Người dân Mỹ biết taị sao họ tham chiến ở Pearl Harbor năm 1941, ở Triều
Tiên năm 1950. Nhưng hình như họ không hiểu tại sao xứ họ lún vào “vũng
lầy” chiến tranh Việt Nam từ 1954 đến 1975. Từ chiến trưòng Việt Nam xa
xôi, quan tài liên tiếp trở về. Khi nốt nhạc chiêu hồn còn đang lơ lửng,
bên nấm mồ phủ hoa và lá cờ đầy kịch tính, gia đình tử sĩ giật mình “Sự
thật ở đâu? Ngưòi anh hùng không toàn thây kia nằm xuống cho ai?” Tướng
McArthur nói “Old soldiers never die; they just fade away/Ngưòi lính già
không chết; họ chỉ nhạt dần đi”. Có lẽ phải thêm “Soldiers never lose,
but are betrayed/ Người lính không bao giờ thua trận/họ chỉ bị phản
bội”.
Cựu quân nhân Việt Mỹ giống nhau một điểm: ồn ào nhận thua trận mà quên
rằng:
Chỉ cấp lãnh đạo mới thua trận!
Chỉ cấp lãnh đạo mới phản bội!
Nhưng cấp lãnh đạo chiến tranh Việt Nam là ai?
Lúc người dân Mỹ khám phá ra rằng khi chấp nhận chiến tranh thì phải
chấp nhận hy sinh nhưng Hồng Y Spellman chỉ muốn ngườì “hy sinh’ cho
ngài, họ bắt đầu biểu tình trưóc nhà thờ St. Patrick và tư dinh của ngài
ở New York. Lần đầu tiên tên một hồng y được đặt tên cho cuộc chiến,
“Spellman’s War.” Những bài viết cay đắng về ngài khá nhiều. Có một điều
người dân Mỹ “cay đắng” về cuộc chiến Việt Nam: đang từ một dân tộc anh
hùng kiểu “vì dân diệt bạo”, họ trỏ thành hiếu chiến hiếu sát, trong khi
đó, Vatican được tiếng là rao giảng hoà bình. Ý kiến của một cựu chiến
binh “Hơn 58,000 lính Mỹ không biết rằng họ chết ở Việt Nam cho Giáo Hội
Ki-tô. Không đi lính, thì đi tù 5 năm. Biết vậy, tôi không đăng lính năm
1968. Tôi sẽ đi biểu tình chống chiến tranh và ngồi tù trong danh dự để
thách đố nhũng láo khoét của chính phủ về tình hình VN.”
Điều đau của quân nhân Mỹ-Việt, từ tướng cho đến quân trong cuộc chiến
ViệtNam: đào ngũ thì bị tù, muốn đánh cũng không đuợc, muốn thua cũng
không xong, muốn thắng lại càng khó! Chết uổng đời, sống bị phỉ nhổ! Khi
siêu quyền lực muốn kéo dài chiến tranh để tiêu thụ võ khí, thì xác
người chỉ là con số, Việt Nam là nấm mồ, chôn ai không cần biết.
Trong 28 năm làm hồng y, hồng y Spellman trực tiếp can dự vào cuộc chiến
Việt Nam suốt 13 năm – từ 1954 đến 1967. Tuy có tới hơn ba triệu Người
Việt-Mỹ chết “Cho Ngài, Do Ngài và Vì Ngài”, mặc dù tên tuổi của ngài
hình như còn rất xa lạ với người mình, ngoại trừ một số du học sinh ở
Úc, Mỹ… những năm 1960, bật TV lên là thấy ngài.
Nhưng hồng y Spellman là ai?
Francis Spellman
Truyền thông Hoa Kỳ ghi chép đầy đủ cuộc đời và sự nghiệp hồng y
Spellman (1989-1967). Quan điểm của những tác giả độc lập này khá khách
quan, khi chỉ muốn tìm ra “sự thật”, tìm ra “mục tiêu tối thưọng” cuả sự
việc. Họ không tìm cách bào chữa/tâng bốc/đạp đổ nhân vật, mà chỉ phân
tích mục tiêu cho cho ra lẽ. Tác giả Avro Manhatttan còn cẩn thận viết
“Đề cập đến “giáo hội Ki-Tô” cuốn sách của tôi không nhắm đến những tín
đồ thuần thành, không biết chút xíu gì về những âm mưu toan tính nói
trên, chỉ nói đến giới lãnh đạo cao cấp ở Vatican và những tu sĩ Dòng
Tên”.
Bài viết này chỉ nhặt những chi tiết có liên quan xa gần tới chiến tranh
Việt Nam, còn những sự việc khác như ngài là người đồng tính
(homosexual), chiếm giải quán quân trong việc phát triển giáo hội qua
việc xây dựng trường học Công giáo trên toàn thế giới, thành công vượt
bực trong kinh doanh “Knights of Malta”, thiết lập Ratlines giúp đám
Nazis Đức Quốc Xã chạy trốn, thành tích quậy phá các xứ Trung Mỹ…không
liên quan gì đến vận mệnh ngườì Việt cả.
Có thể nói đường hoạn lộ cuả ngài thẳng băng như một cây thước kẻ.
1. Về tôn giáo:
Năm 1911, chủng sinh Spellman/dòng Jesuits (tức dòng Tên), 22 tưổi tu
học ởRome được hân hạnh kết bạn rất thân với Hồng Y Eugenio Pacelli.
Hồng y gọi yêu cậu là “Frank hay Franny”. Trong 7 năm, hồng y Pacelli đi
khắp thế giới đều mang Frank theo, từ leo núi Alps đến bãi biển Hy Lạp.
Tháng 7-1932, Frank đưọc phong làm giám mục giáo phận Boston, thủ đô
tiểu bang Massachssetts.Chính hồng
y Pacelli, lúc đó là bộ trưởng ngoại giao, tấn phong cho Frank trong một
buổi lễ trọng thể cử hành ở đền thờ Thánh Phêrô/St. Peter’s Basilica ở
Vatican, Frank mặc aó lễ màu vàng chói mà hồng y Pacelli mặc năm xưa.
Lần đầu tiên một giám mục Hoa Kỳ được hân hạnh này, giáo dân Boston nở
nang mặt mũi.
Tháng 3-1939, hồng y Pacelli được bầu làm gíao hòang Pius XII. Đúng tám
tuần lễ sau, giáo hoàng Pius XII phong cho Spellman làm tổng giám mục
New York, giáo phận giầu có nhất Hoa Kỳ. 20 năm sau, hồng y Spellman
biến New York thành giáo phận giầu nhất thế gìới. Cùng năm 1939,
Spellman đuợc phong chứctổng tuyên úy quân đội: cái vé tối danh dự đặt
giám mục Spellman trên đỉnhmạng lưói siêu quyền lực gồm siêu quí tộc/tài
phiệt/chính trị/tình báo/quân sựliên quốc gia có tên Sovereign Military
Order of Malta, viết tắt SMOM, hội viên phải được giáo hoàng sắc phong.
Nội cái tên không thôi đã nói lên mục đích của SMOM.
Năm 1946, giáo hoàng Pius XII phong Spellman chức hồng y. Không cần mọc
cánh, ngài trở thành “thiên thần” giữa Vatican và bộ ngọai giao Mỹ. Ở
Mỹ, người ta linh đình chúc tụng ngài là American Pope/Giáo Hoàng Hoa
Kỳ. Ở Vatican, Người ta gọi ngài là Cardinal Moneybags/Hồng Y Túi Tiền.
Ngôi thánh đường Patrick ngài ngự đuợc gọị chệch đi là
“Come-on-wealthCommonwealth”), trở thành thời thượng. Ngài làm lễ cưới
cho Edward Kennedy ở đó. Avenue/Đaị lộ Của Cải Nhào Vô” (thay vì “
2. Quyền lực:
Đóng góp tài chánh của hồng y Spellman cho Vatican, tình bạn với Giáo
hoàng Pius XII, vị trí chót vót trên đỉnh SMOM, quyền lực Spellman hầu
như vô tận không ai dám đụng. Bạn của ngài nằm trong danh sách 100 người
quan trọng nhất thế kỷ 20. Ngài giới thiệu với giáo hoàng Pius XII hàng
loạt các nhà cự phú, biến họ thành quí tộc Hiệp sĩ Malta, không ai dám
đụng tới. Hốt tiền chỗ này bỏ chỗ kia khéo léo như một bà chủ hụi, dưới
bàn tay Spellman mọi việc trôi êm. Thay vì nộp tiền niên liễm cuả
Knights of Malta- Hiệp sĩ Malta vào tổng hành dinh SMOM ở Rome, Spellman
chuyển tiền đó vào tài khoản riêng cuả hồng y Nicola Canali (1939-1961)
bộ trưỏng bộ ngoại giao Vatican. Vài câu hỏi yếu ớt vang lên, ngài không
bận tâm trả lời. Báo nào xa gần hơi “tiêu cực” về ngài, ngài cho lệnh
các cửa hàng sang trọng khu Sak Fifth Avenue rút hết quảng cáo liền một
khi. Thương xá Sak Fifth/New York chỉ là một tài sản khiêm nhường của
ngài, cũng như tổng giám mục Ngô Đình Thục là chủ thương xá Tax/Saigon.
Hồng y Spellman giúp Vatican 1 triệu đô la tài trợ Công đồng Vatican II
nhưng ngài không hơi sức nào bầu bạn với nhũng kẻ nghèo khó. Tháng
3/1949, hai trăm phu đào huyệt nghĩa trang Calgary – rộng 500 mẫu mà
ngài là chủ nhân – đòi tăng lương 20% từ 59.40 lên 71.40 $USD (một
tuần). Ngài không chấp nhận, ngày mím môi bắt các chủng sinh nhà thờ St.
Patrick thay thế, đào huyệt chôn 1020 quan tài xếp lớp. Ngài đổ cho cái
đám cùng khổ ấy là bọn… cộng sản. Mấy Người vợ nghèo khổ của đám phu đào
huyệt mếu máo phân trần “Chồng tôi chỉ muốn tăng lương, không biết cộng
sản là gì”.
3. Về chính trị:
Hồng y Spellman đìều khiển thế giớí bằng điện thoại. Ngài cho hay trước
sẽ không ai viết được tiểu sử ngài, vì sẽ không bao giờ có dấu vết chứng
từ. Ngài là cố vấn của năm đời tổng thống Mỹ từ 1933 đến 1967, từ
Roosevelt, Truman, Eisenhower, Kennedy đến Johnson. Ngài là bạn thân với
tưóng William Donovan – xếp sòng OSS, tiền thân CIA. Donovan chỉ định
Allen Dulles nối ngôi CIA, nên hai anh em nhà Dulles, bộ trưởng ngoại
giao và giám đốc CIA, cũng dưới tay ngài.
Một trong những ngưòi bạn danh giá là đại gia Joseph Kennedy, thân phụ
của thượng nghị sĩ trẻ tuổi John Kennedy/tiểu bang nhà, Mass. Năm 1935,
taì sản ông Kennedy đã lên tới $180 triệu đô la, khoảng 3 tỷ bây giờ.
Sau thế chiến II, một trong những chiến lược của Vatican trong việc ngăn
chặn cộng sản bằng cách ủng hộ các ứng viên phe Dân Chủ Ki-Tô giáo. Đang
khi Vatican muốn có một tổng thống Ki-tô ở tòa Bạch Ốc, đúng lúc Joseph
Kennedy muốn John Kennedy làm tổng thống. Giáo hoàng Pius XII gưỉ bác sĩ
riêng Riccardo Galeazzi đến gặp Spellman và Joseph Kennedy để thương
lượng. Có tiền mua chức tổng thống dễ như mua bắp rang.
Những yếu tố trên chín mùi cùng lúc, Spellman dựa vào Vatican dựng lên
hai tổng thống Ki-tô dân chủ đầu tiên: John F. Kennedy ở Washington D.C
cũng như Ngô Đình Diệm trước đó ở Saigon.
Tài liệu ngoại quốc không có những chi tiết như trong bài viết “Có phải
Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hoà VN”cuả
Linh mục An-Tôn Trần Văn Kiệm. LM là người duy nhất ở gần ông Ngô Đình
Diệm trong hơn hai năm ông Diệm ở Mỹ, Theo Linh mục, có ba người đưọc
hồng y Spellman bảo trợ, nhận làm con nuôi: hai linh mục Trần Văn
Kiệm-Nguyễn Đức Quý và ông Ngô Đình Diệm.
(Ghi chú: ông Ngô Đình Diệm có tói ba vị “cha nuôi” oai quyền một
cõi: thượng thư Nguyễn Hữu Bài, Hồng y Spellman và trùm CIA Allen
Dulles)
Năm 1951, đang ở New York, Linh mục Trần Văn Kiệm, được điện tín từ Âu
châu ra đón tổng giám mục Ngô Đình Thục và em là Ngô Đình Diệm taị phi
trường Idlewild (phi trường Kennedy bây giờ). Sau đó Hồng y Spellman gửi
ông Diệm trú taị nhà dòng các linh mục Maryknoll, New Jersey. Tuy đuợc
Hồng y Spellman giầu có bảo trợ, ông Diệm không đưọc Hồng y cho đồng xu
nào. Suốt hai năm, chỉ một mình Linh mục Kiệm thăm viếng, bao biện việc
di chuyển, kể cả thuê khách sạn cho ông tiếp khách vì biết ông rất thanh
bạch. Cho đến tháng 6/1953, ngày ông từ giã Hoa Kỳ qua Pháp gặp hoàng đế
Bảo Đại trước khi về VN nhận chức thủ tướng, Linh mục M Trần Văn Kiệm và
năm Người bạn còn chạy mua vội cho ông chiếc cà vạt màu xanh.
Tuy vậy, theo linh mục Trần Văn Kiệm, mãi đến giữa năm 1953, chính giới
Mỹ chẳng biết gì về ông Ngô. LM TVKiệm viết:
-”Có lần chính khách Mỹ phàn nàn với tôi: linh mục đề cao tư cách lãnh
đạo của ông Ngô Đình Diệm, và cả Đức Cha Ngô Đình Thục cũng làm như thế,
nhưng chúng tôi cần thêm chứng nhân, vì Đức Cha Thục là anh đề cao em
thì có chi là lạ”.
-”Mãi tới gần một tháng sau khi trận Điện Biên phủ nổ lớn ngày 13 tháng
3 năm 1954 (thất thủ ngày 26 tháng 6) và có lẽ cũng vì nghe lời Đức Hồng
y Francis Spellman kêu gọi, ngày mùng 7 tháng tư năm 1954 tổng thống
Eisenhower mới lên tiếng cảnh giác, khi ông xướng lên chủ thuyết Domino:
“Nếu Việt Nam sụp đổ trước sức tấn công Cộng sản quốc tế với Liên Xô và
Trung hoa yểm trợ Hà nội, thì mấy nước ở Đông Nam Á sẽ khó mà đứng vững
được”.
Hồng Y Spellman Dựng nên Đệ Nhất Cộng Hòa VN
Một chân ở điện Capitol, một chân ở Vatican, hồng y Spellman ảnh hưởng
cả tổng thống Mỹ, sai khiến được trùm CIA, hoạch định chính sách cho bộ
ngoại giao, nên ngài yên chí sẽ được bầu làm giáo hoàng ở Vatican khi
bạn thân ngài là giáo hoàng Pius XII qua đời. Không ngờ, ngày
28-10-1958, người đựợc bầu là Hồng Y Angelo Roncalli, tức Giáo hoàng
John XXIII. Hồng y Spellman giận lắm, nhiếc sau lưng ông: “Ông ta đâu
xứng làm Giáo Hòang, Ổng đáng đi bán chuối/He’s no Pope. He should be
selling bananas”.
Hồng y Spellman có vẻ như lập laị câu nói cuả Cesar “Veni, Vidi, Vici”.
Những năm 1950, chính khách Mỹ nói về châu Á còn lọng cọng dở bản đồ,
Spellman đã đi qua cả rồi. Năm 1948, ngài đỡ đầu cho linh mục Fulton
Green quaAustralia đọc diễn văn tại nhà thờ St. Mary’s ở Sydney.
Spellman ghé Singaporevà Bangkok, bay ngang Angkor Wat. Trên đưòng trở
về Mỹ, trứơc khi bay quaCanton và Hongkong, ngài tiện chân ghé Saigon.
Tổng giám mục Saigon người Pháp Jean Cassaigne có mời tổng giám mục
Vĩnh-Long Ngô Đình Thục trong buổi tiếp đón ngày 25-5-1948: từ buổi
“tiện chân”định mệnh này, số phận cuả dòng họ Ngô-Đình đã an bài.
Giới học thuật Mỹ – tôn giáo, chính trị, truyền thông, giáo dục – đồng ý
dứt khóat 100% về vai trò của Hồng Y Spellman trong việc dựng lên tổng
thống Ngô Đình Diệm. Xin chỉ giới hạn vào bốn tác giả mà sách của họ đã
được thử thách với thờì gian. Trong số bốn Người này, hai là linh mục
Ki-tô giáo:
– Theo Wilson D Miscamlble, giáo sư môn sử/đaị học Notre Dame/Indiana,
trong bài viết “Francis Cardinal Spellman and Spellman’s War”, lý do
người Mỹ nhúng tay vào chiến tranh VN bắt nguồn từ ChiếnTranh Lạnh kéo
dài từ châu Âu. Dưới ảnh hưởng vô cùng to lớn của Spellman, chính giới
Mỹ đều tin tưởng rằng sự bành trướng của khối Cộng Sản Liên Sô và đồng
minh của họ, Bắc VN, là mối đe dọa trực tiếp nước Mỹ.
– “The American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman”,
tác giả John Cooney (cây bút cuả Wall Street Journal) viết: “Nếu không
có Spellman ủng hộ Ngô ĐìnhDiệm hồi 1950, chắc chắn không có chính phủ
miền Nam Việt Nam.” Cooney dành 18 trang riêng về Spellman và Việt Nam.
Tờ Church & State phê bình “dẫn chứng kỹ càng, tất cả người Mỹ nên đọc
và học hỏi”
– “An American Requiem/Kinh Cầu Hồn Nước Mỹ”, tự truyện, tác giả James
Carroll có bố là trung tá tình báo Pentagon: chuyên viên tìm toạ độ để
ném bom ở Việt Nam, mẹ lại là bạn thân cuả hồng y Spellman. Ông viết
“Chiến tranh VN bắt đầu từ Spellman”, sách-bán-chạy nhất 1960-70, đoạt
National Book Award for Non-Fiction (1996), giải thưởng cao quí nhất cuả
văn học Mỹ. Carroll dành nguyên chương 8, “Holy War/Cuộc Chiến Thần
Thánh” cho chiến tranh Việt Nam.
– Theo linh mục Martin Malachi: Spellman dấn thân vào Việt Nam là theo ý
muốn của Giáo Hoàng Pius XII: muốn ngưòi Mỹ đưa ông Ngô Đình Diệm lên vì
ảnh hưởng của tổng giám mục Ngô Đình Thục.
(Ghi chú: Linh mục Malachi, giáo sư Giáo hoàng Học Viện Vatican
(Pontifical Biblical Institute) từ 1958 đến 1964, cùng thờì điểm chìến
tranh Việt Nam. Ông là phụ tá, thư ký riêng, thông dịch viên cho hồng y
Augustin Bea/dòng Jesuit và cho Giáo hoàng John XXIII. Ông ở cùng dinh
vơí giáo hoàng John XXIII, được giao phó nhiều việc “nhậy cảm. Là linh
mục dòng Jesuits/dòng Tên trong 25 năm, năm 1965 ông xin chấm dứt ơn kêu
goị, nghiã là ra khỏi dòng Jesuits. Ông qua New York, sống lang thang
làm bồi bàn, tài xế taxi, rửa chén. Hai năm sau ông bắt đầu kiếm ăn bằng
viết sách. Cuốn nổi tiếng nhất: “The Jesuits: The Society of Jesus and
the Betrayal of the Roman Catholic Church/ Dòng Jesuit và Sự Phản Bội
Của Giáo Hội La Mã”).
(Cả ba cuốn The American Pope, An American Requiem, The Jesuits đều có
trên amazon.com.)
Có thể tóm tắt: đưọc các nhân vật tối cao cuả lập pháp, tư pháp, tình
báo, taì phiệt và tôn giáo Hoa Kỳ đã nâng đỡ con đường hoạn lộ cuả ông
quan Á Châu Ngô Đình Diệm giống như truyện cổ tích Cô Bé Lọ Lem, ngọai
trừ đoạn cuối.
1. 1951: taị New York, Hồng
Y Spellman giới thiệu ông quan-tự lưu vong-Ngô Đình Diệm với chính giới
Mỹ, gồm thượng nghị sĩ Michael Mansfield, thẩm phán tối cao pháp viện
William O. Douglas, trùm CIA Allen Dulles, cha con Joseph Kennedy, tất
cả là tín đồ công giáo.
2. 1954: CIA gửi Edward
Landsdale qua Saigon hóa phép “trưng cầu dân ý” truất phế Baỏ Đaị-ủng hộ
thủ tứơng NĐDiệm. Landsdale đề nghị tỷ lệ đắc cử là 70%, ông Diệm không
đồng ý, đòi phải đạt được 98.2%, con số cao hơn cả số cử tri ghi danh.
3. 1955: Bộ Ngoaị Giao gửi
đoàn cố vấn dân sự qua Saigon (giáo sư Wesley Fishel/đại học Michigan
cầm đầu) soạn cấu trúc cho an ninh, kinh tế, giáo dục, hành chánh, soạn
cả hiến pháp cho Việt Nam Cộng Hòa. Cơ quan USAID/Sở Thông tin Hoa Kỳ
phát không tờ Thế Giới Tự Do, lò sản xuất những khẩu hiệu như “tiền đồn
chống cộng, lý tưởng tự do, Người quốc gia…”. USAID cũng bao dàn trọn
gói luôn tờ The Times bằng tiếng Anh của ông Ngô Đình Nhu.
4. 1955: chính phủ
Eisenhower tài trợ 20 triệu đô la cho quĩ [Roman] Catholic Relief
Services , “Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo”. Hồng y Spellman cũng đích thân
viếng Saigon và tặng $100,000 cho quỹ này, giúp tái định cư ngưòi di cư
(có tài liệu ghi $10,000). Từ đó mỗi năm, Hoa Kỳ viện trợ khoảng 500
triệu đô la một năm cho Việt Nam Cọng Hòa.
5. Ngoài cố vấn Mỹ
chính thức tạị dinh Độc Lập, Spellman còn gàì điệp viên kiểm soát hai
anh em ông Diệm-Nhu.
6. Từ đầu năm 1963, Spellman bắt đầu tách rời khỏi Ngô Đình Diệm
khi chính phủ Diệm từ chối không cho thêm quân nhân Hoa Kỳ vào Việt Nam.
7. Ngày 7-9-1963 tổng giám mục Ngô Đình Thục rời Việt Nam qua Roma,
bước lưu vong đầu tiên, không được giáo hoàng Paul VI tiếp. Ngày
11-9-1963 Ngô Đình Thục bay qua New York cầu cứu, hồng y Spellman lánh
mặt đi Miami Beach/Florida dự lễ gắn huy chưong.
8. Ngày 1-11-1963: Spellman bật đèn xanh cho âm mưu dứt điểm con
nuôi Ngô Đình Diệm. Từ đó, Spellman không hề nhắc đến tên Thục-Diệm thêm
một lần nào nữa.
9. Spellman tiếp tục đìều khiển guồng máy chiến tranh Việt Nam
không-Diệm cho đến khi về hưởng nhan thánh Chuá năm 1967.
Hồng Y hay đaị tướng?
Đáng lẽ Hồng y Spellman phải theo nghiệp binh đao. Năm 1943, chỉ trong
bốn tháng, ngài vượt 15,000 miles, đến 16 quốc gia vừa là đại diện của
Vatican, vừa là tổng tuyên uý quân đội, vừa là đặc sứ cuả tổng thống
Roosevelt. Ngài khéo léo luôn để Vatican đứng ngoài, và đứng trên chìến
tranh. Ngài đuợc West Pointtrao tặng huy chương. Ngàì có bằng lái máy
bay cả ở Italy lẫn Massachussets.
Fidel Castro mô tả hồng y Spellman là “Giám mục của Ngũ Giác Đài, của
CIA và FBI”. Tổng thống Mỹ còn sợ bị ám sát, Spellman thì không. Trong
cuốn “Vietnam… Why Did We Go? “Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam” tác giả
Avro Manhattan chứng minh “siêu quyền lực” giết tổng thống John Kennedy
chính là Hồng y Spellman. Bản dịch tiếng Việt, có trên internet, dịch
giả Trần Thanh Lưu.
Hậu thuẫn lớn của hồng y Spellman cho chính quyền Lyndon Johnson không
phải ở châu Mỹ La Tinh, mà ở Việt Nam. Dù ở tuổi nào ngài cũng thich làm
“anh là lính đa tình”. Ngaì thường xuyên gặp gỡ các ông tướng ở tòa Bạch
Ốc, có mặt tại những phiên họp mật của tình báo. Ngài họp với Ngũ Giác
Đài, bàn cãi chiến thuật/chiến lược với hàng tướng lãnh. Phiên họp cuối
ngài tham dự, tháng 3/1965, tại Carlisle một trưòng huấn luyện quân sự ở
Pensylvania. Ngài cho tiền các giáo hội địa phương, nguồn cung cấp tin
tức vô tận. Khi cần ngài hỗ trợ cho CIA và FBI khiến hai cơ quan này
khép nép dưới chân ngài. Họ không sao có được mạng lướí rộng lớn, miễn
phí và trung thành như giáo dân. Trong khi hồng y Spellman chỉ phán một
câu, các giáo hội địa phương xa xôi nghèo nàn mừng mừng tủi tủi, vứt cả
tổ tiên ứng hầu thánh ý.
Linh mục William F. Powers viết “Hình như Hồng Y Spellman đến Việt Nam
để ban phép lành cho những khẩu đại bác, trong khi giáo hoàng John 23
đang năn nỉ phải cất chúng đi. Ngài sang thăm lính Mỹ ở Việt Nam trong
binh phục kaki vàng. Có lần, vừa trở về từ mặt trận VN, “áo anh mùi
thuốc súng” ngài lập tức bay đến Washington dùng cơm trưa với tổng thống
Johnson, có cả mục sư Billy Graham (đuợc coi như Giáo hoàng Tin Lành ở
Mỹ). Tổng thống hỏi ý cả hai ngài bước kế tiếp phải làm gì. Trong khi
mục sư Graham còn đang lúng túng giữ yên lặng, HY Spellman không ngần
ngaị, nói liền một câu lạnh cẳng “Thả bom chúng! Chỉ việc thả bom
chúng!” Và Johnson đã làm theo lời cố vấn cuả ngài. [Thus, when Johnson
asked both Spellman and Billy Graham at a luncheon what he should do
next in Vietnam, Graham was uncomfortably silent. “Bomb them!” Spellman
unhesitatingly ordered. “Just bomb them!”’ And Johnson did]. Chúng là
ai? Là người Việt. Chưa được đọc bài nào của tác giả Việt về câu nói
kinh hãi này. Chỉ mới thấy tác giả Nguyễn Tiến Hưng giận dữ về câu “Sao
chúng nó không chết phứt đi cho rồi” cuả ông Henry Kissinger.
Billy Graham (1918-) đâu phải tay mơ. Ông được coi như “giáo hoàng Tin
Lành,” cố vấn các tổng thống Mỹ từ đời Eisenhower đến G. Bush. Ông rất
oai, quở trách tổng thống Richard Nixon như con cái trong nhà. Có lẽ
thấy Spellman ngon lành quá, Graham bắt chưóc y chang khiến ông cũng rất
nổi tiếng trong quân sử Hoa kỳ với lá thơ 13 trang: Năm 1969 Graham đến
Bangkok gặp gỡ vài “nhà truyền giáo” từ VN qua. Các đaị diện Chúa sau
khi làm dấu thánh giá, đề nghị nếu hội nghị hoà bình Paris thất bại,
Nixon nên dội bom các đê điều ở Bắc Việt. Không rõ các nhà truyền giáo
này kiêm điệp viên hay điệp viên kiêm nhà truyền giáo, họ là người Việt
hay ngưòi ngoaị quốc, thuộc dòng nào, từ đâu qua Bangkok gặp Graham… rất
tiếc bản tin không nói rõ. Trở về Mỹ, Billy hăng hái gửi 13 trang viết
tay đề ngày 15-4-1969 cho tổng thống Nixon “dội bom các đê Bắc Việt Nam,
chỉ trong một đêm thì kinh tế ở đó tiêu đìều liền hà”. Bức thư này đuơc
bạch hóa tháng 4/1989.
Tạ ơn Chúa, Alleluia!! “Dội bom đê điều” giết cả triệu dân là tội ác
chiến tranh! Người Mỹ phải hành quân đáng mặt nưóc lớn. Họ không quên án
lệ Arthur Seyss-Inquart, luật sư ngườì Đức, sĩ quan Phát xít cuả Hitler.
Ngày 16-10-1946, toà án quốc tế xử treo cổ ông này và 10 người khác vì
phá hủy đê ở Hoà Lan trong thế chiến II. Trưóc khi chết, Seyss-Inquart
còn nói kiểu sân khấu: “Hy vọng cuộc hành hình này là thảm kịch cuối
cùng cuả thế chiến II mà bài học sẽ là hoà bình và hiểu biết giữa con
người.” Tử tội xin “trở laị đạo”, đuợc xưng tội và chiụ đủ các phép bí
tích. Kể cũng hay, giết ngưòi xong xưng tội là linh mục tha tội ngay,
Chúa có tha không tính sau. Có hơi thắc mắc không biết ông có tái sinh
làm Ki-tô hữu chưa.
Wilson D. Miscamble kết luận về “sự nghiệp” cuả hồng y Spellman như sau:
Lòng ái quốc mù quáng đã ngăn cản ông tự hỏi một điều rất quan trọng
“mục đích của chiến tranh là gì?”Ông cũng không thèm biết đến “phương
tiện và hậu quả”.
Ông không hề biết rằng những báo cáo của chính phủ về Việt Nam là lừa
gạt.
Ông không bao giờ biết đến nhân mạng và tiền bạc trả cho cuộc chiến tính
đến 1967.
Ông cũng không bao giờ phản đối cách nước Mỹ tiến hành cuộc chiến. Ngược
lại ông là người cổ võ việc ném bom Bắc Việt Nam.
Cuối cùng, ông không bao giờ tỏ ý hối tiếc về vai trò cuả ông. Sự thiệt
hại nhân mạng do việc dội bom cũng không hề dấy lên trong ông bất cứ một
tình cảm nào. Đó là điều đáng trách nhất, vì ông là một đấng chủ chăn.
Theo nhà tranh đấu Lê Thị Công Nhân:
“Sự kiện 30-4-75 thì tôi không phải là chứng nhân của sự kiện đó vì tôi
sinh ra vào năm 1979 nhưng với những gì mà tôi trực tiếp trải qua, và
tôi chịu đựng trên đất nước Việt Nam, tôi thấy đây là 1 sự kiện hết sức
đặc biệt và cá nhân tôi nghĩ rằng đây là
sự an bài nghiệt ngã của Đức Chúa Trời dành cho dân tộc Việt Nam”.
Cứ dâng vạn nỗi đau thương lên cho Chúa, người cũng sẽ im lặng như ngàn
năm nay, như khi dân Do Thái cuả Chúa bị tận diệt. Đổ cho Chúa, Việt
Cộng mừng vì “Chúa an bài như thế, khỏi tranh đấu nữa”. Hồng y Spellman
mừng, Cộng sản quốc tế mừng, tư bản mừng! Cứ làm đi rồi đổ hô cho Chúa.
Nhưng một khi bom đạn và tổn thất sinh mạng cân đong đo đếm được thì
nguyên nhân/thủ phạm cần phải được xem xét kỹ lưỡng. Dù không làm kẻ
chết sống lại, người mù sáng mắt, nhưng ít ra học được vô số bài học.
Nếu không, chắc chắn quá khứ sẽ lập lại thêm lần nữa.
Có khi đang lặng lẽ xảy ra cũng nên!
Trần Thị Vỉnh Tường
[Nguồn: tạp chí SàiGòn Nhỏ, số 1265, ngày 22 tháng 10 năm 2010, Ấn bản
Orange County, trang A1]
DREW PEARSON
Cardinal Spellman And The Viet War
WASHINGTON There was much more than meets
the eye behind the flareup between Francis Cardinal Spellman, the
persuasive, powerful Catholic cleric of New York, and Pope Paul IV,
whose pacific philosophy is supposed to guide the Catholic church. There
have been differences between Spellman and the Vatican before, dating
back to Pope John, also differences between Spellman and the hierarchy
in the United States. In November the Conference of Catholic Bishops
refused to take Spellman’s all-out war stand, and only last week Richard
Cardinal Cushing in Boston made it clear that he stood firmly with the
Pope in his efforts for peace, not with Cardinal Spellman who called for
"total victory,” in a war in which he said American troops arc fighting
as “soldiers of Christ.” The oasic difference between the Pope and
Spellman gets down to the reasons why in some diplomatic circles, the
war in Vietnam is called "Spellman's war”, not "Christ’s war.” "It will
come as a surprise to the American people that our soldiers have
enlisted in the war as soldiers of Christ, said Sen. Wayne Morse, DOre.
They have doubtless forgotten that it was Cardinal Spellman who arranged
for a public relations firm to build up President Diem as the Catholic
puppet of South Vietnam. and that Diem’s brother, the Catholic bishop of
Saigon, beat a well-worn path to Spellman’s door to "promote the war.”
With more American troops now in Southeast Asia than we had in Korea and
with the Pope in complete disagreement with the cardinal of New York,
it’s important at this time to review the chronological steps by which
we got into the so-called "Spellman war.” Step No. 1 took place in
April. 1954, as the French faced certain defeat. Vice President Nixon at
the April meeting tof the American Society of Newspaper Editors told
them, off the record, that Eisenhower planned to send troops to
Indo-China. A leak caused such critical public reaction that the move
was abandoned. Step No. 2 occurred later that year as the French
prepared to withdraw and the Geneva Conference was called to save
France’s face. Ngo Dlnh Diem, described as a sort of "Catholic
mandarin.” had been at Maryknoll, the Catholic seminary autside New
York, and was sent by Cardinal 'Spellman to see Sen. John F. Kennedy in
Washington. Sen. Kennedy then made a speech warning against a negotiated
peace which Cardinal Spellman issued this Christmas. Step No. 3
—Cardinal Spellman enlisted the support of Joseph P. Kennedy, wealthy
father of the late President and a heavy contributor to Spellman's
charities. The two had worked together in backing the late Sen. Joseph
McCarthy. They arranged for the crack Harold Oram public relations firm,
at a fee of $3,000 « month, to build up Diem as
the man who could save Vietnam. In
cooperation with the Catholic Relief Agency, Spellman helped organize
“The American Friends of Vietnam” to promote Diem and American aid for
Vietnam. Step No. 4 By this time the Geneva Treaty had cut Vietnam into
the North and South, with elections to be held two years later 1956 to
decide whether they should unite. Cardinal Spellman, through his friend
Vice President Nixon, wanted strong U. S. support for the South.
Spellman had given his blessing to the Eisenhower - Nixon ticket against
Adlai Stevenson. Nixon agreed with him regarding Vietnam; but not
Eisenhower, who told me earlier he would never get American troops
bogged down on the mainland of Asia. At Christmas, 1954, Spellman took
his first trip to Saigon, and handed refugees a $lOO,OOO check from the
Catholic Relief Agency. Back in the United States he sold the Elsenhower
administration on contributing several millions in foreign aid. Step No.
5 Cardinal Spellman addressing the American Legion in 1955, said that
the Geneva Treaty ment “taps” for freedom in South-
east Asia. Step No. 6 Eisenhower finally
yielded to Nixon and sent military "advisers” to South Vietnam. A total
of around 1,000 advisers was permitted under the Geneva Treaty. Step No.
7 The astute Harold Oram had built up Diem as a democrat. His speeches
were liberally dosed with democratic cliches. He was regarded as the
"Father of South Vietnam.” When he became president it was; necessary
for the United States to use special secret police to keep him in power.
As a Catholic in a country which is 80 per cen' Buddhist, he was not
popular in the first place, and his high-handed edicts enforced by
graft-ridden subordinates made him less so. Eventually he was dethroned
and assassinated. Step No. 8 President Kennedy in the fall of 196 1
suffered setbacks at the Bay of Pigs and in his confrontation with
Khrushchev at Vienna, which led to the building of the Berlin Wall. His
advisers state that, in need of a foreign affairs victory, he increased
American troons in South Vietnam from 2,000 advisers to 33,000. That was
how the war started. President Johnson has been increasing U. S. troop
strength ever since.
"Spellman and Kennedy also helped form a
pro-Diem lobby in Washington. The rallying cries were anti-Communism and
[Roman] Catholicism. Through their connections, they soon had a
high-powered committee, which was a lumpy blend of intellectuals and
conservatives.
Two men of national prominence, the
former O.S.S. chief "Wild Bill" Donovan and General "Iron Mike"
O'Daniel, were co-chairmen.
The membership included Senators [John
F.] Kennedy and Richard Neuberger; Representatives Emmanuel Celler and
Edna Kelly; and Angier Biddle Duke, Arthur Schlesinger, Jr., Max Lerner,
socialist leader Norman Thomas, and conservative Utah Governor Bracken"
[ page 242 ]
THE AMERICAN POPE
240
The Cardinal's message was clear. The
fall of Vietnam brought the day closer when Communists would dominate
the United States. "We shall risk bartering our liberties for lunacies,
betraying the sacred trust of our forefathers, becoming serfs and slaves
to the Red ruler's godless goons," he swore.
The other speakers needed no
introduction: Madame Chiang Kaishek and Admiral Arthur W. Radford, the
chairman of the Joint Chiefs of Staff, who was a familiar figure at the
Powerhouse. Both speakers were friends of the Cardinal and shared his
conservative views. Madame Chiang lamented that the Soviets had
corrupted the "minds and souls of those who became its puppets--the
Chinese Communists." Radford asserted that the United States should be
ready to police the world. The audience wildly applauded each speaker,
but it was Spellman who brought them to their feet in a thunderous
ovation. At the conclusion of the meeting, the Cardinal asked the
legionnaires to pray for God's intervention. If Eisenhower wouldn't
listen to Spellman, perhaps he would heed the Almighty. "Be with us,
Blessed Lord," the Cardinal intoned, "lest we forget and surrender to
those who have attacked us without cause, those who repaid us with evil
for good and hatred for love."
The day after the convention the impact
of Spellman's address was noted in the press. New York Daily News
columnist John O'Donnell, for example, reported: "From a political
viewpoint-- global, national and New York State--the speech delivered by
Cardinal Spellman was by far the most significant and important heard
here at the convention....''
Spellman's attack on Ho Chi Minh's
revolution was the first sign of his involvement in the politics of
Vietnam. Though few people knew this, the Cardinal played a prominent
role in creating the political career of a former seminary resident in
New York who had just become Premier of South Vietnam, Ngo Dinh Diem. In
Diem, Spellman had seen the qualities he desired in any leader: ardent
[Roman] Catholicism and rabid anti-Communism.
Cardinal Spellman had met Diem in New
York in 1950, when the Vietnamese had been at the Maryknoll Seminary in
Ossining, New York. A staunch [Roman] Catholic from a patrician family,
Diem was at the seminary at the intercession of his brother, Ngo Din
Thuc, a Roman Catholic bishop. A lay celibate and deeply religious, Diem
had cut himself off from the world, especially his war-shredded nation,
and had been known only to a small, politically active circle in the
United States. In his homeland his name had hardly evoked enthusiasm. On
an official level in the United States, Diem was an unknown quantity, a
situation Spellman helped rectify. Diem's background meant that he
inevitably came to the attention of Spellman.
The man responsible for bringing them
together was Father Fred McGuire, the anti-McCarthy Vincentian who
worked for the Propagation of the Faith. A former missionary to Asia,
McGuire's intimate knowledge of the Far East was well known at the State
Department. One day the priest was asked by Dean Rusk, then head of the
Asian section, to see that Bishop Thuc, who was coming to the United
States, met with State Department officials, McGuire recalled. Rusk also
expressed an interest in meeting Diem."35
THE RISE OF AMERICANISM
241
McGuire contacted his old friend Bishop
Griffiths, who was still Spellman's foreign affairs expert. He asked
that Thuc be properly received by the Cardinal, which he was. For the
occasion Diem came to the Cardinal's residence from the seminary. The
meeting between Spellman and Diem may well have been a historic one.
Joseph Buttinger, a prominent worker with refugees in Vietnam, believed
the Cardinal was the first American to consider that Diem might go home
as the leader of South Vietnam."
In October 1950 the Vietnamese brothers
met in Washington at the Mayflower Hotel with State Department
officials, including Rusk. Diem and Thuc were accompanied by McGuire as
well as by three political churchmen who were working to stop Communism:
Father Emmanuel Jacque, Bishop Howard Carroll, and Georgetown's Edmund
Walsh. The purpose of the meeting was to ask the brothers about their
country and determine their political beliefs. It soon became clear that
both Diem and Thuc believed that Diem was destined to rule his nation.
The fact that Vietnam's population was only ten percent Catholic
mattered little as far as the brothers were concerned." Such a step
seemed unlikely. Before World War II Diem had been a civil servant
connected loosely with nationalists. Later, he repeatedly refused to
accept government offices under Emperor Bao Dai; the job he wanted was
Prime Minister, but that had been denied him.
As Diem spoke during the dinner, his two
most strongly held positions were readily apparent. He believed in the
power of the [Roman] Catholic Church and he was virulently
anti-Communist. The State Department officials must have been impressed.
Concerned about Vietnam since Truman first made a financial commitment
to helping the French there, they were always on the lookout for strong,
anti-Communist leaders as the French faded.
After Dienbienphu, Eisenhower wanted to
support a broader-based government than that of Emperor Bao Dai, who
enjoyed little popular support and had long been considered a puppet of
the French and the Americans. Thus U.S. officials wanted a nationalist
in high office in South Vietnam to blunt some of Ho Chi Minh's appeal.
The result was that Bao Dai offered Diem the job he had always
wanted-Prime Minister. Diem's self-proclaimed prophecy was coming true.
He returned to Saigon on June 26, 1954, or several weeks after the
arrival of Edward Lansdale, the chief of the C.I.A.'s Saigon Military
Mission, who was in charge of unconventional warfare. U.S. involvement
entered a new stage.
THE AMERICAN POPE
242
Spellman's Vietnam stance was in
accordance with the wishes of the Pope. Malachi Martin, a former Jesuit
who worked at the Vatican during the years of the escalating U.S.
commitment to Vietnam, said the Pope wanted the United States to back
Diem because the Pope had been influenced by Diem's brother, Archbishop
Thuc.
"The Pope was concerned about Communism
making more gains at the expense of the [Roman Catholic] Church," Martin
averred. "He turned to Spellman to encourage American commitment to
Vietnam." 38
Thus Spellman embarked on a carefully
orchestrated campaign to prop up the Diem regime. Through the press and
a Washington lobby, the problems of confronting anti-Communism in
Indochina became widely known in America. One of the men Spellman aided
in promoting the Diem cause was Buttinger, a former Austrian Socialist
who headed the international Rescue Committee, an organization that had
helped refugees flee Communism after World War II and now helped people
fleeing North Vietnam.
The Geneva Accords provided that people
moving between the north and south should have three hundred days in
which to do so. The refugee problems were enormous. When he visited New
York, Buttinger met with Spellman and explained the situation. The
Cardinal placed him in touch with Joe Kennedy, who arranged meetings for
Buttinger with the editorial boards of major publications such as Time
and the Herald Tribune. Editorials sympathetic to the plight of refugees
fleeing Ho Chi Minh's Vietnam began appearing in the American press.
Spellman and Kennedy also helped form a
pro-Diem lobby in Washington. The rallying cries were anti-Communism and
[Roman] Catholicism. Through their connections, they soon had a
high-powered committee, which was a lumpy blend of intellectuals and
conservatives.
Two men of national prominence, the
former O.S.S. chief "Wild Bill" Donovan and General "Iron Mike"
O'Daniel, were co-chairmen.
The membership included Senators [John
F.] Kennedy and Richard Neuberger; Representatives Emmanuel Celler and
Edna Kelly; and Angier Biddle Duke, Arthur Schlesinger, Jr., Max Lerner,
socialist leader Norman Thomas, and conservative Utah Governor Bracken
Lee.
Spellman's man on the board was Monsignor
Harnett, who headed the Cardinal's Catholic Near East Welfare
Association and now served as the Vietnam lobby's chief link with the
Catholic Relief Services.
To a large extent, many Americans came to
believe that Vietnam was a preponderantly [Roman] Catholic nation. This
misimpression resulted partly from Diem's emergence as ruler. With the
help of C.I.A.- rigged elections in 1955, Diem abolished the monarchy
and Bao Dai was forced to live in exile. The heavily [Roman] Catholic
hue to the Vietnam lobby also accounted for much of the widespread
belief. Still another factor was [Cardinal] Spellman's identification
with the cause.
THE RISE OF AMERICANISM
243
Then there was the role of a winsome
young [Roman] Catholic doctor working in Vietnam named Tom Dooley. A
navy lieutenant who operated out of Haiphong, Dooley worked with
refugees. At one point Dooley, a favorite of Spellman, even organized
thirty-five thousand Vietnamese Catholics to demand evacuation from the
north. Dooley's efforts were perhaps even more successful in the United
States than in Vietnam. He churned out newspaper and magazine articles
as well as three bestselling books that propagandized both the [Roman]
Catholic and anti-Communist nature of his beliefs.
He fabricated stories about the suffering
of Catholics at the hands of perverted Communists who beat naked priests
on the testicles with clubs, deafened children with chopsticks to
prevent them from hearing about God, and disemboweled pregnant women. A
graduate of Notre Dame in Indiana, Dooley toured the United States
promoting his books and anti-Communism before he died, in 1964, at age
thirtyfour. One of the last people to visit his sickbed was Cardinal
Spellman, who held up the young physician as an inspiration for all -
another martyr. Dooley's reputation remained untarnished until a Roman
Catholic sainthood investigation in 1979 uncovered his C.I.A. ties."
Dooley had helped the C.I.A. destabilize
North Vietnam through his refugee programs. The Catholics who poured
into South Vietnam provided Diem with a larger political constituency
and were promised U.S.-supported assistance in relocating. The American
public largely believed that most Vietnamese were terrified of the cruel
and bloodthirsty Viet Minh and looked to the God-fearing Diem for
salvation. Many refugees simply feared retaliation because they had
supported the French.
Within his first year in office, however,
Diem became so closely identified with the United States that American
officials grew worried about his effectiveness. This became apparent
when Spellman had Harnett arrange travel plans for him to Vietnam. The
monsignor contacted General L. Collins, head of U.S. military operations
in Vietnam. When he heard of Spellman's proposed visit, the general
became concerned. He cabled Foster Dulles that the Cardinal's presence
would encourage propaganda within Vietnam that Diem was "an American
puppet....... The fact that both Diem and the Cardinal are Catholic
would give opportunity for false propaganda charges that the U.S. is
exerting undue influence on Diem." The general noted, however, that if
Spellman came he could serve a useful purpose, "dramatizing once more
the great exodus of refugees from the North, the greater part of whom
are Catholics." He concluded, though, "I think it would be wiser if he
did not come."40
Spellman wasn't about to be put off. The
Pope had asked him to intervene and he wanted to see the situation
firsthand. His physical presence in Saigon, he knew, would place him and
the Church firmly in Diem's camp in the public mind. When Spellman
arrived at the Saigon airport, he was greeted by a wildly cheering crowd
of about five thousand. The sixty-seven-year-old prelate was once again
dressed in the army khaki attire that he loved to wear in military
zones.
THE AMERICAN POPE
244
Spellman's propagandizing of the [Roman]
Catholic nature of Diem's regime reinforced a negative image of the
[Roman Catholic] Church's position in Vietnam. The sectarian nature of
Diem's government and the problems of that government were noted by the
writer Graham Greene, himself a Catholic, in a dispatch from Saigon
printed in the London Sunday Times on April 24, 1955:
It is Catholicism which has helped ruin
the government of Mr. Diem, for his genuine piety . . . has been
exploited by his American advisers until the Church is in danger of
sharing the unpopularity of the United States.
An unfortunate visit by Cardinal Spellman
["He spoke to us," said a Vietnamese priest, "much of the Calf of Gold
but less of the Mother of God"] has been followed by those of Cardinal
Gillroy and the Archbishop of Canberra. Great sums are spent on
organizing demonstrations for the visitors, and an impression is given
that the Catholic Church is occidental and an ally of the United States
in the cold war.
On the rare occasions when Mr. Diem has
visited the areas formerly held by the Viet Minh, there has been a
[Roman Catholic] priest at his side, and usually an American one
The South, instead of confronting the
totalitarian north with the evidences of freedom, has slipped into an
inefficient dictatorship: newspapers suppressed, strict censorship, men
exiled by administrative order and not by judgment of the courts. It is
unfortunate that a government of this kind should be identified with one
faith. Mr. Diem may well leave his tolerant country a legacy of
anti-[Roman] Catholicism.
During his visit Spellman presented a
check for $100,000 to the [Roman] Catholic Relief Services, which was
active in the refugee-relocation program and later administered a great
deal of the U.S. aid program, which closely bound the CRS to the U.S.
war effort and later led to the suspicion that the CRS had C.I.A. ties.
Turning to the [Roman Catholic] Church to perform such a function was
done in Latin America, among other places, but in Vietnam it eventually
seemed to bear out Graham Greene's warnings that the [Roman Catholic]
Church and the United States were being tied to a cause unpopular among
Vietnamese.
The potential for corruption in Vietnam
was tremendous and also harmed the CRS's reputation. Drew Pearson
estimated that in 1955 alone, the Eisenhower administration pumped more
than $20 million in aid into Vietnam for the [Roman] Catholic refugees.
Though it did a great deal of good, the CRS eventually encountered a
great deal of resentment. Unavoidably, there was much graft and
corruption involved in getting food, medical supplies, and other goods
from ships to villages. By 1976 the National Catholic Reporter, a
hard-nosed weekly newspaper, reported apparent CRS abuses in articles
such as one entitled
"Vietnam 1965-1975. Catholic Relief
Services Role:
Christ's Work - or the C.I.A.'s?"
THE RISE OF AMERICANISM
245
The abuses cited included using supplies
as a means of proselytizing; giving only Catholics aid meant for
everyone; being identified with the military; and giving CRS goods to
American and Vietnamese soldiers rather than to the civilians for whom
the goods were meant.41
Moreover, there was much speculation that
the CRS leadership in Vietnam had C.I.A. links, although this was never
proved.
Long before the National Catholic
Reporter began its investigations, both the U.S. government and Spellman
backed away from the increasingly arrogant and difficult Diem, who, by
the early 1960s, lost support among his people almost daily. Buddhists
held massive protest marches against the government and clashed in the
streets on occasion with Catholics. Finally, on November 2, 1963, Diem
was assassinated during a C.I.A.-inspired coup d'etat.
Two years after the assassination,
Spellman told of his knowledge of Kennedy's involvement to Dorothy
Schiff, the Post publisher, who again visited him at the chancery.
According to her notes:
"He [Spellman] knew that President
Kennedy had been asked to make a decision as to whether or not Diem
would be removed and had decided that it was all right for this to
happen--this on a recommendation from American officials in Vietnam. The
Cardinal said he knew that Kennedy had thought about it overnight,
changed his mind and that he knew that he would have rescinded his
decision of the night before had the event not already taken place and
Diem been dead."42
The publisher was amazed by the
revelation, but there was nothing she could do with the information.
Once again, she had promised not to reveal what she heard at the
Powerhouse. Shortly before the coup Spellman disassociated himself from
Diem. When Bishop Thuc [ Diem's brother .... JP ] visited New York,
Spellman refused to see him, and he personally asked Bishop Fulton Sheen
not to receive Thuc as well. Spellman and Sheen were feuding. Sheen
disregarded Spellman's request and had Thuc to lunch while Spellman
simmered.
Though Spellman backed away from Diem, he
didn't turn his back on Vietnam any more than the U.S. government did.
The Cardinal became one of the most hawkish, arguably the most hawkish,
leaders in the United States. By 1965 he clashed with the Pope, who
desperately tried to bring peace in Vietnam as Spellman pounded the
drums of war.
[papacy plays the role of "peacemaker"
after getting USA into the war in Vietnam on the side of the Roman
Catholic ruling class .... JP]
- END QUOTE - END CHAPTER NINE
CHAPTER TEN
THE PRINCE OF POWER
246
SPELLMAN EXPECTED DEFERENTIAL TREATMENT
NOT ONLY from legions of politicians and millions of laymen but also
from members of the hierarchy. Indisputably, he did more for the Church
than all the rest of the American hierarchy combined.
His cleverness, contacts, and persistence
enabled the Vatican to play a forceful international role, after
centuries of limited political power. Spellman was the indispensable
source of riches and favors for churchmen in both Rome and America. The
Pope depended on Spellman and the Cardinal could get whatever he wanted.
At times it seemed impossible to tell where the power of the one left
off and that of the other began. It was clear that in America Spellman
was the Church's kingmaker. He bestowed the title "monsignor" with the
regularity of a commander making battlefield promotions, and he made
many bishops in his busy, modern court. If anything, Spellman's power
increased after Pius became ill.
The health of a pope is always taken
seriously. When it appeared in December 1954 that Pius was dying,
Spellman was continually on the telephone to Rome. He had visited the
Pope months earlier when Pius was first suffering from violent bouts of
hiccuping that left him exhausted and unable to hold food down. Spellman
sat by his old friend's side in the Pope's bedroom, with its two windows
overlooking St. Peter's Square and its simple furnishings--a brass bed,
a chest of
-END QUOTE- end page 246
"Spellman và Kennedy cũng đã giúp tạo ra
một cuộc vận động ủng hộ Diệm tại Washington, những cuộc biểu tình phản
đối là chống lại chủ nghĩa cộng sản và Công giáo [La Mã] Qua mối quan hệ
của họ, họ sớm có một ủy ban có quyền lực cao, .
Hai người có tầm quan trọng quốc gia, cựu
giám đốc "Cổng thông tin di sản" Donovan và Tổng "Iron Mike" O'Daniel,
là đồng chủ tịch.
Các thành viên bao gồm Thượng nghị sĩ
John F. Kennedy và Richard Neuberger; Các đại diện Emmanuel Celler và
Edna Kelly; và Angier Biddle Duke, Arthur Schlesinger, Jr., Max Lerner,
nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa Norman Thomas, và thống đốc bang Utah
Bracken bảo thủ "
[ trang 242 ]
Có người cố ý bác-bỏ vai trò của Mỹ trong việc ông Ngô Đình
Diệm về nước nhậm-chức Thủ-Tướng, xem như ông ấy là người của Trời,
tự-nhiên mà lên, không được (mà cũng không cần) hậu-thuẫn gì của Hoa Kỳ.
Thế nhưng:
Theo tiến-sĩ PHẠM VĂN LƯU:
“Sau
khi thảo luận với Ông Foster Dulles (Ngoại-Trưởng Hoa Kỳ), để ông ta
biết ý định ấy,
tôi (Bảo Đại) cho vời Ngô Đình Diệm và bảo ông ta: ... Ông cần phải
lãnh đạo Chính Phủ... (trích hồi ký “Con Rồng Việt Nam” của Bảo Đại).
“Đến
ngày 24 và 25 tháng 5 (năm 1954), theo chỉ thị của Hoa Thịnh Đốn, Đại Sứ
Mỹ tại Ba Lê là Dillon và một số viên chức khác đã đến gặp Ông Diệm để
bàn về việc ông nhận chức vụ Thủ Tướng....”
(trước khi ông Diệm về nước vào khoảng 25-6-1954 và nhậm-chức vào ngày
7-7-1954)
(Trích từ cuốn sách “Biến Cố Chính Trị Việt Nam Hiện Đại – Ngô Đình Diệm
và Bang Giao Việt-Mỹ 1954-1963” của Phạm Văn Lưu, do "Centre for
Vietnamese Studies" ở Melbourne, Bang Victoria, Australia, xuất-bản năm
1994 (trang 57)
Theo ông CHÍNH ĐẠO
(tức Nguyên Vũ, Vũ Ngự Chiêu):
“14/6/1954: PARIS: Diệm gặp Đại sứ Mỹ Douglas Dillon, báo tin sắp được
làm Thủ Tướng... Diệm muốn Mỹ viện trợ nhiều hơn để bảo vệ châu thổ
sông Hồng
(FRUS,
1952-1954, XIII:2:1695-6).”
(Trích từ cuốn sách “Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 (Tập B: 1947-1954)”
của Chính Đạo, do Văn Hóa, Houston, TX, USA, xuất bản năm 1997, trang
392)
Theo ký-giả TÚ GÀN:
VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA
Với một vài nét đại cương chúng tôi vừa trình bày trên, độc giả
cũng có thể nhận thấy rằng người Mỹ đã tốn khá nhiều công sức và tiền
của để xây dựng nên chế độ Ngô Đình Diệm: Từ việc truất phế Bảo Đại, bầu
cử quốc hội, soạn thảo và ban hành hiến pháp, cải cách ruộng đất... đến
việc thành lập một chế độ độc đảng (Cần Lao Nhân Vị Đảng) và cơ quan mật
vụ (Sở Nghiên Cứu Chính Trị)... để có một chính quyền mạnh có thể đương
đầu với cộng sản, các chuyên Hoa Kỳ đã làm việc rất vất vã với chính phủ
Ngô Đình Diệm...
(Xem thêm các mục "Chủ Nghĩa Nhân Vị", "Đảng Cần Lao", v.v...)
Việc thành lập cơ quan mật vụ cho chính phủ Ngô Đình Diệm cũng do
Mỹ đề xướng. Ông Trần Kim Tuyến cho biết chính ông McCarthy, Trưởng trạm
CIA của Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn đã soạn thảo sẵn văn kiện tổ chức rồi
đưa cho ông Nhu và ông Nhu chuyển cho Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống để làm
Sắc Lệnh thành lập “Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội”... Người đầu tiên
làm Giám Đốc là Đốc Phủ Sứ Vũ Tiến Huân, sau đó mới đến ông Trần Kim
Tuyến...
(Trích từ bài viết “Trả lại sự thật cho lịch sử” của Tú Gàn - Saigon Nhỏ
ngày 26.10.2007)
Theo ông THOMAS L. AHERN, JR.
(tác-giả “CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam,
1954-1963” do CIA xuất-bản):
“Qua tài liệu này, lần đầu tiên chúng ta biết được, từ năm
1950 cho đến năm 1956, CIA có hai Sở tình báo ở Sài Gòn: một Sở CIA
Saigon Station nằm dưới sự điều khiển thông thường từ bản doanh CIA ở
Langley, Virginia; Sở kia, có tên là Saigon Military Mission, làm việc
trực tiếp, và chỉ trả lời cho Giám Đốc Trung Ương Tình Báo. Saigon
Military Mission, theo Tài Liệu Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers) được
giải mật trước đây, do đại tá Edward G. Lansdale chỉ huy. Lansdale đến
Sài Gòn tháng 6-1954 (ông Ngô Đình Diệm về nước vào cuối tháng 6.1954)
với hai nhiệm vụ: huấn luyện những toán tình báo Việt Nam để gài lại ở
miền Bắc trước ngày di cư và tập kết hết hạn; và, dùng mọi phương tiện
ngầm (covert action) để giúp tân thủ tướng Ngô Đình Diệm (nhậm chức từ
7-7-1954). Theo tác giả Thomas L. Aherns, chính Giám Đốc CIA Allen
Dulles chỉ định đại tá Lansdale cho điệp vụ ở Sài Gòn và cũng ra lệnh
Lansdale làm việc trực tiếp cho ông. Tác giả Ahern viết, CIA có mặt từ
năm 1950 để giúp đỡ quân đội Pháp xâm nhập và thu thập tin tức tình báo.
Nhưng từ cuối năm 1953, khi thấy tình hình quân sự nguy ngập của Pháp,
Hoa Thịnh Đốn thay đổi nhiệm vụ của CIA Saigon Station: Liên lạc và thu
thập tình báo những thành phần quốc gia để lập một chánh thể chống cộng
trong trường hợp Hoa Kỳ thay thế Pháp. Cùng lúc Hoa Thịnh Đốn gởi thêm
một toán CIA để lo về quân sự, Saigon Military Mission...
CIA and the House of Ngo tiết lộ một số chi tiết ly kỳ như,
CIA liên lạc và làm thân với ông Ngô Đình Nhu từ năm 1951, rất lâu trước
khi Hoa Kỳ liên lạc với ông Diệm. Đầu năm 1954, khi có tin Hoa Kỳ chuẩn
bị đề nghị quốc trưởng Bảo Đại và chánh phủ Pháp giải nhiệm hoàng thân
Bửu Lộc và thay bằng ông Diệm, thì ông Nhu là người đầu tiên CIA gặp để
bàn về liên hệ của Hoa Kỳ đối với thủ tướng tương lai Ngô Đình Diệm.
Tháng 4-1954, một nữ nhân viên Mỹ làm việc ở CIA Saigon Station, thông
thạo tiếng Pháp, quen biết và liên lạc thân thiện với Bà Ngô Đình Nhu.
Từ nữ nhân viên Virginia Spence này, Sở CIA Saigon bắt được nhiều liên
lạc với hầu hết những người thân trong gia đình, hoặc thân cận với Nhà
Ngô.
Tháng 4-1954, CIA ở Hoa Thịnh Đốn gởi Paul Harwood sang làm cố vấn riêng
cho ông Nhu. Tuy là nhân viên CIA, nhưng Harwood đóng vai một nhân viên
Bộ Ngoại Giao, làm việc từ Tòa Đại Sứ. Trong hai năm, Hardwood cố vấn là
làm việc với ông Nhu để xâm nhập và ảnh hưởng đường lối ngoại giao quân
sự của nền đệ nhất VNCH với tổng thống Diệm. Paul Hardwood thân thiện
với gia đình ông bà Nhu đến độ ông ta là người đỡ đầu cho Ngô Đình Lệ
Thủy, ái nữ của ông bà Nhu...”
(Trích từ "CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam,
1954-1963" [Tài liệu mật của CIA về gia đình họ Ngô] của Thomas L.
Ahern, Jr. do Center for the Study of Intelligence (CIA) ấn hành, Nguyễn
Kỳ Phong lược dịch)
Vietnam Statistics - War Costs: Complete Picture Impossible
An article from CQ Almanac 1975
The total cost of the Vietnam War is impossible to determine.
Although the Defense Department reported that the U.S. military share of
the Southeast Asian conflict would total $138.9-billion for the period
1965–76, no figures are available on the exact amount of economic and
military assistance channeled to Vietnam since 1950, when the United
States agreed to give arms aid to the French-sponsored states of
Indochina. Even if a grand total were available, it would only reflect a
part of the true price of the war.
Veterans benefits, for example, were expected to reach a $33-billion
level by 1980. But beyond that year there was uncertainty. Government
estimates placed the eventual cost of benefits above the amount spent by
the Pentagon in Vietnam. The ultimate figure would depend on how many
veterans bought homes with VA mortgages, were hospitalized at government
expense or took advantage of education grants.
And beyond the military expenditures and veterans benefits were the
intangibles that defy cost analysis—lost human lives, disabled bodies,
displaced persons and devastated countrysides.
“The impact of Vietnam is so gigantic and diffuse that no adequate
calculation of all the political, sociological and economic costs can be
made,” said Dennis Mueller of Cornell University in 1970.
Barry Blechman, a senior fellow in foreign policy at the Brookings
Institution, assessed the cost of the war this way:
“The real cost, the most damaging costs are not quantifiable—they are
the effects on attitudes here in this country, on our conceptions, and
the effect these will have on our policies. We have a whole generation
of [young] people who mistrust the government, who won't have anything
to do with the government.”
Military Costs
Although the Pentagon estimated that military expenditures for the
Vietnam war between fiscal 1965 and 1974 amounted to $138,974,000,000,
the department noted that a large portion of that sum would have been
spent in any event. The department prepared another total, called “war
costs only,” that came to $110.7-billion and represented expenditures
that would not otherwise have been made. (Details, box this page.)
To make the Defense Department statistics comprehensible
to the public, James
L. Clayton of the University of Utah made
several comparisons.
The war cost 10 times more than support for all levels of education and
50 times more than was spent for housing and community development
during that same period, Clayton said. The United States spent more
money on Vietnam in 10 years than it spent during the nation's entire
history for public higher education or for police protection.
Government Costs
In 1974, the Library of Congress reported that there had been no
official study of the long-range cost of the Vietnam conflict. The U.S.
Statistical Abstract, however, placed the final government cost at
$352-billion, and private economists double or triple this amount.
Taking the highest estimates, it has been calculated that the United
States could have paid off the mortgage on every home in the nation and
had money left over had there been no Vietnam War. Surprisingly,
Congress had not compiled figures on the total cost of the war as of
April 1975. The House Defense Appropriations Subcommittee, for example,
told a Boston Globe reporter that the figure was “hard to get a
handle on” because of “sloppy bookkeeping” at the outset of the nation's
involvement in Vietnam.
Lost Equipment
The Pentagon, however, has kept accurate records on one cost of the
war—the number of U.S. aircraft lost between 1961 and 1973. A total of
3,699 fixed wing planes were lost in combat or accidents during the
period, while 4,865 helicopters were written off.
Secretary of Defense James
R. Schlesinger in testimony before the
Senate Foreign Relations Committee April 15 estimated the cost of U.S.
equipment in South Vietnam through mid-April as $3-billion to $4-billion
based on original cost figures, although he said much of the equipment
was damaged.
He also estimated that equipment left behind by South Vietnamese forces
during their withdrawal from some southern provinces had cost more than
$800-million. Final accounting, he added, probably would push that
figure above $1-billion.
War Casualties
At least 1.5 million persons including civilians died in the Indochina
conflict. U.S. combat losses totaled 46,463; another 10,355 died from
non-hostile causes. A total of 303,704 were wounded. South Vietnam
battle deaths totaled more than 196,000 and enemy deaths about a
million.
(Box, p. 297)
Figures on American casualties were compiled by the Defense Department.
The South Vietnamese command provides its own and enemy casualty
estimates.
The highest number of combat deaths in U.S. history was recorded in
World War II, when 291,557 were said to have lost their lives. In other
modern conflicts the death toll was recorded as 53,402 in World War I
and 33,629 in the Korean conflict.
The war toll among civilians is much more difficult to estimate.
Statistics are sparse.
The following table, a composite of estimates made by the Agency for
International Development and the Senate Judiciary Subcommittee on
Refugees and Escapees, [1]
indicates some of the war's effect on the civilian population in South
Vietnam. [2]
Year
|
AID Est. War Casualty Hospital Admissions
|
Subcommittee Casualty Est. Including Deaths
|
Subcommittee Death Estimates
|
1965
|
50,000 [2]
|
100,000
|
25,000
|
1966
|
50,000 [2]
|
150,000
|
50,000
|
1967
|
46,774
|
175,000
|
60,000
|
1968
|
80,359
|
300,000
|
100,000
|
1969
|
59,222
|
200,000
|
60,000
|
1970
|
46,247
|
125,000
|
30,000
|
1971
|
38,325
|
100,000
|
25,000
|
1972
|
53,367
|
200,000
|
65,000
|
1973
|
43,218
|
85,000
|
15,000
|
1974
|
41,525
|
3
|
3
|
1975 [4]
|
3,661
|
3
|
3
|
TOTAL
|
512,698
|
1,435,000
|
430,000
|
[1] Report of Senate Judiciary Subcommittee on Refugees
and Escapes, Humanitarian Problems in South Vietnam and
Cambodia: Two Years After the Cease-Fire, Jan. 27, 1975.
|
|||
[2] Figure supplied by Senate Judiciary Subcommittee on
Refugees and Escapees.
|
|||
[3] Estimates not available.
|
|||
[4] 1975 figures through January only.
|
Chronology
United States involvement in Indochina dated back to 1950 when
Washington initiated a program of military assistance to French
Indochina. Following is a chronology of major developments through the
series of Communist victories in Cambodia and South Vietnam in early
1975:
1950
Aug. 10—The first shipload of U.S. arms aid to
pro-French Vietnam arrives.
1954
May 7—Viet Minh overrun French fortress at Dienbienphu.
1955
Feb. 12—First American military advisers are dispatched
by the Eisenhower administration for the purpose of training the South
Vietnamese army.
1961
May 13—President Kennedy orders 100 specially trained
jungle fighters (Special Forces) to South Vietnam.
Dec. 22—Specialist 4 James Davis of Livingston, Tenn.,
killed by Viet Cong; later called by President Johnson “the first
American to fall in defense of our freedom in Vietnam.”
1963
Nov. 1—South Vietnamese President Ngo Dinh Diem and his
brother are assassinated outside of Saigon. One coup d'etat follows
another and weakens the nation's ability to maintain its war effort.
1964
Aug. 2—U.S. destroyers Maddox and C. Turner Joy are
reported attacked by North Vietnamese torpedo boats in the Gulf of
Tonkin.
Aug. 7—Congress approves Gulf of Tonkin resolution
affirming support of “all necessary measures to repel any armed attack
against the forces of the United States…to prevent further
aggression…(and) to assist any member or protocol state of the Southeast
Asia Collective Defense Treaty requesting assistance….” The Senate vote
was 88-2; the House vote was 414-0.
1965
Feb. 7—President Johnson announces joint U.S. and South
Vietnamese air attacks against the North Vietnamese staging areas “in
response to provocation ordered and directed by the Hanoi regime.”
Dec. 24—United States begins bombing moratorium over
North Vietnam.
1966
Jan. 31—Johnson announces that U.S. aircraft have resumed
bombing targets in the North after a 37-day pause.
June 29—United States begins bombing in the immediate
vicinity of Hanoi and Haiphong—considered to be a major escalation of
air war.
1967
Sept. 3—Chief of State Nguyen Van Thieu elected
president of South Vietnam.
1968
Jan. 30—Communist troops start Tet offensive which
escalates into one of the major battles of the war, including attacks on
almost all the capitals of South Vietnam's 44 provinces.
Oct. 31—Johnson announces a complete halt of the
bombing of the North effective Nov. 1.
1969
Jan. 18—Expanded peace talks open in Paris with
representation by the United States, South Vietnam, North Vietnam and
the National Liberation Front (Viet Cong).
June 8—At a conference with Thieu on Midway Island,
Nixon announces the first planned troop withdrawal.
1970
April 30—President Nixon announces incursion by U.S.
and South Vietnamese forces into Cambodia to destroy border area
sanctuaries.
1971
Jan. 13—President signs bill repealing Gulf of Tonkin
Resolution.
Oct. 3—Thieu re-elected president of South Vietnam.
Dec. 26–30—United States carries out the heaviest air
raids on North Vietnam since 1968 in retaliation for Communist buildup
and offensive.
1972
Aug. 12—The last units of U.S. combat troops leave
South Vietnam.
Oct. 26—Presidential
adviser Henry
A. Kissinger announces at a White House
press conference that the United States and North Vietnam are in
substantial agreement on a nine point peace settlement, disclosed
earlier the same day in a Hanoi broadcast.
Nov. 1—In a broadcast marking South Vietnam's National
Day, President Thieu denounces the draft peace agreement as “a surrender
of the South Vietnamese people to the Communists.”
Dec. 4—Kissinger and Le Duc Tho, chief adviser to the
North Vietnamese delegation, resume private peace talks in Paris.
Dec. 13—Kissinger-Tho talks recess with no agreement.
Dec, 16—Kissinger tells White House press conference
that the secret talks in Paris were suspended because Hanoi changed its
position on several points in the agreement negotiated by the two sides.
Dec. 18—U.S. begins heaviest bombing of North Vietnam,
resuming strikes above the 20th Parallel in North Vietnam and mining of
North Vietnamese harbors.
Dec. 30—The White House announces that President Nixon
has ordered an indefinite halt to the bombing above the 20th Parallel in
North Vietnam, and that Kissinger and Tho will resume negotiations in
Paris Jan. 8. Bombing continues in the southern “panhandle” section of
North Vietnam.
1973
Jan. 8—Kissinger and Tho resume private talks.
Jan. 14—Gen, Alexander
M. Haig Jr., Army vice-chief of staff,
travels to Saigon to consult with President Thieu on the progress of the
cease-fire negotiations.
Jan. 16—The White House announces the suspension of
bombing and all other offensive action throughout North Vietnam, citing
“progress” in the Paris negotiations.
Jan. 27—Formal signing of peace agreement in Paris by
U.S., South Vietnam, North Vietnam and Viet Cong's provisional
revolutionary government.
Feb. 12—North Vietnam and Viet Cong begin releasing
U.S. prisoners of war.
March 29—North Vietnam releases the final 67 American
prisoners of war, and the United States withdraws its remaining 2,500
troops from South Vietnam, officially ending American military
involvement in Vietnam.
July 1—President Nixon signs a supplemental
appropriations bill setting an August 15 cutoff date for all U.S. combat
activities in or over Cambodia, Laos, North Vietnam and South Vietnam.
Nov. 7—Congress overrides President Nixon's veto of a
bill limiting to 60 days the president's authority to commit U.S. troops
abroad and permitting Congress to end such a commitment on its own
initiative.
1974
April 16—South Vietnam announces suspension of
political talks with the Viet Cong because of what it calls an
increasing number of truce violations by the Communists.
July 30—Congress votes a $1-billion ceiling on military
aid to Vietnam, $600-million less than requested by the administration.
Aug. 19—President Ford announces plans for an amnesty
program of “earned re-entry” for Vietnam war deserters and
draft-dodgers.
Sept. 18—The last known U.S. prisoner of war in
Indochina, Emmet James Kay, is released in Laos by the Pathet Lao.
1975
Jan. 28—President Ford asks Congress for $522-million
in emergency military aid for South Vietnam and Cambodia.
Feb. 24-March 2—At the request of President Ford, an
eight-member congressional delegation visits Cambodia and South Vietnam
to assess the military and economic situation. On return, the majority
recommends emergency economic aid and military supplies.
March 5—North Vietnamese forces launch major attack in
Central Highlands of South Vietnam.
March 17—South Vietnam begins abandoning eight
provinces—40 per cent of the country—in a retreat that precipitates
refugee flights and panic throughout the country.
April 1—President Lon Nol leaves Cambodia to clear way
for possible negotiations between his successor government and Khmer
Rouge insurgents.
April 8—Army Chief
of Staff Frederick
C. Weyand returns from mission to Saigon
for President Ford and reports that South Vietnam “still has the spirit
and the capability to defeat the North Vietnamese.”
April 9—The White House discloses that former President
Nixon had given South Vietnam private assurances that the U.S. would
“react vigorously” to any major Communist violation of the cease-fire.
April 10—President Ford asks Congress for $722-million
in emergency military aid for South Vietnam and $250-million for
economic and humanitarian aid.
April 16—Cambodian government in Phnom Penh surrenders
to Communist-led Khmer Rouge forces. In Vietnam, American officials
organize evacuation of U.S. citizens from Saigon.
April 21—South
Vietnam President Nguyen Van Thieu resigned from office. In an angry
speech, Thieu accuses the United States of breaking its promises to
support an anti-Communist South Vietnamese government. “The United
States has not respected its promises. It is unfair. It is inhumane. It
is not trustworthy. It is irresponsible,” he declared. According to
Thieu, former President Richard
M. Nixon promised the United States would
always stand ready to help South Vietnam in case the Communists violated
the 1973 peace accord. “…I won a solid pledge…that when and if North
Vietnam renewed its aggression, the United States would actively and
strongly intervene,” Thieu said.
South Vietnam Vice President Tran Van Huong is appointed president by
Thieu, who explained that the U.S. Congress was considering additional
aid for the war-torn nation and he hoped his resignation would favorably
influence the outcome of that debate.
In a televised interview April 21 with three CBS correspondents,
President Ford says that the U.S. government “made no direct request”
that Thieu step down. Asked to reply to Thieu's comment that the United
States had led the South Vietnamese people to their deaths, President
Ford says there were “some public and private commitments” made in
1972-73 whereby the United States promised to try to enforce the Vietnam
peace agreement. “Unfortunately, the Congress in August 1973…took away
from the President the power to move in a military way to enforce the
agreements that were signed in Paris,” Ford says. “I can understand his
[Thieu's] observations.”
The failure of Congress to appropriate $300-million authorized in 1974
for assistance to Vietnam raised doubts in the minds of the South
Vietnamese that the United States would be supplying sufficient military
aid for defense against the North Vietnamese, Ford adds.
“The lack of support certainly had an impact on the decision that
President Thieu made to withdraw precipitously [from northern
provinces]. I don't think he would have withdrawn if the support had
been there….”
April 22—President Thieu's resignation, which U.S.
officials had hoped would lead to a cease-fire and negotiations by the
North Vietnamese and Vietcong, appears to have no impact on enemy
military thrusts.
In Paris and Hanoi, the Hanoi, the Vietnamese Communists say that the
United States must “abandon the Nguyen Van Thieu clique and not just the
person of Nguyen Van Thieu” as a step to a political settlement in South
Vietnam.
April 23—President Ford in a speech at Tulane
University urges the American people to put the Vietnam War behind them
and to avoid recriminations and bitter debate over how the war was lost.
“I ask tonight that we stop refighting the battles and recriminations of
the past,” Ford says. He appeals for “a great national reconciliation”
and for a new effort to regain “the sense of pride that existed before
Vietnam.”
April 28—Gen. Duong Van Minh is sworn in as president
of South Vietnam, replacing Tran Van Huong who had held the office one
week.
The U.S. evacuation of South Vietnamese and Americans continues as
Communist troops shell Tan Son Nhut air base outside Saigon.
Late in the evening, President Ford orders the immediate evacuation of
all Americans from Saigon after the airport is closed by Communist fire
and unruly crowds.
A bill (H J Res 407) to appropriate $165-million in military assistance
to South Vietnam is removed from the House calendar, thus dropping it as
an item to be considered.
April 29—House
Rules Committee member James
J. Delaney (D N.Y.) announces, while the
final evacuation was under way, that he had been instructed by Speaker Carl
Albert (D Okla.) to remove the conference
report on the Vietnam assistance-evacuation bill (HR 6096—H Rept 94–176)
from the calendar.
The evacuation is completed at 7:52 P.M., ending the American presence
in South Vietnam. Ford says the final' withdrawal “closes a chapter in
the American experience.” In the final removal, approximately 1,000
Americans and 5,500 South Vietnamese are ferried by helicopter from
Saigon to waiting U.S. carriers in the South China Sea.” Four U.S.
Marines are killed in the final withdrawal.
Within hours of the announcement in Washington of the completion of the
evacuation, President Minh in Saigon announces the unconditional
surrender of South Vietnam.
April 30—The Senate Foreign Relations Committee orders
reported a bill (S 1541) authorizing $50-million for Cambodian relief.
May 1—After a two-day delay, the House takes up and
rejects by a vote of 162–246 the conference report on HR 6096.
Features
Vietnam War Costs, 1965–75
Following are Defense Department estimates of the cost of the Vietnam
war since fiscal 1965. President Johnson began a massive build-up of
U.S. military strength in Vietnam in 1965, reaching a peak of 536,100
troops in 1968. American military involvement officially ended in March
1973.
The “war costs only” column shows those expenditures which would not
otherwise have been spent on national defense; the “full war costs”
column shows total defense expenditures involved in prosecuting the war
including support equipment and supplies (shells, for example) that
would have been obtained even in peacetime, according to the Defense
Department.
Fiscal Year
|
War Costs Only
|
Full War Costs
|
1965
|
$ 700,000,000
|
$ 700,000,000
|
1966
|
15,119,000,000
|
15,119,000,000
|
1967
|
17,161,000,000
|
22,180,000,000
|
1968
|
19,278,000,000
|
26,266,000,000
|
1969
|
19,762,000,000
|
26,461,000,000
|
1970
|
14,401,000,000
|
18,536,000,000
|
1971
|
9,570,000,000
|
12,062,000,000
|
1972
|
6,982,000,000
|
8,662,000,000
|
1973
|
5,171,000,000
|
5,918,000,000
|
1974
|
1,290,000,000
|
1,540,000,000
|
1975
|
1,281,000,000
|
1,530,000,000
|
Total
|
$110,715,000,000
|
$138,974,000,000
|
SOURCE: Department of Defense
|
U.S. Prisoners and MIAs
In the following table, the total figure for prisoners of war (POWs)
represents the number of prisoners repatriated under the Paris peace
accords. The yearly listings show when the prisoners were captured.
Year
|
POWs
|
MIAs [*]
|
1964
|
3
|
4
|
1965
|
74
|
54
|
1966
|
97
|
204
|
1967
|
179
|
226
|
1968
|
95
|
294
|
1969
|
13
|
176
|
1970
|
12
|
86
|
1971
|
11
|
79
|
1972
|
105
|
209
|
1973
|
2
|
2
|
TOTALS
|
591
|
1,334
|
[*] The Defense Department listed only 851 men missing in
action (MIAs) as of Oct. 31, 1975. The discrepancy between this
figure and the year-by-year total was attributed by the Pentagon
to changes in status of persons originally listed as missing and
later declared dead or returned from captivity.
|
||
SOURCE: Department of Defense
|
The Basic Elements of the Vietnam Agreement
Although it failed in most other respects, the Paris peace accord signed
Jan. 27, 1973, did end 11 years of U.S. fighting in Vietnam—the longest
war in U.S. history. Under its terms, almost 600 American prisoners of
war were released and 25,000 American troops were withdrawn from South
Vietnam. Following are major terms of the Paris agreement:
Military Provisions
Ceasefire
-
Internationally supervised ceasefire throughout South and North Vietnam, effective at 7:00 pm EST, Saturday, Jan. 27, 1973.
American Forces
-
Release within 60 days of all American servicemen and civilians captured and held throughout Indochina, and fullest possible accounting for missing in action.
-
Return of all United States forces and military personnel from South Vietnam within 60 days.
Security of South Vietnam
-
Ban on infiltration of troops and war supplies into South Vietnam.
-
The right to unlimited military replacement aid for the Republic of Vietnam.
-
Respect for the Demilitarized Zone.
-
Reunification only by peaceful means, through negotiation between North and South Vietnam without coercion or annexation.
-
Reduction and demobilization of Communist and government forces in the South.
-
Ban on use of Laotian or Cambodian base areas to encroach on sovereignty and security of South Vietnam.
-
Withdrawal of all foreign troops from Laos and Cambodia.
Political Provisions
-
Joint United States—Democratic Republic of Vietnam statement that the South Vietnamese people have the right to self-determination.
-
The Government of the Republic of Vietnam continues in existence, recognized by the United States, its constitutional structure and leadership intact and unchanged.
-
The right to unlimited economic aid for the Republic of Vietnam.
-
Formation of a non-governmental National Council of National Reconciliation and Concord, operating by unanimity, to organize elections as agreed by the parties and to promote conciliation and implementation of the agreement.
INDOCHINA
-
Reaffirmation of the 1954 and 1962 Geneva agreements on Cambodia and Laos.
-
Respect for the independence, sovereignty, unity, territorial integrity and neutrality of Cambodia and Laos.
-
Ban on infiltration of troops and war supplies into Cambodia and Laos.
-
Ban on use of Laotian and Cambodian base areas to encroach on sovereignty and security of one another and of other countries.
-
Withdrawal of all foreign troops from Laos and Cambodia.
-
In accordance with traditional United States policy, U.S. participation in postwar reconstruction efforts throughout Indochina.
-
With the ending of the war, a new basis for U.S. relations with North Vietnam.
Control and Supervision
-
An International Commission of Control and Supervision, with 1,160 international supervisory personnel, to control and supervise the elections and various military provisions of the agreement.
-
An international conference within 30 days to guarantee the agreement and the ending of the war.
-
Joint military commissions of the parties to implement appropriate provisions of the agreement.
House MIA Committee
The House Sept. 11 passed by a 394-3 vote a resolution (H Res 335)
creating a 10-member select committee to ascertain the fate of U.S.
military and civilian personnel still missing in Southeast Asia. (Vote
385, p. 120-H)
Co-sponsored by 280 members of the House, the resolution also directed
the committee to 1) find out whether there were servicemen still being
held as prisoners and 2) to seek the return of the remains of some
15,000 military personnel known to be dead.
The committee was given a year to complete its investigation, which
would cover North Vietnam, South Vietnam, Laos and Cambodia.
The resolution's sponsor, G.V.
(Sonny) Montgomery (D Miss.), was appointed
chairman of the committee Sept. 15 by Speaker Carl
Albert (Okla.), Montgomery had told the
House that 832 servicemen were still listed as missing in action, and 36
persons were thought to be prisoners of war.
End of ‘Vietnam Era’
The “Vietnam era” officially ended May 7 when President Ford issued a
proclamation terminating the eligibility period for certain wartime
veterans' benefits for those who entered military service during the
period Aug. 5, 1964-May 7, 1975.
Although the proclamation applied only to benefits that were subject to
presidential control, such as burial allowances and death pensions, Ford
at the same time asked Congress to enact legislation also terminating
the eligibility period for G.I. Bill education and training benefits for
those who enlisted after June 30.
“The period between the cessation of hostilities and the termination of
eligibility for wartime veterans' benefits has already extended longer
in the case of Vietnam than for any prior war,” Ford said in a
statement, adding that termination of wartime benefits would “guard the
nation against unwarranted future expenditures and will result in
cumulative savings of $1.5-billion over the next five years after
termination.”
Notes
[1] Report
of Senate Judiciary Subcommittee on Refugees and Escapes, Humanitarian
Problems in South Vietnam and Cambodia: Two Years After the Cease-Fire,
Jan. 27, 1975.
[2] Figure
supplied by Senate Judiciary Subcommittee on Refugees and Escapees.
Document Citation
"Vietnam Statistics - War Costs: Complete Picture Impossible." In CQ Almanac 1975, 31st ed., 301-5. Washington, DC: Congressional Quarterly, 1976. http://library.cqpress.com/cqalmanac /cqal75-1213988.
"Vietnam Statistics - War Costs: Complete Picture Impossible." In CQ Almanac 1975, 31st ed., 301-5. Washington, DC: Congressional Quarterly, 1976. http://library.cqpress.com/cqalmanac
Document ID: cqal75-1213988
Document URL: http://library.cqpress.com/cqalmanac/cqal75-1213988
Document URL: http://library.cqpress.com/cqalmanac/cqal75-1213988
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét