không thấy chồng về?”
Trong chập choạng nắng hoàng hôn soi bóng
giữa mây trời và mặt nước hồ tĩnh lặng sau nhà, đang nhìn mẹ con nhà
chim quốc bơi thẳng hàng, rẽ sóng thành hình chữ V từ mấy đôi chân nhỏ
bé, người bạn chợt hỏi: “Tại sao anh không xem bộ phim?” Dù không muốn
trả lời nhưng quay nhìn lại, trong đôi mắt đó có cái gì đó thật bâng
khuâng, phải lên tiếng: “Bộ phim chỉ nên dành cho người ngoài cuộc tìm
hiểu hay thưởng ngoạn. Người phía Bắc có thể rất thích vì họ chưa từng
biết sự thật tại miền Nam thời đó. Họ cần mắt thấy tai nghe thân phận
của người phía Nam trong máu lửa. Còn mình, người miền Nam, mới sinh ra
đã bị ném ngay vào lò lửa chiến tranh, đã thấm đẫm vào ký ức rồi. Chuyện
đã trôi qua 42 năm, dù vết thương da thịt đã lành nhưng vết thương tâm
hồn vẫn còn nguyên vẹn. Tại sao không để nó ngủ yên mà tự mình cào xới
lại? Cào lại cho tươm máu để làm gì? Đó là công việc của sử gia, của
khán giả không liên quan trực tiếp đến cuộc chiến cần xem để biết rõ
chiến tranh và tội ác”
Chữ V do mẹ con nhà chim quốc rẽ sóng,
loãng dần, rồi tan biến. Tôi tự hỏi đó là chữ V biểu trưng của chiến
thắng (victory) hay như thực tế trước mắt, là một chữ V upside down (chữ
V ngược), V là Việt Nam, đang chìm dần dần vào bóng tối, vì kẻ chiến
thắng 42 năm trước chủ trương bảo vệ đảng đang quỳ gối trước giặc phương
Bắc?
Xem phim “The Vietnam War”
Song Chi
2017-09-25 Email Ý kiến của Bạn Chia sẻ
In trang này
In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email
Ảnh chụp vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại
Sài Gòn cho thấy xe tăng của Quân đội Bắc Việt phá cổng Dinh Độc Lập,
căn cứ cuối cùng của chính phủ miền Nam Việt Nam.
Ảnh chụp vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại
Sài Gòn cho thấy xe tăng của Quân đội Bắc Việt phá cổng Dinh Độc Lập,
căn cứ cuối cùng của chính phủ miền Nam Việt Nam.
AFP
“The Vietnam War”, bộ phim tài liệu
truyền hình 10 tập, dài 18 giờ của 2 tác giả Ken Burns và Lynn Novick,
được công chiếu lần đầu tiên trên Public Broadcasting Service, Hoa Kỳ,
ngày 17.9 vừa qua là bộ phim mới nhất của Mỹ về chiến tranh Việt Nam.
Được biết, các nhà làm phim đã phải mất
10 năm để thực hiện bộ phim, phỏng vấn 79 người Mỹ từng chiến đấu hay
phản đối cuộc chiến, các chiến binh VN và thường dân ở cả hai miền Nam
Bắc, và đã phải xử lý một khối lượng hình ảnh, tư liệu khổng lồ mà khi
xem chúng ta cũng có thể hình dung được.
Như vậy, 42 năm sau khi cuộc chiến tranh
đã kết thúc, người Mỹ và người Việt lại một lần nữa phải nhìn lại cuộc
chiến với những hình ảnh sống động, tàn bạo, đẫm máu, nhức nhối.
Cảm nhận chung đầu tiên của người viết
đây vẫn là một bộ phim của người Mỹ làm về chiến tranh VN, đã mổ xẻ được
những sai lầm và tội ác của người Mỹ, nhất là của chính phủ Mỹ, khai
thác tâm trạng của các vị chính khách, Tổng thống, cho tới những người
Mỹ từng tham gia hay phản đối chiến tranh, đã phơi bày được sự chia rẽ
sâu sắc trong lòng nước Mỹ trong suốt cuộc chiến cũng như tất cả hậu quả
mà cuộc chiến đã gây ra cho nước Mỹ. Nhưng bộ phim lại chưa làm được như
thế về phía Việt Nam, cả với VNCH hay Việt Cộng.
Hình ảnh VNCH được thể hiện mờ nhạt, được
đánh giá không đúng mức, thậm chí bị coi thường, từ lãnh đạo cho tới
người lính, trong lúc hình ảnh Việt Cộng và Bắc Việt (hai từ được sử
dụng để chỉ quân đội miền Bắc và lực lượng Mặt trận GPND trụ ở miền Nam,
sau đây sẽ chỉ dùng chung một từ Việt Cộng cho cả hai) có phần được đề
cao nhưng cũng chỉ mới nhìn thấy trên bề mặt, còn bao nhiêu sự thật về
những người cộng sản trong cuộc chiến chưa được khai thác.
Không rõ các thế hệ người Mỹ trước đây
hay bây giờ, khi xem phim có cảm thấy bộ phim đã giải đáp được cho mình
những câu hỏi hay giải tỏa được những tâm tư về cuộc chiến hay không;
nhưng với người VN dù thuộc bên thắng cuộc hay bên thua cuộc và con cháu
họ, chắc chắn đều có những có lý do để không đồng ý với bộ phim.
Với người miền Nam, như vừa nói, là vì
hình ảnh của chế độ VNCH không được đánh giá công bằng.
Trong suốt phần lớn chiều dài của bộ
phim, chỉ thấy người Mỹ chiến đấu đánh Việt Cộng, những trận giao tranh,
tâm tư của người lính Mỹ, những tổn thất…trong khi quân đội VNCH không
thấy đâu. Còn giai đoạn sau khi đã bước vào thời kỳ “Việt Nam hóa chiến
tranh”, tức là người Việt đánh người Việt, thì phim lại chuyển qua chủ
yếu tập trung khai thác những mâu thuẫn, những chia rẽ đã trở nên gay
gắt trong lòng nước Mỹ. Bộ phim dành rất nhiều lời khen cho ý chí sắt đá
của giới lãnh đạo Hà Nội, tinh thần kỷ luật, quyết tâm chiến đấu, sự
thiện chiến của những người cộng sản, ngược lại, rất ít khi có những lời
khen dành cho chế độ hay quân đội VNCH.
Hiếm hoi lắm mới có những câu như: “Nhiều
đơn vị VNCH chiến đấu giỏi, hồi Mậu Thân họ đánh là chủ yếu, và tính đến
giữa năm 1969, đã có 90 000 người tử trận.” Hay công nhận những trận
đánh An Lộc, tái chiếm Quảng Trị của VNCH vào mùa hè đỏ lửa 1972
v.v…“Người Mỹ ít khi nhìn nhận sự dũng cảm của họ. Chúng ta khinh thường
họ, phóng đại sự yếu kém của họ, vì muốn khoe khoang tài năng của ta”
(trích phỏng vấn Tom Vallery-thủy quân lục chiến).
Nhưng thật ra, việc phóng đại sự yếu kém
của chế độ hay quân đội VNCH còn nhằm để biện minh cho người Mỹ. Chẳng
hạn, để biện minh cho lý do Mỹ đổ quân vào VN là vì Sài Gòn có thể đổ
sụp từ những năm 60, hay đánh giá tiêu cực về Tổng thống Ngô Đình Diệm
là để biện minh cho việc Mỹ đã làm lơ, thậm chí khuyến khích, đảo chính
Ngô Đình Diệm.
Không khác gì những người khuynh tả hay
phản chiến trước kia, những mặt yếu kém của chế độ VNCH hay những sai
lầm của chính phủ Mỹ được mổ xẻ, phơi bày nhưng những sự thật, sai lầm
hay tội ác của Việt Cộng thì được cho qua. Cả một vụ thảm sát Mậu Thân
cũng chỉ nói qua loa, bao nhiêu vụ ám sát, đánh bom, khủng bố của Việt
Cộng diễn ra tại Sài Gòn, đô thị lớn ở miền Nam cho tới thôn quê suốt
thập niên 60-70 của thế kỷ XX không hề được nhắc đến.
Và có rất nhiều câu chuyện mà sự thật đã
được bộc lộ từ lâu, nhưng bộ phim vẫn không đưa vào. Ví dụ như vì sao
tướng Nguyễn Ngọc Loan, tư lệnh Cảnh sát Quốc gia Nam VN lúc đó, xử tử
đặc công Việt Cộng Nguyễn Văn Lém ngay trên đường phố Sài Gòn (sau này
chính tác giả của bức ảnh gây chấn động thế giới, phóng viên Eddie
Adams, đã công khai xin lỗi Nguyễn Ngọc Loan và bày tỏ sự ân hận vì
những tác động của bức hình lên cuộc sống của vị tướng này); hay nhân
vật Kim Phúc trong bức ảnh nổi tiếng “Em bé Napalm” được nhà nước VN sử
dụng như một “nhân chứng chiến tranh” và được đưa sang Cuba học nhưng
sau đó lại tìm cách xin tỵ nạn ở Canada chứ không đơn giản chỉ là rời
VN, định cư ở Canada…
Một nửa sự thật thì không phải là sự
thật. Trong cuộc chiến VN, có rất nhiều điều mà thế giới chỉ biết được
“một nửa” ấy. Đáng tiếc rằng sau hơn 40 năm, một bộ phim tài liệu công
phu như “The Vietnam War” lại không làm rõ những điều ấy để chứng tỏ sự
khách quan của những người làm phim.
Về phía đảng cộng sản VN, họ cũng có
nhiều lý do để không thích bộ phim. Cho dù những thông tin trong phim
đưa ra nhiều người dân đã biết nhờ vào thời đại internet, Hà Nội vẫn
không muốn những gì mà họ tuyên truyền bao lâu nay, qua bao thế hệ người
dân VN bị phơi bày. Từ những vụ thanh trừng của đảng cộng sản thời kỳ
đầu đối với tất cả những cá nhân, tổ chức không cộng sản, những trận
giao tranh với con số thương vong thường cao hơn gấp bội kẻ thù, vụ thảm
sát Mậu Thân, sai lầm và chủ quan trong vụ “tổng tiến công” Mậu Thân làm
chết hàng chục ngàn lính chưa kể dân thường và hai lần tổng tiến công
sau đó cũng thất bại, cho tới những chính sách sai lầm sau chiến tranh…
Đối với những người Việt được tuyên
truyền, giáo dục về “cuộc chiến tranh thần thánh chống Mỹ cứu nước, giải
phóng miền Nam” sẽ có thể hiểu được vì sao người Mỹ thua, VNCH thua và
những người cộng sản thắng. Trong một cuộc chiến, khi một bên luôn băn
khoăn, luôn đặt ra quá nhiều câu hỏi, luôn bị tác động bởi phản ứng của
người dân (phong trào phản chiến ở Mỹ hay những cuộc biểu tình chống Mỹ
ở Sài Gòn), còn một bên chỉ có một mục tiêu duy nhất là đánh tới cùng,
chỉ được phép nói đến sự lạc quan, chiến thắng, còn những thất bại, con
số thương vong, số người tử trận không bao giờ công bố…thì bên đó chắc
chắn phải thắng.
Người cộng sản không quan tâm đến cái giá
của máu xương hay thời gian, thời gian thuộc về họ, trong khi đó là
những điều mà người dân Mỹ, dư luận Mỹ không bao giờ cho phép chính phủ
của họ. Khi người Mỹ muốn, họ nhảy vào VN cho bằng được rồi khi phải
rút, họ tìm mọi cách, kể cả đi đêm với Bắc Việt, bắt tay với Trung Cộng,
bán đứng đồng minh.
Xem xong bộ phim, tin rằng có lẽ chỉ trừ
nhà cầm quyền VN, những ai còn say sưa với những hào quang chiến thắng
trong quá khứ hay còn mê muội vì thiếu thông tin, hầu hết người VN dù
thuộc phe thắng cuộc hay thua cuộc, dù từng đi qua cuộc chiến tranh hay
sinh ra và lớn lên thời hậu chiến, đều cảm thấy buổn, ngậm ngùi, cay
đắng. Cay đắng vì số phận nghiệt ngã của VN. Dân tộc này đã phải trải
qua những năm tháng chiến tranh liên miên, trong đó cuộc chiến này là
một bi kịch không gì bù đắp nổi, không chỉ đã tàn phá đất nước trong
suốt bao nhiêu năm mà còn để lại những vết thương, sự chia rẽ đến tận
bây giờ do những chính sách sai lầm của bên thắng cuộc. Cay đắng hơn nữa
là cái giá quá đắt phải trả ấy để cuối cùng được gì, VN hiện tại đang
đứng ở đâu trên bản đồ sắp hạng của thế giới, từ độc lập, sự toàn vẹn
lãnh thổ lãnh hải cho tới tự do, hạnh phúc của nhân dân đều không đạt
được.
Sẽ có nhiều cái “nếu” được đặt ra, nhưng
có thể tóm gọn lại, nếu đảng cộng sản không giành được chính quyền từ
tay chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945 thì toàn bộ con đường đi của đất
nước này, dân tộc này đã khác. Và cuộc chiến tranh này cũng như những
cuộc chiến với Khơ Me Đỏ, với Trung Cộng đã không xảy ra.
Nhưng lịch sử thì không bao giờ có chữ
“nếu”…
Điều đáng nói hơn đó là nhìn vào hiện tại
và tương lai. Người Mỹ đã mổ xẻ khá đầy đủ về cuộc chiến tranh VN, không
che dấu những sai lầm, kể cả những tội ác, họ cũng đã sám hối-cả những
người từng tham gia cuộc chiến cho tới những người phản đối chiến tranh
từng dùng những từ ngữ nặng nề để gọi những người lính, họ cũng đã dựng
cả bức tường khắc đầy đủ tên hơn 58, 000 người lính Mỹ hy sinh để tưởng
nhớ những người đã ngã xuống và răn mình không bao giờ được phép có một
Việt Nam thứ hai nữa.
Còn người VN? Đảng cộng sản chưa bao giờ
dám nhìn lại quá khứ, lịch sử với họ là một thứ lịch sử được viết theo ý
họ, bất chấp sự thật. Cho dù đã hơn 4 thập niên trôi qua.
Không dám nhìn lại quá khứ, không nhìn
thẳng vào thực tại thì không học được gì và không bao giờ thoát khỏi
những bóng ma của quá khứ.
Câu hỏi là đảng cộng sản, với quá nhiều
sai lầm và tội ác, tất nhiên không đủ dũng khí và cả sự sáng suốt để sám
hối, tỉnh thức đã đành, nhưng còn người Việt Nam dù thuộc phe nào đi
nữa, liệu chúng ta có dám mổ xẻ đến tận cùng những trang sử đau đớn đã
qua và trong hiện tại, để giành lấy quyền quyết định vận mệnh, tương lai
của đất nước vào tay nhân dân?
*Bài viết không thể hiện quan điểm của
Đài Á châu Tự do RFA
The Vietnam War, nhìn từ Việt Nam
22/09/2017
Vĩnh Quyền
Sau sáu năm thực hiện, từ 17 tháng 9 năm
2017 bộ phim tài liệu The Vietnam War gồm mười phần với tổng thời lượng
18 tiếng đã lên sóng truyền hình toàn nước Mỹ qua hệ thống PBS (Public
Broadcasting Service, mạng truyền thông công cộng bất vụ lợi với 349 đài
truyền hình thành viên tại Hoa Kỳ). Như vậy, cùng với giải Pulitzer 2016
trao cho tiểu thuyết The Sympathizer của nhà văn Mỹ gốc Việt Nguyễn
Thanh Việt, bộ phim mới đang được giới truyền thông dành nhiều quan tâm
này cho thấy người Mỹ vẫn chưa thể quên Việt Nam dù cuộc chiến tranh
giữa hai nước đã được cho là kết thúc hơn 40 năm.
Điện ảnh đối với người Mỹ, nhất là giới
trí thức, không chỉ có chức năng giải trí mà còn là cỗ xe lớn mang tải
lịch sử và bày tỏ thái độ về các sự kiện lịch sử hoặc các vấn đề xã hội
gây tranh cãi, ngay cả với phim truyện. Sau khi xem The Birth of a
Nation (Đất nước thời khai sinh, 1915) của đạo diễn D.W. Griffith – như
một lời cảnh tỉnh và kêu gọi giải phóng nô lệ da đen – tổng thống
Woodrow Wilson đã bình luận bộ phim là “thiên lịch sử viết bằng sấm
sét”.
Chiến tranh Việt Nam không chỉ gây chia
rẽ trong chính trường, ngoài đường phố mà cả trong giới làm phim nước
Mỹ.
Những năm đầu Mỹ tiến hành chiến tranh và
giai đoạn phát sinh phong trào phản chiến, Hollywood né tránh sản xuất
những kịch bản đề cập trực tiếp đến chiến tranh Việt Nam. Mãi đến năm
1968 phim truyện đầu tiên về đề tài chiến tranh Việt Nam mới ra rạp, The
Green Berets (Mũ nồi xanh), phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của Robin
Moore, với tài tử cao bồi gạo cội John Wayne đóng vai chính. Yếu tố lần
đầu tiên mang lại hình ảnh cuộc chiến của Mỹ từ nửa bên kia trái đất đã
giúp phim thành công về mặt thương mại. Nhưng là một phim nhận tài trợ
tài chính từ Lầu Năm Góc, The Green Berets chỉ có thể là bản anh hùng ca
đơn điệu, biến thể của mô típ các tay súng miền Tây (lính viễn chinh Mỹ)
thoải mái tiêu diệt chiến binh da đỏ (Vi-ci/Việt Cộng), không cung cấp
được một thông tin đáng giá nào từ thực tế cuộc chiến.
Và nó càng trở nên ấu trĩ về chức năng
nhận thức lịch sử khi phim tài liệu In the Year of the Pig (Chuyện năm
Hợi) của đạo diễn Emile de Antonio được thực hiện cùng thời điểm, mà các
nhà phê bình điện ảnh xem như một chấn động toàn cầu và được đề cử giải
Oscar phim tài liệu hay nhất năm 1969. Đến nay các bài khóa dạy sáng tác
phim tài liệu và cả khoa báo chí thường nhắc đến In the Year of the Pig
như một mẫu mực, phim đạt đến trình thượng thừa trong việc thực hiện
chức năng “cảm nhận trước”/ “thấy trước”/ “cảnh báo” của báo chí: dù
thực hiện trong năm 1968, năm năm trước khi Hiệp định Paris được ký và
bảy năm trước khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, nhưng In the Year of the Pig đã
“chẩn đoán” và “báo trước” chính xác về kết cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Sau 1975, dù vẫn chia rẽ trong cách nhìn
nhận dẫn đến tranh cãi gay gắt, nhiều phim truyện Mỹ khai thác đề tài
Việt Nam gặt hái thành công lớn như Coming Home (Về nhà, đạo diễn Oliver
Stone,1978), The Deer Hunter (Người săn nai, đạo diễn Michael Cimino,
1978), Apocalypse Now (Lời sấm truyền, đạo diễn Francis Ford Coppola,
1979), Platoon (Trung đội, đạo diễn Oliver Stone, 1986), Born on the 4
of July (Sinh ngày 4 tháng Bảy, đạo diễn Oliver Stone, 1989) …
Năm 1992 Oliver Stone và hai diễn viên
Joan Chen, Lê Thị Hiệp đến Đà Nẵng chọn cảnh quay cho phim truyện Heaven
And Earth (Trời và đất – sau đó thực hiện tại Thái Lan). Nhưng tại cuộc
họp báo ông lại dành thời gian chia sẻ về thể loại phim tài liệu: “Những
bộ phim tài liệu là nơi cất giữ tốt nhất những gì đã xảy ra giữa hai dân
tộc chúng ta trong quá khứ”.
Thời gian đó, bộ phim tài liệu sản xuất
gần mười năm trước, Vietnam: A Television History (Việt Nam – Thiên lịch
sử truyền hình, đạo diễn Stanley Karnow, 1983), đang được phát trên đài
truyền hình Việt Nam. Nhiều khán giả gặp nhau ở đánh giá: Với 13 tập
phim này, chúng ta hiểu lịch sử sinh động hơn, hệ thống hơn đọc cả nghìn
trang sách. Về sau, qua mạng internet, người Việt có thể tìm xem hầu hết
các phim tài liệu giá trị về chiến tranh Việt-Mỹ như Vietnam: The Ten
Thousand Day War (Cuộc chiến mười nghìn ngày, đạo diễn Michael Maclear,
1980), Vietnam in HD (đạo diễn Sammy Jackson, 2011), Daughter from Đà
Nẵng (Người con gái từ Đà Nẵng, đạo diễn Gail Dolgin và Vincente Franco,
2002), Last Days in Vietnam (Những ngày cuối ở Việt Nam, đạo diễn Rory
Kennedy, 2014) …
Trong những ngày này đông đảo người Việt
ở Việt Nam háo hức chia sẻ đường link xem phim The Vietnam War với chờ
đợi chung: Ken Burns và Lynn Novick đã làm mới đề tài chiến tranh Việt
Nam như thế nào sau 40 năm.
The Vietnam War do Ken Burns và Lynn
Novick đạo diễn, kịch bản của Geoffrey C. Ward. Hai hãng phim Florentine
– WETA hợp tác sản xuất với Sarah Botstein, Lynn Novick và Ken Burns. Bộ
phim được xem là phần kết của bộ ba phim tài liệu về ba cuộc chiến tranh
quan trọng nước Mỹ đã trải qua trong lịch sử của mình, sau The Civil War
(Nội chiến, 1990) và The War (Thế chiến thứ II, 2007). Chính hai phim
này đã làm rạng danh đạo diễn Ken Burns.
Trong thông cáo báo chí của PBS, Ken
Burns nói về bộ phim sắp ra mắt: “Chiến tranh Việt Nam là một thập niên
cực kỳ bi thảm, đã cướp đi sinh mạng của hơn 58.000 người Mỹ. Từ sau
cuộc nội chiến, chưa bao giờ đất nước chúng ta bị chia rẽ đến thế. Không
người Mỹ nào sống trong giai đoạn này mà không chịu tác động của nó theo
một cách nào đó – từ những người chiến đấu và hi sinh, đến gia đình các
thành phần tham chiến và các tù binh, đến những người biểu tình phản
chiến công khai đấu tranh với chính phủ và những công dân Mỹ khác. Cuộc
chiến đã kết thúc hơn 40 năm nhưng chúng ta không thể quên được Việt
Nam, và chúng ta vẫn tranh cãi vì sao đi đến sai lầm, ai chịu trách
nhiệm và một cuộc chiến như thế có đáng hay không”.
Lynn Novick cũng hé lộ phần nào quan niệm
và cách thức thực hiện bộ phim của ê-kíp trong 6 năm qua: “Tất cả chúng
ta đang tìm kiếm một ý nghĩa nào đó từ bi kịch khủng khiếp này. Ken và
tôi đã cố soi chiếu vào cuộc chiến thứ ánh sáng mới theo chiều kích nhân
văn bằng cách nhìn từ mọi phía. Bên cạnh những người Mỹ “bình thường”
chia sẻ câu chuyện của họ, chúng tôi phỏng vấn nhiều người lính “bình
thường” và thường dân Việt Nam ở miền Bắc cũng như miền Nam. Và chúng
tôi ngạc nhiên nhận ra rằng, cũng như đối với chúng ta, cuộc chiến vẫn
còn gây cho họ bao đau đớn và để lại những điều không thỏa đáng”.
___
VĨNH QUYỀN, nhà văn Việt Nam, tác giả
tiểu thuyết chiến tranh Debris of Debris (Mảnh vỡ của mảnh vỡ).
--
Giao Chi San Jose. giaochi12@gmail.com
(408) 316 8393
PHÊ BÌNH VIETNAM WAR CỦA KEN BURNS
EPISODE 1
Hoàng Duy Hùng
Trong tháng 9 năm
2017, Đài Public Broadcasting Service (PBS), một cơ quan truyền thông
giáo dục, chiếu một loạt (serie) phim tài liệu Vietnam War của Ken Burns
trên toàn quốc Hoa Kỳ. Trước khi trình chiếu, PBS quảng cáo rầm rộ đây
là loạt phim tài liệu rất giá trị do ông Ken Burns nghiên cứu 30 năm nên
rất trung thực và khách quan.
Với tầm vóc trình
chiếu toàn quốc do một cơ quan chú trọng giáo dục và với sự bảo trợ của
nhiều mạnh thường quân như thế thì Vienam War của ông Ken Burns rất có
uy thế cho thế hệ sau khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Người xưa nói:
"Làm bác sĩ sai thì giết một người; làm chính trị sai thì giết một thế
hệ; làm văn hóa sai thì giết tương lai cả một dân tộc." Vietnam War của
ông Ken Burns là một tác phẩm văn hóa nghiên cứu về chính trị và sử của
nước Việt và Hoa Kỳ, nếu có điều gì đó sai lầm thì nó sẽ "đầu độc" cho
biết bao thế hệ tương lai.
Vì quan niệm tầm
quan trọng Vietnam War của ông Ken Burns trên thế hệ tương lai, tôi xem
phim tài liệu này. Mới xem xong tập đầu, Episode 1, tôi đã cảm thấy máu
chảy rần rần lên trên đầu và sự giận dữ tột độ xâm chiếm tâm hồn tôi.
Tôi liền viết một điện thư (email) cho ông Steve Sherman, một người bạn
của ông Ken Burns, phản ảnh quan điểm của tôi. Tôi gởi bản sao email này
cho một số thân hữu và gởi lên trên Diễn Đàn Chinh Nghĩa. Tôi cho rằng
tập phim tài liệu này vô tình ông Ken Burns là cái loa tuyên truyền cho
Cộng Sản Việt Nam, ca tụng Hồ Chí Minh quá lố và khiếp sợ quân đội Bắc
Việt một cách lố bịch cũng như ông Ken Burns chạy tội cho Hoa Kỳ vì
những mưu đồ chính trị đã sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tham gia một
cuộc chiến với chủ trương không thắng để có cơ hội giải quyết toàn bộ vũ
khí tồn đọng lại từ thời Đệ Nhị Thế Chiến, và vì thế đã bán đứng Việt
Nam Cộng Hòa và giờ đây Ken Burns lần thứ hai đâm lút cán sau lưng các
chiến sĩ VNCH. Tôi tỏ rõ lập trường là sẽ không để cho các con tôi xem
phim tài liệu này vì đây là phim tuyên truyền đầu độc bóp méo lịch sử,
hạ nhục Việt Nam Cộng Hòa, và tôi sẵn sàng công khai đối chất với ông
Ken Burns về những quan điểm của ông ấy ở phim Vietnam War.
Không ngờ trong một
thời gian ngắn, tôi nhận nhiều phản hồi từ email cho đến điện thoại,
ngay cả ông Steve Sherman, ông Sherman cũng đồng ý với quan điểm của tôi
và còn yêu cầu tôi hãy làm một điều gì đó để bảo vệ chính nghĩa của
người Quốc Gia, của Việt Nam Cộng Hòa, mà do ông Ken Burns đã bóp méo vo
tròn đầu độc. Ông Steve Sherman còn cho biết ông muốn nhiều người Việt
Nam phản ứng về Vietnam War của Burns như tôi đã làm để ông đóng lại
thành tập phản ảnh cho Burns biết cũng như lưu làm hồ sơ cho thế hệ sau.
Có người lại khích
tướng: "Tôi coi hết từ đầu tới cuối.. không phản ứng. Chú mày năm 1975
còn bé tí teo, nóng chi vội."
Cá nhân tôi có nhiều
hạn chế, nhưng trước lời khích lệ và "khích tướng" của nhiều người, bước
đầu, tôi phân tích những sai lầm độc hại phim Vietnam War của ông Ken
Burns, và hy vọng, từ đó nhiều vị thức giả có khả năng nhập cuộc. Chúng
ta cần có một cao trào phản đối phim Vietnam War của ông Ken Burns ngõ
hầu trong tương lai khi con em chúng ta lỡ có coi phim tài liệu này thì
con em của chúng ta cũng sẽ biết phim này bị phản đối dữ dội và con em
của chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan điểm mà chúng ta muốn trình bày.
Những Sai Lầm Trong Vietnam War Tập I
của Ken Burns: Tựa đề của tập
phim là Vietnam War thì cần sự phản ảnh thời gian đồng đều cho các bên
tham chiến trong đó có người Mỹ, Bắc Việt, và Việt Nam Cộng Hòa. Tuy
nhiên, Ken Burns dành quá nhiều thời gian cho Mỹ, cho Bắc Việt, còn thời
gian cho quan điểm của Việt Nam Cộng Hòa thì rất ít và nếu có thì chỉ
trình bày những phần không quan trọng hoặc chỉ liên quan đến tầm ảnh
hưởng chiến thuật chớ không nói lên được quan điểm chiến lược.
1. Tựa Đề tập I là Vietnam War từ thời
1858-1961, tức là từ thời chống Pháp Thuộc, ở phút thứ 15, Ken Burns ca
tụng Nguyễn Tất Thành với bút hiệu là Nguyễn Ái Quốc, năm 1919, đã đưa
Bản Kiến Nghị cho phái đoàn của Tổng Thống Woodrow Wilson về vấn đề của
Việt Nam. Thật ra, Phong Trào chống Pháp nổi danh thời gian đó phải nói
đến hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Bản Kiến Nghị mà Nguyễn Tất
Thành đi trao cho phái đoàn của Tống Thống Woodrow Wilson năm 1919 là do
những nhà chí sĩ Việt Nam ở Paris lúc đó viết. Nhóm này gồm có luật sư
Phan Văn Trường, ông Nguyễn Thế Truyền, nhà ái quốc Phan Chu Trinh, và
ông Nguyễn An Ninh, cả nhóm lấy bút hiệu là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Tất
Thành chỉ là "người đưa thư" mà thôi, nhưng sau này Nguyễn Tất Thành
"chôm credit" của cả nhóm và tự nhận mình là "Nguyễn Ái Quốc " từ giây
phút đó. Công trình nghiên cứu sử 30 năm của Ken Burns không đá động gì
đến những người như cụ Phan Chu Trinh, luật sư Phan Văn Trường, ông
Nguyễn Thế Truyền, ông Nguyễn An Ninh, và cụ Phan Chu Trinh thì quả thật
đó là một việc tai hại, vô tình, Ken Burns đã ban chính nghĩa và chính
thống cho Nguyễn Tất Thành.
2. Tiếp theo phút 15, Ken Burns ca tụng
Nguyễn Tất Thành sau đó lấy nhiều bí danh, và bí danh nổi bật nhất là Hồ
Chí Minh. Hồ Chí Minh đã được đánh bóng trở thành người độc thân hy sinh
cả đời cho sự nghiệp cách mạng và độc lập của dân tộc Việt, trổi lên như
một lãnh đạo sáng chói không có ai có thể so sánh được. Tôi bất đồng ở
điểm này một cách sâu sắc vì những tài liệu gần đây của chính Trung Cộng
tung ra cho biết Nguyễn Tất Thành với bí danh Nguyễn Ái Quốc đã chết
trong tù Victoria, Hong Kong, năm 1932, và nhận chỉ thị của Đệ Tam Quốc
Tế Cộng Sản, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã chọn Thiếu Tá Hồ Quang người
Trung Quốc để đóng tiếp vai Nguyễn Ái Quốc và sau này là Hồ Chí Minh, và
vai Hồ Chí Minh cũng có nhiều người đóng chớ không phải một người. Vậy
thì, người mà được gọi là "Hồ Chí Minh" chẳng phải vì tranh đấu chống
Pháp giành độc lập cho Việt Nam, mà chỉ thi hành mệnh lệnh của Đệ Tam
Quốc Tế Cộng Sản, và khi thi hành mệnh lệnh thì có nhiều điều gây tang
thương cho dân tộc Việt. Thật ra, trước năm 1945, chẳng ai biết tên tuổi
"Hồ Chí Minh," nhưng lúc đó người ta biết đến ba nhà ái quốc Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, biết đến những chí sĩ của Việt
Nam Quốc Dân Đảng, biết đến nhà cách mạng Trương Tử Anh sáng lập Đảng
Đại Việt, biết đến nhà cách mạng Nguyễn Hữu Thanh tức ông Lý Đông A.
Pháp sát hại nhà cách mạng Nguyễn Thái Học, còn Hồ Chí Minh và nhóm của
ông ấy bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp để lấy 10 vạn quan tiền, dùng
nhiều thủ đoạn thâm hiểm thủ tiêu hay sát hại những nhà ái quốc khác như
giết Trương Tử Anh và Lý Đông A để ngoi lên độc tôn lãnh đạo chống
Pháp.!!
3. Từ phút 16 trở đi, Ken Burns nói về
tiểu sử của Nguyễn Tất Thành. Những gì Ken Burns nói là bản sao của Đảng
Cộng Sản Việt Nam tuyên truyền. Hồ Chí Minh dùng nhiều ngày sinh giả
mạo, nhưng theo tôi, năm sinh của Nguyễn Tất Thành chính xác nhất là năm
1894 vì theo sổ thông bạ của làng Kim Liên: "Nguyễn Sinh Cung sinh vào
tháng thứ ba năm thứ sáu của Vua Thành Thái." Năm thứ sáu của Vua Thành
Thái tức là năm 1894. Lúc viết sổ bạ này, Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn
Tất Thành hay là Hồ Chí Minh lúc đó chưa là gì hết thì làng Kim Liên
không có lý do gì để giả mạo.
Ken Burns cho rằng cha con Nguyễn Tất
Thành tham gia Phong Trào biểu tình chống Pháp. Tài liệu lịch sử ở trong
Thư Khố Aix-en-Provence cho biết Nguyễn Sinh Huy, cha ruột của Nguyễn
Tất Thành, năm 1910, bị Pháp bãi chức quan huyện Bình Khê tỉnh Quảng Nam
vì say rượu đánh một nông dân tên là Tạ Đức Quang đến chết. Còn nguyên
do Nguyễn Tất Thành rời khỏi nước, ngày 15 tháng 9 năm 1911, từ
Marseille, Nguyễn Tất Thành viết đơn xin học vào Trường Thuộc Địa của
Pháp là muốn học thành tài để phục vụ Mẫu Quốc Pháp tại những thuộc địa,
chớ không phải là chống lại Pháp hoặc "đi tìm đường cứu nước" tranh đấu
giành độc lập cho Việt Nam.
Ken Burns tuyên truyền dùm cho ĐCSVN về
con người Hồ Chí Minh, khi Nhật xâm lăng Việt Nam, từ Trung Quốc, Hồ Chí
Minh đã nhận định Nhật cũng tàn ác như Pháp nên họ Hồ đã kêu gọi "đoàn
kết, đại đoàn kết," và từ đó họ Hồ tìm cách xâm nhập về nước để tranh
đấu.
Sự thật như thế nào?
Năm 1937, tại Quảng Đông, cụ Nguyễn Hải
Thần và ông Hồ Học Lãm thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Ông
Hồ Học Lãm viết văn, dùng bút hiệu Hồ Chí Minh. Hồ Quang, thiếu tá tình
báo của ĐCSTQ, nhận lệnh của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, dưới vỏ bọc Nguyễn
Ái Quốc, lân la làm quen với cụ Hồ Học Lãm. Cụ Lãm lầm tưởng đây là
người Việt lưu vong yêu nước chớ không ngờ đó là người Trung Quốc thi
hành điệp vụ do Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản trao phó nên vui vẻ tiếp nhận.
Sau khi cụ Lãm qua đời năm 1938, Hồ Quang lấy lý lịch của cụ Lãm, dùng
luôn bút danh Hồ Chí Minh. Năm 1940, cụ Nguyễn Hải Thần cứu giúp Hồ
Quang nay đã núp dưới danh Hồ Chí Minh ra khỏi nhà tù của Trung Hoa Quốc
Dân Đảng vì lúc đó Trung Hoa Quốc Dân Đảng rất nghi ngờ Hồ Chí Minh là
đảng viên Cộng Sản. Hồ Chí Minh ma mãnh nịnh bợ cụ Nguyễn Hải Thần và
xin gia nhập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội nên cụ Nguyễn Hải Thần mới
bảo lãnh cho Hồ Chí Minh ra khỏi tù. Tháng 2 năm 1941, Hồ Chí Minh xin
cụ Nguyễn Hải Thần về nước để liên lạc và phát triển Việt Nam Cách Mạng
Đồng Minh Hội. Cụ Nguyễn Hải Thần chấp nhận. Khi ấy, tên tuổi của cụ
Nguyễn Hải Thần và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội rất nổi danh ở Việt
Nam. Hồ Chí Minh về khu rừng Việt Bắc, đánh lận con đen, thành lập Việt
Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Khi ấy dân nghe na ná giống nhau, cứ tưởng
Việt Minh là của cụ Nguyễn Hải Thần, là Quốc Gia, nên nhiều người yêu
nước gia nhập. Năm 1945, khi cướp được chính quyền, Hồ Chí Minh công
khai trở mặt với cụ Nguyễn Hải Thần thì dân mới vỡ lẽ, và từ đó họ gọi
Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội là Việt Cách và Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh Hội là Việt Minh.
Tại khu rừng Việt Bắc, Hồ Chí Minh ngã
bệnh nặng. Thiếu Tá Archimedes Patti của Office of Strategic Services
(OSS), tiền thân của CIA, cùng với một nhóm quân nhảy dù xuống để chăm
sóc chữa bệnh cho Hồ Chí Minh và huấn luyện người của Hồ Chí Minh. Thật
ra, khi ấy OSS cộng tác chặt chẽ với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, và Trung
Hoa Quốc Dân Đảng tưởng Hồ Chí Minh là người của cụ Nguyễn Hải Thần,
chắc là Quốc Gia, nên giới thiệu, và khi Thiếu Tá Patti nhảy dù xuống
thì Hồ Chí Minh nói láo tự nhận là Quốc Gia, nhưng qua sinh hoạt, thiếu
tá Patti nghi ngờ nên đã báo cáo về cho Washington là "nghi ngờ Hồ Chí
Minh là Cộng Sản," nhưng vẫn chọn giúp cho Hồ vì "Hồ nói được tiếng Anh
và nếu là Cộng Sản thì có pha lẫn Quốc Gia."
Năm 1945, khi đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, có
hai nhân viên của OSS tại quãng trường Ba Đình. Phút 26, Hồ Chí Minh đọc
Tuyên Ngôn Độc Lập, không nói đã trích lời văn này từ trong Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ. Thời nay, ai cũng cho rằng đó là tội đạo văn
(plagiarism) rất là ghê tởm. Nhưng ông Ken Burns phớt lờ chi tiết đó, và
ông cho rằng có thể đó là sự ngẫu nhiên xuất phát từ lòng yêu nước của
Hồ Chí Minh mà lúc đó Hoa Kỳ đã không nắm bắt được. Theo Burns, lúc đó
Hoa Kỳ nắm bắt được để móc nối thì có lẽ Hồ Chí Minh đã không ngã về
Liên Xô. Đây quả thật là một quan điểm ngây thơ vì Hồ Chí Minh là gián
điệp của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, ông ấy bề ngoài đóng vai rất hiền hòa
dễ thương, nhưng bên trong là một con quỷ dâm dục và tàn ác, lợi dụng
ai hoặc lợi dụng chuyện gì được thì lợi dụng, cả việc đạo văn để lấy
lòng Mỹ, đừng hòng mà lôi kéo. Cứ lấy vụ cô Nông Thị Vàng ra làm điển
hình, Ban Bảo Vệ Sức Khỏe chọn cô vàng làm "hộ lý" cho Hồ, Hồ quan hệ
tình dục cho đã đời, rồi giao cô Vàng cho Trần Quốc Hoàn đi sát hại để
phi tang.
Chính Lê Duẫn sau này đã tuyên bố: "Ta
đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô" nên ai nghĩ chuyện đấu
tranh chống Thực Dân Pháp của Hồ và của ĐCSVN là sự tranh đấu độc lập
cho nước nhà là một sai lầm to lớn.
4. Năm 1945, người Việt gọi là Năm Đói Ất
Dậu. Thực Dân Nhật ác độc lấy gạo đốt thành than cho xe lửa chạy chớ
không cho dân Việt ăn. Lúc ấy, các đảng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại
Việt Dân Xã Đảng của Lý Đông A, Đại Việt Quốc Dân Đảng kết hợp lại với
nhau thành Đại Việt Quốc Dân Đảng, phát động chiến dịch cướp nhà kho của
quân đội Nhật cứu đói cho dân. Khi ấy, Hồ Chí Minh chưa có thực lực, so
sánh với người Quốc Gia lúc đó thì còn chênh lệch thua kém rất xa. Thế
nhưng ở phút 25, Ken Burns lại không nói gì về các đảng phái Quốc Gia,
lại ca tụng chính Hồ Chí Minh là người lãnh đạo ra lệnh cho các đảng
viên cướp kho lương phân phát cho dân chúng ăn, và theo Ken Burns, Hồ và
đàn em của ông được tung hô là những nhà cứu tinh.
Ngày 9 tháng 9 năm 1945, Trung Hoa Quốc
Dân Đảng phái Đại Tướng Lư Hán và Thiếu Tướng Tiêu Văn hộ tống nhà cách
mạng Nguyễn Hải Thần về Hà Nội. Cụ Nguyễn Hải Thần giờ mới vỡ lẽ họ Hồ
phản phé ông như thế nào. E sợ thế lực của cụ Nguyễn Hải Thần và thế lực
Quốc Gia sẽ lớn mạnh, họ Hồ phát động chiến dịch Tuần Lễ Vàng, huy động
dân chúng đóng góp vàng và dùng số vàng đó đấm mõm cho hai tướng Lư Hán
và Tiêu Văn nhanh chóng trở về Quảng Đông. Hai Tướng Lư Hán và Tiêu Văn
về Trung Quốc rồi thì họ Hồ ra tay tiêu diệt từ từ từng người một của
các đảng phái Quốc Gia.
5. Bước sang phút 28:50, Ken Burns cho
biết các chiến lược gia e ngại Việt Nam mà rơi vào tay Cộng Sản thì sẽ
như con cờ domino đầu bị ngã kéo theo toàn thể Đông Dương, Mã Lai, Nam
Dương, Miến Điện và nhiều nước khác sẽ theo Cộng Sản. Ken Burns còn cho
biết Tổng Pháp lúc đó là Charles De Gaulle kêu cứu Mỹ giúp họ đứng vững
tại Đông Dương, kẻo không Pháp sẽ ngã theo Nga; do vậy, Mỹ đồng ý giúp
Pháp.
Không đúng, từ lâu Mỹ đã có tham vọng
thay thế Pháp ở Đông Dương nhưng tìm cơ hội thuận tiện mà thôi. Vì thế,
sự giúp đỡ gọi là "chừng mực" đó có hai tác dụng: 1. Bề ngoài vẫn lấy
lòng Pháp để Pháp vẫn là đồng minh; 2. Bề trong thì đi đêm để kẻ thù
mạnh lên hất cẳng Pháp như vụ Mỹ cho OSS tiếp cận và huấn luyện đội quân
của họ Hồ tại Pắc Pó. Vậy là Mỹ là "ân nhân" của cả hai.
6. Trận chiến Điện Biên Phủ năm 1954, Ken
Burns ca ngợi Tướng Võ Nguyên Giáp như một thiên tài quân sự. Ken Burns
tuyên truyền còn hơn cả CSVN về khả năng của Võ Nguyên Giáp.
Ngày hôm nay, biết bao tài liệu từ Trung
Cộng, từ nội bộ Đảng CSVN cũng như của những người chống đối đã vạch
trần Võ Nguyên Giáp không hiểu biết gì về quân sự. Phải nói, kiến thức
quân sự của Võ Nguyên Giáp rất là tồi nên chính CSVN cho họ Võ về làm Bộ
Trưởng Bộ Kế Hoạch Sinh Đẻ như một hình thức hạ nhục và Võ Nguyên Giáp
nuốt nhục về nhận bộ này đủ thấy rõ tư cách tồi bại của Giáp.
Có khoảng 11 ngàn quân của Pháp trấn đóng
ở Điện Biên Phủ và họ tin rằng với sự góp sức bằng không lực thì Việt
Minh không làm gì họ được. Pháp quá ngây thơ tin vào sự thành thật của
Mỹ. Họ Hồ khôn hơn nhiều, họ Hồ xin cố vấn của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản.
Nhiều tài liệu nay đã lộ rõ Trung Cộng ở đàng sau kế hoạch và chỉ đạo
cách thức tấn chiếm Điện Biên Phủ. Nhiều tài liệu cho thấy các tướng
tham mưu của Trung Cộng khinh khi kiến thức quân sự của Võ Nguyễn Giáp
ra mặt, họ quyết định dùng chính sách "vây nông thôn lấy thành thị" và
tấn công bất ngờ; và, quan trọng nhất là phải "thí quân." Chiến thuật
"thí quân" là chiến thuật quan trọng nhất vì đạt được 2 mục tiêu: 1.
Dùng biển người để làm thiệt hại quân thù; 2. quân thù thiệt hại thì
quân ta cũng thiệt hại, nhưng quân ta đây không phải là quân chủ lực mà
là "nội thù," nôm na là người Quốc Gia.
"Vây nông thôn lấy thành thị" thì các
tướng tham mưu của Trung Cộng yêu cầu họ Hồ phải kêu gọi toàn dân Việt
tham gia tiến về vây Điện Biên Phủ. "Bất ngờ" thì Trung Cộng chia xẻ cho
biết kinh nghiệm của họ là phải ngụy trang để không quân không thấy gì
hết, ban ngày thì nghỉ, ban đêm thì khởi hành. Còn biển người thì báo
cho "phe chủ lực" phải hô to "anh em tiến lên" nhưng không được tiến
chút nào, để cho những kẻ không phải là chủ lực, nhất là phe đảng phái
Quốc Gia, vì lòng yêu nước, nôn nóng tiến lên trước, chết la liệt cái
đã. Chính vì chiến thuật này mà trong trận Điện Biên Phủ, Pháp thiệt hại
khoảng 8000 người mà Việt Minh (lúc đó cả Quốc Gia lẫn Cộng Sản) đã
thiệt hại gần 50,000 mà đa số là Quốc Gia.
Rất nhiều tài liệu cho thấy Võ Nguyên
Giáp không biết làm gì, lúc thì ra lệnh đưa khẩu pháo ra, bỗng thấy ai
đó to tiếng, vào đàng trong họp, 15 phút sau đó trở ra, ra lệnh đưa khẩu
pháo vào.
Ken Burns không hề tham khảo những ý kiến
trái chiều, ca tụng Võ Nguyên Giáp như một thiên tài quân sự khi Pháp
thất thủ ở Điện Biên Phủ. Nghe qua thấy Võ Nguyên Giáp còn giỏi hơn
Quang Trung Đại Đế!!! Đây là quan điểm mà Ken Burns muốn con cháu của
tôi thấm nhuần thì ... "sorry, it's not my view."
Ở phút 55:53, Ken Burns cho biết Tổng
Thống Dwight Eisenhower, không cần hỏi ý kiến Quốc Hội, đã cho những phi
vụ cứu giúp quân Pháp tại Điện Biên Phủ nhưng cuối cùng Pháp vẫn thua.
Đương nhiên, vì quyền lợi của người Mỹ và theo double standard (tiêu
chuẩn nước đôi), Tổng Thống Mỹ qua nhiều đời, vẫn sử dụng tiêu chuẩn
nước đôi như vậy để đạt tới mục tiêu chiến lược của Mình. TT Dwight
Eisenhower giúp Pháp như chỉ cầm chừng để Pháp vẫn ghi ơn Mỹ, nhưng Pháp
không đủ sức và Pháp thua thì Mỹ mới có cơ hội thay thế Pháp làm "đàn
anh" ở Việt Nam và toàn cõi Đông Dương.
7. Tới biến cố chia đôi nước Việt năm
1954, Ben Kurns không hề nhắc tới đại diện của phe Quốc Gia là bác sĩ
Trần Văn Đỗ phản đối kịch liệt và đã "khóc nức nở như vợ góa trẻ mất
chồng" vì Đất Mẹ phải bị cắt đôi, trong khi đó phe của họ Hồ dửng dưng
đồng ý tức thời vì như thế cho họ cơ hội thời gian củng cố lực lượng
trước khi tấn chiếm toàn thể đất nước chớ không phải lúc đó họ Hồ và
"mọi người tin rằng sau 2 năm có Tổng Tuyển Cử thì họ Hồ sẽ chiến thắng
hoàn toàn."
Điểm mâu thuẫn của Ken Burns đó là "dân
Việt suy tôn Hồ Chí Minh" như vậy thì tại sao sau Hiệp Định Geneva, dân
Việt cả triệu người bỏ cả ruộng vườn nhà cửa để di cư vào Nam? Ken Burns
có nhắc đến biến cố này, nhưng ông còn quên chưa nhắc đến Cộng Sản VN
tìm bằng mọi cách ngăn chận dân di cư, còn có những vụ nổi dậy của dân
như vụ Quỳnh Lưu. Nếu không có sự ngăn chận và hăm dọa của CSVN thì dân
di cư vào Nam không phải là 1 triệu mà nhiều triệu người.
8. Ken Burns nói đến ông Ngô Đình Diệm về
chấp chánh năm 1954 và những khó khăn ông Diệm gặp phải với Quân Đội
Bình Xuyên là phần còn sót lại của quân Pháp. Burns không nhắc đến
những khó khăn khác như Quân Đội của các giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo.
Ken Burns cho rằng có những báo cáo không nên ủng hộ ông Diệm, nhưng bất
thần ông Diệm tấn công dẹp Bình Xuyên cách ngon lành trong 1 tuần nên Mỹ
không còn sự lựa chọn nào khác phải ủng hộ ông Diệm là "một người đa
nghi chỉ tin anh em mình" nên cuối cùng ông Diệm đã phải bị giết chết.
Thật ra ông Diệm bị giết chết không phải
vì lý do đó. Lý do đơn giản đó là Hoa Kỳ muốn ông Diệm phải nhường cảng
Cam Ranh cho họ đưa quân vào làm chủ tình hình như Hoa Kỳ lúc đó hoàn
toàn khống chế Subic Bay ở Phi Luật Tân. Các nhà đại tư bản của Hoa Kỳ,
nhất là các công ty chuyên về vũ khí, muốn kích động một cuộc chiến để
giải quyết tất cả các vũ khí còn tồn đọng ở Đệ Nhị Thế Chiến, họ muốn
dùng Việt Nam là bãi tha ma để thải vũ khí đó.
Thí dụ, vụ USS Maddox ở Vịnh Bắc Bộ vào
tháng 8 năm 1964. Lúc đầu Hoa Kỳ hô hoán lên hải quân CSVN ngụy trang là
các tàu đánh cá tấn công hạm đội USS Maddox để rồi Mỹ phải đánh trả rồi
chính thức đưa quân hàng loạt vào Việt Nam. Mãi tới năm 2005, tài liệu
của National Security Agency (NSA) giải mã cho biết chả có lính hải quân
nào của Cộng Sản Bắc Việt dám đùa dỡn hay tấn công USS Maddox, mà đây
chỉ là sự giàn dựng của Hoa Kỳ để đưa quân vào Việt Nam.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm không muốn dân
Việt là nạn nhân của vụ sa thải vũ khí tồn đọng hoặc là nơi để thử những
vũ khí mới, thế là Hoa Kỳ dàn dựng một lô sự kiện nào là "đàn áp Phật
Giáo," nào là "độc tài gia đình trị," v.v., để rồi, năm 1963, qua nhân
viên tình báo CIA Lucien Conein ra lệnh cho Tướng Trần Thiện Khiêm và
Dương Văn Minh phải lật đổ ông Diệm. Các vị tuớng trong Hội Đồng Quân
Nhân Cách Mạng mà theo lời Tổng Thống Lyndon Johson, "thugs," tức là
"bọn cướp sát nhân," đã đảo chính và sát hại hai anh em Ngô Đình Diệm và
Ngô Đình Nhu vì e sợ "nếu hai ông còn sống thì sau này có thể lật ngược
thế cờ thì mấy ông Tướng này không còn đường trốn chạy."
9. Nói về chuyện Tổng Thống Ngô Đình Diệm
từ năm 1956 trở đi chuẩn bị xây dựng quân đội mạnh lên để chống sự xâm
lăng của Bắc Việt, Ken Burns cho rằng điều đó không cần thiết vì lúc đó
Hồ Chí Minh chủ trương tái kiến thiết và xây dựng lại Bắc Việt mà trong
đó có những sai lầm của Đấu Tố Ruộng Đất. Ken Burns cho rằng chủ trương
xâm lăng Nam Việt Nam là của Lê Duẫn. Đây là một sự bẻ cong, bóp méo
lịch sử để chạy tội cho họ Hồ cách rẻ tiền.
Sự thật như thế nào?
Vụ Đấu Tố Ruộng Đất xảy ra từ năm 1953
đến năm 1956. Chuyện này xảy ra trước khi ông Ngô Đình Diệm về nước nhận
chức Thủ Tướng. Hồ Chí Minh nhận lệnh của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, bắt
chước mô hình của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, phát động chiến dịch Đấu
Tố Ruộng Đất với nhiều mục đích: 1. Triệt hạ những người có công vì sợ
nạn kiêu binh; 2. Cơ hội cướp của để có ngân sách cho Đảng CSVN nói
riêng và cho chính phủ của họ Hồ nói chung; 3. Gây hoang mang lo sợ để
từ đó thiết lập công an trị. Sau khi có ngân sách, để trấn an dân chúng,
Hồ Chí Minh đóng vai mèo khóc chuột, rút ưu khuyết điểm và mang Trường
Chinh Đặng Xuân Khu ra làm dê tế thần nhận khuyết điểm sai lầm rồi hạ
chức nhưng vẫn còn một số thực quyền. Cải Cách Ruộng Đất, Hồ giết chết
từ 50,000 đến 100,000 trong đó có bà Cát Long là một đại ân nhân của Hồ.
Từ năm 1956 đến năm 1959, CSVN phát động
chiến dịch bắt bớ giam cầm những tiếng nói đối lập mà CSVN e sợ những
đảng viên của các đảng phái Quốc Gia còn ở lại. Bề ngoài là vụ Nhân Văn
Giai Phẩm để trấn áp những nhà thơ, nhà văn nhưng bên trong là bắt bớ
tiêu diệt cho tận gốc rễ những người mà họ Hồ nghi rằng là "còn sót lại"
của đảng phái Quốc Gia. Trước khi mở chiến dịch xâm lăng miền Nam, họ Hồ
muốn triệt tiêu cho tận cùng những người đối lập để an lòng mà xâm chiếm
chớ không phải họ Hồ lo "kiến thiết và xây dựng lại miền Bắc" như quan
điểm của Ken Burns.
10. Nói đến sau cuộc
đảo chính Tổng Thống Diệm năm 1963, Ken Burns cho rằng các tướng lãnh và
quân đội VNCH "tham nhũng và lười biếng" đến độ Tổng Thống Lyndon
Johnson nổi giận phát biểu bằng mọi giá phải ép QLVNCH ra chiến trường
chiến đấu. Năm 1964, Bộ Trưởng McNamara đến Việt Nam với sứ vụ tuyên bố
Đại Tướng Nguyễn Khánh là "our boy" của Mỹ nhưng vì "Nguyễn Khánh" không
có uy tín nên bị lật đổ và sau đó trong vòng 1 năm Nam Việt Nam đã thay
đổi 9 chính phủ.
Không biết quý vị, nhất là quý tiền bối,
nghĩ sao chớ tôi cảm thấy họ nhục mạ Việt Nam Cộng Hòa và QLVNCH tới mức
không thể nhục mạ hơn được nữa. Như vậy, Đệ Nhị VNCH chỉ là "boy," là
công cụ trò chơi của Mỹ mà thôi, và như vậy, CSVN nói "VNCH là nguỵ quân
ngụy quyền tay sai cho Mỹ" thì đúng quá rồi.!!!!
Đau lòng khi quá ít người ở trong Đệ
Nhị VNCH lên tiếng phản đối quan điểm này. Và như vậy, CSVN tiến chiếm
Việt Nam Cộng Hòa thì quá đúng rồi?!!
11. Phần mở đầu và phần cuối tập I, Ken
Burns cho rằng Vietnam War là câu hỏi không có câu trả lời, người này đổ
lỗi cho kẻ nọ, không ai trả lời nổi tại sao Hoa Kỳ thua. Điều này hoàn
toàn sai.
Trong bài "Sau 40
Năm Bí Mật" viết vào năm 2011, tôi đã cho quý đồng hương biết rõ ông
Daniel Ellsberg gốc Do Thái (sinh ngày 7 tháng 4 năm 1931), là nhân
viên của Research and Development (viết tắt là Rand), một công ty cánh
tay tình báo của Hoa Kỳ, đã theo dõi từ đầu và tiết lộ Henry Kissinger
đi đêm với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông năm 1971-1972 để bán đứng VNCH
và Đài Loan. Chính vì áp lực những tiết lộ của Danel Ellsberg nên năm
2011, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chính thức tiết lộ 25,000 trang giấy cho biết
Mỹ đã bán đứng VNCH và Đài Loan để đổi lấy giao thương với Trung Cộng
hơn 1 tỷ dân mà Mỹ cho rằng thương trường đông dân này có lợi hơn cho Mỹ
cũng như để kích động cho Khối Cộng Sản mâu thuẫn lẫn nhau từ đó đưa
đến cảnh huynh đệ tương tàn.
Chính vì lý do này mà Mỹ đã làm ngơ cho
Trung Cộng xâm chiếm Hoàng Sa năm 1974, dầu rằng lúc đó Hải Quân VNCH
kêu cứu hạm đội 7 của Hoa Kỳ cứu giúp về nhân đạo, họ vẫn làm ngơ không
giúp đỡ. Đó là món quà ra mắt tặng cho Trung Cộng của chính phủ Nixon -
Henry Kissinger.
Chính vì lý do này mà nhiều tài liệu từ
bên phía CSVN lẫn Hoa Kỳ cho biết sau khi Tổng Thống Richard Nixon cho
B52 "trải thảm đỏ" Hà Nội, đặc biệt là Phố Khâm Thiên của Hà Nội mùa
Giáng Sinh năm 1972, đầu năm 1973, Lê Duẫn đánh điện gởi Bộ Ngoại Giao
Hoa Kỳ, gởi cho Henry Kissinger, tín điện đầu hàng, nhưng Henry
Kissinger dấu nhẹm vì Chiến Tranh Việt Nam là chiến tranh Hoa Kỳ không
có chiến thắng, dùng sự thắng trận của CSVN để phân hóa Trung Cộng và
Liên Sô, từ đó tạo nên sự phân rã của khối này.
Hoa Kỳ đã thua chiến thuật nhưng thắng
chiến lược, y như thí xe để sát tuớng đối phương, thắng cả bàn cờ. Tại
sao Ken Burns không dám nhắc đến điều này?
Phim Vietnam War và mặt trái đàng sau
Lữ Giang
Hôm 17.9.2017, kênh truyền hình PBS của
Mỹ bắt đầu chiếu bộ phim có tên là “The Vietnam War” (Chiến tranh Việt
Nam) gồm 10 tập dài 18 tiếng với một khối hình ảnh đồ sộ, do hai đạo
diễn nổi tiếng người Mỹ là Ken Burns và Lynn Novick thực hiện. Hai nhà
đạo diễn này cho biết họ đã bỏ ra khoảng 10 năm để đọc các tài liệu liên
hệ đến chiến tranh Việt Nam và phỏng vấn các nhân chứng để thực hiện bộ
phim này.
Chỉ mới xem hai tập đầu, nhiều người Việt
hải ngoại đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ, cho rằng qua bộ phim này, hai
nhà đạo diễn nói trên đã trình bày không trung thực những gì đã thật sự
xầy ra trong cuộc chiến Việt Nam. Rất nhiều sai lầm của bộ phim đã được
nêu ra, đa số là phần mô tả về phía CSVN.
Image result for The Vietnam War film,
Pictures
Nhiều người Việt đã từng chiến đấu với Mỹ
trong suốt 20 năm, đã sống trên đất Mỹ trên 40 năm và đã trải qua nhiều
thăng trầm trong cuộc chiến, nhưng cho đến nay vẫn còn tin rằng “Mỹ
chống cộng và bảo vệ nhân quyền”, và Mỹ vẫn là “đồng minh của ta”. Sự
thật bây giờ hoàn toàn khắc hãn.
VÀI LỐI NHÌN CỦA NGƯỜI MỸ
1.- Quan điểm của học giả Spyridon
Mitsotakis
Ngày 18.9.2017, Spyridon Mitsotakis, một
học giả trẻ của Mỹ, sau khi xem 2 tập, đã viết bài “Ken Burns' Vietnam:
Episode 1. Very Good, But 2 Omissions” (Việt Nam của Burns: Tập 1 rất
tốt. Nhưng tập 2 thiếu sót) đăng trên trang nhà dailywire, nói rằng Ken
Burns đã tốn nhiều công để đọc cái đống tài liệu to như núi có tính
tuyên truyền và đơn giản hóa theo phong cách Howard Zinn của những người
chống chiến tranh trước đây, nên đã đưa ra những nhận xét khách quan
hơn, chẳng hạn như Mỹ chỉ miễn cưởng ủng hộ Pháp sau khi Cộng sản nắm
quyền kiểm soát ở Trung Quốc, còn Cộng sản Việt Nam, trên thực tế, là
những người cộng sản. Họ không phải là "những người theo chủ nghĩa quốc
gia bị bắt buộc phải rơi vào vòng tay của Liên Xô". Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam không phải là một lực lượng độc lập… Còn những
chuyện Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã làm trong thời kỳ chống Pháp, có
nhiều chỗ nói không đúng.
Theo ông, Mỹ đã tiếp tục gây áp lực để
Pháp cam kết chấm dứt chủ nghĩa thực dân và mở đường cho chính phủ tự
trị ở Đông Dương trong tương lai. Pháp phải điều đình và ký hiệp định
Geneve 1954 là vì thất trận ở Điện Biên Phủ. Cả Hoa Kỳ và Nam Việt Nam
đều không tham gia hiệp định đó.
Giáo sư Turner, Viorst và McGovern có
tham gia ý kiến, nhưng toàn là những chuyện lẩm cẩm.
2.- Cách nhìn của Peter Zinoman, Giáo sư
Lịch sử và Đông Nam Á Học
Ngày 19.9.2017, đài BBC đã phổ biến bài
“Thấy gì từ tập đầu phim The Vietnam War?” của Peter Zinoman, Giáo sư
Lịch sử và Đông Nam Á Học, Đại học California ở Berkeley, cho rằng các
bộ phim trước đó đều kể về một câu chuyện đặc trưng và rõ ràng với quan
điểm "Nước Mỹ trên hết." Nhưng với cuộc chiến ở Việt Nam, chúng ta có
thể biện luận rằng người Việt xứng đáng đóng vai chính trong câu chuyện.
Xét cho cùng, từ 1 đến 3 triệu người Việt đã bỏ mạng trong chiến tranh,
lớn hơn rất nhiều (gấp từ 20 đến 60 lần) con số khoảng 58.000 người Mỹ
chết trong cuộc xung đột. Thế nhưng, ý đồ lấy Mỹ làm trọng tâm không hề
giấu giếm trong Vietnam War được thể hiện rõ ngay trong 3 cảnh mở màn
giới thiệu phần 1 của bộ phim tài liệu 10 tập này. Cảnh đầu tiên tả
những người lính Mỹ tham chiến, cảnh thứ hai cho thấy một cuộc diễu binh
của quân đội Mỹ, và cảnh thứ ba là lời bình luận của cựu chiến binh Mỹ
Karl Marlantes. Bài hát Hard Rain của Bob Dylan làm nền nhạc kết thúc
phần một càng báo hiệu rõ hơn nữa xu hướng “dĩ Mỹ vi trung" làm điểm
tham chiếu.
Theo tác giả, tập đầu vẽ lại lịch sử hiện
đại Việt Nam như một bức biếm họa, trong đó sự áp bức của thực dân Pháp
chỉ bị thách thức bởi sự xuất hiện của Hồ Chí Minh, nhân vật có tinh
thần quốc gia duy nhất trong thời thuộc địa đã được đề cập đến, trong
khi vô số các lực lượng đối lập với Hồ Chí Minh trong phong trào chống
thực dân rộng lớn hơn, bao gồm các phe quốc gia, phe lập hiến, phe
Trotskyists, phe cộng hòa, phe bảo hoàng, phe phát xít và phe tân truyền
thống. (Những tên này nghe rất lạ!).
Về Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm, tác giả
cho rằng Hồ Chí Minh, người được mô tả trong tập đầu, ít nhất là một
phần nào đó, qua cách nhìn của người Việt, còn Ngô Đình Diệm chỉ được
giới thiệu qua lời của giới chức Mỹ (ông "kiêu căng" và "ngạo mạn" một
"đấng cứu thế không có thông điệp"). Mặc dù ông cầm quyền suốt gần 10
năm trong những hoàn cảnh vô cùng bấp bênh, tập phim đầu thể hiện rất ít
sự quan tâm tới việc người dân Việt ở Miền Nam Việt Nam nghĩ gì về ông.
Cuối bài, tác giả nhận xét: Phần về phía
Mỹ cảm động, sâu, đa diện - 8/10. Phần về phía Việt Nam quá hời hợt và
phiến diện, may ra được 4/10. Đạo diễn phim tài liệu số 1 nước Mỹ làm
phim này trong 10 năm mà chỉ có thế thì chưa đạt yêu cầu."
Đài RFI của Pháp ngày 22.9.2017 với đầu
đề “Đạo diễn ‘Vietnam War’ hy vọng hàn gắn vết thương chiến tranh tại
Mỹ” đã nhận xét rằng mong muốn của đạo diễn Ken Burns, được xem là bậc
thầy về phim tài liệu, khi bỏ ra đến 10 năm và đầu tư đến 30 triệu đôla
để thực hiện bộ phim đồ sộ này, cũng là nhằm hàn gắn vết thương chiến
tranh tại Hoa Kỳ, nơi mà thảm bại Việt Nam vẫn còn ám ảnh nhiều người.
Xem qua các tập phim, chúng tôi không
nghĩ rằng Ken Burns và Lynn Novick thực hiện bộ phim này để “hàn gắn vết
thương chiến tranh” mà chỉ nhắm yểm trợ chủ trương mới của Hoa Kỳ là
biến CSVN thành “đồng minh” thay thế VNCH trước đây.
LỐI NHÌN CỦA MỘT SỐ NGƯỜI VIỆT
Người Việt ở trong và ngoài nước cũng có
góp ý rât nhiều về bộ phim này, nhưng cả hai bên, đa số (kể cả những
người có bằng tiến sĩ thật) vẫn chưa bỏ được “truyền thống dân tộc” là
chỉ viết “CÁO TRẠNG” (accusation) hay “BIỆN MINH (defense) chứ không
viết những bài phân tích theo phương pháp khoa học. Bằng chứng thường là
một nữa sự thật với kết luận bao giờ cũng là “TA ĐÚNG ĐỊCH SAI” hay “TA
THẮNG ĐỊCH THUA”, nên chưa đọc chúng ta cũng có thể biết kết luận như
thế nào rồi.
Image result for pictures of vietnam war
Luật sư Hoàng Duy Hùng cho rằng Ken Burns
dành quá nhiều thời gian cho Mỹ, cho Bắc Việt, còn thời gian cho quan
điểm của Việt Nam Cộng Hòa thì rất ít và nếu có thì chỉ trình bày những
phần không quan trọng hoặc chỉ liên quan đến tầm ảnh hưởng chiến thuật
chớ không nói lên được quan điểm chiến lược. Chính Lê Duẫn sau này đã
tuyên bố: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô" nên ai
nghĩ chuyện đấu tranh chống Thực Dân Pháp của Hồ và của ĐCSVN là sự
tranh đấu độc lập cho nước nhà là một sai lầm to lớn.
Trong buổi nói chuyện Bàn tròn với BBC
tiếng Việt, cựu đạo diễn blogger Song Chi đã chia sẻ nhận định của bà về
bộ phim Chiến tranh Việt Nam như sau:
"Vẫn là cái nhìn của người Mỹ về Việt
Nam. Bộ phim tư liệu phỏng vấn nhiều người khác nhau, tuy nhiên cả ba
phe đều thấy những điểm không hài lòng."
Nhà văn Trần Mai Hạnh, cựu phóng viên
chiến tranh, đã có quan điểm khách quan hơn khi nói với BBC:
"Tôi nghĩ những sự kiện lịch sử chỉ diễn
ra có một lần, cũng như đời người chỉ sống có một lần. Thời gian càng
trôi xa, các sự kiện càng bị lớp bụi thời gian phủ mờ."
"Người ta rất dễ giải thích theo cái quan
điểm của mình, hoặc đề cao quá mức, hoặc là thanh minh, hoặc là giải
thích lại theo ý của mình những sự kiện lịch sử. Tôi quan niệm rằng
cái quan trọng nhất của lịch sử chính là sự thật. Sự thật là món quà
vô giá của Thượng đế trao cho con người. Nhìn từ phía nào cũng thế, phía
người chiến thắng là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày ấy hay phía bại
trận là phía Việt Nam Cộng hòa và phía Hoa Kỳ, nhìn ở góc độ nào
cũng được, nhưng cuối cùng nó phải là sự thật."
Hôm 25.9.2017, đài BBC đã đăng bài “'The
Vietnam War' và khi Hoa Kỳ vào VN” của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, đặc
biệt nhấn mạnh đến những thiếu sót của cuốn phim khi đề cập về Đệ I
VNCH. Tôi đã đọc cuốn “Khi Đồng minh nhảy vào” của ông xuất bản năm
2016. Mặc dầu đã có những công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy ông
không phải là người đi với thời cuộc nên không nhận ra được trong đống
tài liệu đó việc Mỹ đã xây dựng rồi phá sập chế độ Đệ I VNCH như thế nào
để có thể đổ quân vào Việt Nam. Đây là vấn đề chúng tôi sẽ nói trong một
bài khác.
NHỮNG TÀI LIỆU RẤT QUAN TRỌNG
Việc làm của hai nhà đạo diễn Ken Burns
và Lynn Novick chỉ là một hình thức ráp nối một số sự kiện được chọn lựa
để vẽ lại lịch sử theo đơn đặt hàng. Muốn viết lịch sử một cách trung
thực phải có tầm nhìn khách quan về mục tiêu, chiến lược và chiến thuật
của Mỹ khi mở cuộc chiến ở Việt Nam, và phải căn cứ vào các tài liệu
lịch sử được công nhận là có giá trị. Quan điểm của một số cá nhân được
phỏng vấn không phải là sử liệu.
Chính quyền CSVN không hề công bố đầy đủ
các tài liệu liên quan đến cuộc chiến về phía họ, Cuốn “Tổng kết cuộc
Kháng chiến chống Thực dân Pháp thắng lợi và bài học” cũng như hai tập
“Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ Cứu Nước 1954 – 1975” của đảng CSVN chỉ là
những tài liệu tuyên truyền, trong đó nói phét quá nhiều. Chính phủ VNCH
cũng không công bố tài liệu lịch sử của cuộc chiến. Chỉ có một số cá
nhân công bố một số tài liệu mà họ biết do vai trò của cá nhân. Cả hả
hai bên đếu viết theo định hướng “TA THẮNG ĐỊCH THUA” nên thiếu khách
quan. Đó chỉ là thứ lịch sử giả tưởng, lịch sử được vẽ lại, chứ không
phải là lịch sử thật.
Chỉ có Chính phủ Hoa Kỳ công bố các tài
liệu lịch sử sau khi chiến tranh kết thúc. Trước hết là bộ THE PENTAGON
PAPERS (Tài liệu của Ngũ Giác Đài) có tên chính thức là "Report of the
Office of the Secretary of Defense Vietnam Task Force", xuất hiện năm
1971, đến năm 2011 được giải mã toàn bộ và chính thức công bố. Tiếp theo
là bộ “FOREIGN RELATIONS OF THE UNITED STATES” (Quan hệ Đối ngoại của
Hoa Kỳ) do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lần lượt xuất bản gồm rất nhiều tập từ
1950 đến 1975. Sau đó là hàng đống tài liệu được lần lượt giải mã và
công bố tiếp theo. Số tài liệu về cuộc chiến VN của Mỹ lên trên 150.000
trang.
Ngoài các tài liệu nói trên, có ba cuốn
hồi ký của ba nhân vật chủ chốt có thể giúp hiểu rõ hơn chính sách của
Mỹ đã được thực hiện như thế nào tại Việt Nam:
1.- In the midst of wars (Giũa lúc cuộc
chiến) của Đại tá Edward G. Lansdale, người đã được OSS (tức CIA sau
này) phái đến để giúp Tổng Tống Ngô Đình Diệm bình định và xây dựng một
chế độ mạnh để chống Cộng. Chính ông là người thừa hành lệnh của
Washington, giúp ông Diệm dẹp các giáo phái, thống nhất quân đội, truất
phế Bảo Đại và xây dựng một đảng phái mạnh gióng Trung Hoa Quốc Dân Đảng
của Tưởng Giới Thạch. Ông cũng là người phản đối Đại sứ Elbridge Durbrow
được Washington phái đến Nam Việt Nam để phá sập chế độ Ngô Đình Diệm và
đổ quân vào. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng không nhận ra các tài liệu này.
2.- In Retrospect the Tragedy and Lessons
of Vietnam (Nhìn lại Thảm kịch và Những bải học của Việt Nam) của Robert
S. McNamara, Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ, cho biết cuộc chiến đã được lệnh
điều hành như thế nào.
3.- Decent Interval (Một khoảng cách Vừa
phải) của Frank Snepp, Trưởng Phân Tích Chiến Lược của CIA tại Sài Gòn,
nói rõ kế hoạch Mỹ bỏ Miền Nam như thế nào. Cả CSVN cũng như VNCH không
hay biết gì về kế hoạch này nên CSVN đã nướng quá nhiều quân trọng vụ
Tết Mậu Thân năm 1968 và trong vụ Cổ thành Quảng Trị năm 1972 một cách
vô ích, còn VHCH để mất Miền Nam chỉ trong vòng 40 ngày.
Vì Mỹ là nước chủ động trong cuộc chiến
Việt Nam nên nếu không đọc những tài liệu chính thức do chính phủ Hoa Kỳ
công bố, không thể biết chính xác mục tiêu của cuộc chiến là gì, nó đã
diễn biến qua từng giai đoạn như thế nào và kế hoạch kết thúc cuộc chiến
đó ra sao. Trước đây, Hà Nội biết rất ít về các tài liệu này nên nói
phét rất thoải mái, nay đang bắt đầu tìm hiểu, nhưng chưa dám xử dụng vì
nó khác xa với những gì Hà Nội đã mô tả.
CON DƯỜNG MỸ ĐANG ĐI TỚI
Những sự kiện lịch sử chúng tôi vừa đưa
ra cho thấy Mỹ đã đi vào và rút ra khỏi chiến tranh Việt Nam bằng những
chiến lược và chiến thuật được tính toán rất tỉ mỉ và chính xác. Câu hỏi
được đặt ra là tại sao bây giờ Mỹ phải cho vẽ lại một lịch sử chiến
tranh với rất nhiều điểm trái với sự thật lịch sử?
Image result for pictures of vietnam war
in color
Lord Palmerston (1784 – 1865), Thủ tướng
Anh, đã từng nói một câu bất hủ: “Nations have no permanent allies or
enemies, only permanent interests.” (Các quốc gia không có các đồng minh
hay kẻ thù mãi mãi, chỉ có các quyền lợi mãi mãi).
Cựu Ngoại Trưởng Kerry đi thẳng vào thực
tế: “Không ai có thể hình dung ra đất nước Việt Nam như ngày hôm nay.
Việt Nam, một cựu thù của Mỹ, bây giờ lại là một đối tác có mối quan hệ
nồng ấm với Mỹ, trên cả bình diện con người lẫn quốc gia”
Như vậy Mỹ đang biến “cựu thù” thành
“đồng minh” và “đối tác có mối quan hệ nồng ấm với Mỹ” để dùng CSVN làm
lá chắn ngăn chận Trung Quốc tràn xuống Đông Nam Á, nên Mỹ phải vẽ lại
lịch sử chiến tranh Việt Nam khi giao cho “cựu thù” CHXHCNVN đóng vai
trò của VNCH trước năm 1975. Dĩ nhiên, Hà Nội biết rất rõ chiến lược và
thủ đoạn này của Mỹ, nhưng tương kế tựu kế, chơi trò bắt cá hai tay để
thủ lợi. Nếu có điều gì bất trắc, họ sẽ quay lại với Trung Quốc.
Khi Mỹ thay thế VNCH bằng CHXHCNVN, liệu
người Việt đấu tranh có thể tiếp tục xử dụng cuốn “Quốc Văn Giáo Khoa
Thư Chống Cộng” hiện nay để “giải phóng quê hương” được không? Câu trả
lời là KHÔNG. Muốn “giải phóng quê hương” không phải chỉ chống Cộng mà
còn phải “chống Mỹ cứu nước” nữa, vì Mỹ đang đứng trên cùng một chiến
tuyến với CSVN.
Nếu ngày 3.11.2015, qua kênh truyền hình
PBS Hoa Kỳ đã ném cuốn phim “Terror in Little Saigon” do nhóm ProPublica
and Frontline thực hiện lên đầu Đảng Việt Tân, một tổ chức chống cộng
của người Việt đấu tranh được Mỹ bí mật hổ trợ, để ra lệnh lui binh, thì
hôm 17.9.2017, cũng qua kênh truyền hình PBS, Mỹ cho phổ biến bộ phim
“The Vietnam War” do hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick thực hiện, để
nói cho người Mỹ và thế giới biết con đường mà nước Mỹ đang đi tới để
tùy nghi thay đổi chiến thuật. Ai không thích ứng kịp mà lâm nạn thì tự
lo liệu lấy. Con đường Mỹ thì Mỹ cứ đi. Chính trị là như thế.
Ngày 28.9.2017
Lữ Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét