Đầu tháng 2 năm 1971, 17.000 (sau tăng lên 21.000) quân VNCH vượt biên giới với Lào đi theo đường 9 và hướng về trung tâm hậu cần của QĐNDVN tại Tchepone (Xê-pôn) & tấn công vào hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh. Theo luật, quân đội Mỹ (ngoại trừ các đơn vị không quân, pháo binh, và trực thăng) không được phép tham gia.
QLVNCH đã tấn công, tiến đến các vị trí đã định trong kế hoạch. Nhưng không chốt giữ được lâu để thực hiện mục đích ngăn cản sự tiếp tế. QĐNDVN đã dự đoán trước được hướng tiến công nên đã chủ động thực hiện phòng ngự - phản công, gây thiệt hại lớn và ngăn chặn được ý đồ chia cắt của QLVNCH.
Đợt 31/01 - 07/02:
Đây là giai đoạn bên tấn công chuẩn bị hậu cần, chuyển quân. Sở chỉ huy chiến dịch (Quân đoàn 1 QLVNCH) chuyển từ Đà Nẵng tới Đông Hà, chuẩn bị hậu cần để tiếp nhận lực lượng tăng cường từ Sài Gòn. QLVNCH thực hiện các hoạt động nghi binh như thể sắp vượt giới tuyến 17 đánh ra Bắc. Cuối cùng, sở chỉ huy chuyển về đặt tại Khe Sanh.Đầu tháng 2 năm 1971, trên hướng phối hợp đông đường 9 gồm các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa do Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị chỉ huy, từ ngày 1 đến 5 tháng 2 năm 1971, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 27), Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 84 pháo binh) của QĐNDVN tiến công chế áp quân QLVNCH ở khu vực Tân Lâm, Sa Mưu; Tiểu đoàn 3 độc lập tập kích quân QLVNCH ở tây Đầu Mầu, Tiểu đoàn 15 đánh cắt giao thông từ Bồng Kho đi Rào Quán. Trong hai ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1971, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 84 pháo binh) bắn 200 viên đạn pháo các loại vào căn cứ Đông Hà và Sở chỉ huy tiền phương Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH ở điểm cao 241... Trên hướng tây đường 9 bao gồm các khu vực Đồng Hến (Atsaphangthong), Pha Lan (Thaphalanxay), Mường Phìn (Phine) tỉnh Savannakhet của nước Lào, Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) phối hợp với Quân Pathet Lào, trong hai ngày (25 và 26 tháng 1 năm 1971) đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn đặc nhiệm, Binh đoàn GM33 ở Pha Lan.
Ngày 6 tháng 2, Bộ Quốc phòng VC ra quyết định thành lập Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Nam Lào với mật danh "bộ tư lệnh 702". Một lực lượng lớn gồm bộ binh, pháo binh và thiết giáp, phòng không tên lửa được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ tư lệnh mặt trận sẵn sàng đợi lệnh.
Tấn công
Tối 7-2, Tổng thống Mỹ Richard Nixon nhận được bản báo cáo đầu tiên: cuộc tiến quân vượt biên giới Việt – Lào đã tiến hành “theo đúng kế hoạch”, mà không gặp bất kỳ sự cản trở nào.
8 giờ ngày 8 tháng 2 năm 1971, Tống thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mở cuộc tiến công nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Chính quyền Sài Gòn tuyên bố: "Sẽ đón các nhà báo quốc tế tại Tchepone (Xê-pôn)"...
Đầu năm 1971, tình báo Mỹ ước tính lực lượng QĐNDVN tại Căn cứ 604 là 22.000 người, gồm 7.000 lính chiến đấu, 10.000 người trong các đơn vị hậu cần và hỗ trợ, và 5.000 quân Pathet Lào, tất cả nằm dưới sự chỉ huy của Mặt trận 702 mới được thành lập. Đã có nhiều quan điểm khác nhau về phản ứng có thể của QĐNDVN đối với cuộc tấn công. Tướng Abrams tin rằng, không như ở Campuchia, tại các căn cứ ở Lào, QĐNDVN sẽ trụ lại và chiến đấu. Ngay từ ngày 11 tháng 12, ông đã báo cáo với Đô đốc McCain (1911-1981) rằng: các đội hình bộ binh, thiết giáp, và pháo mạnh đã có mặt ở Nam Lào... các tuyến phòng không ghê gớm đã được triển khai... địa hình rừng núi là một trở ngoại bổ sung. Các bãi trống tự nhiên cho trực thăng hạ cánh hiếm và khả năng lớn là đã được phòng thủ chặt chẽ. Các khối lớn các đơn vị chiến đấu đang ở trong vùng lân cận Xê-pôn, và QĐNDVN chắc sẽ bảo vệ các căn cứ và các trung tâm hậu cần của mình trước bất kì hoạt động quân sự nào của Mỹ và đồng minh.
Tuy nhiên, tình báo MACV đã tin rằng cuộc xâm nhập sẽ chỉ bị chống cự nhẹ. Các cuộc không kích chiến thuật và pháo sẽ làm mất tác dụng của số lượng vũ khí phòng không trong khu vực được ước tính là từ 170 đến 200 khẩu, và mối đe dọa từ các đơn vị thiết giáp QĐNDVN được coi là tối thiểu. Khả năng tăng viện của QĐNDVN được xác định là từ hai sư đoàn đóng phía bắc Khu Phi Quân sự sẽ đến sau 14 ngày, và MACV hy vọng rằng các hoạt động nghi binh sẽ giữ chân các đơn vị này trong thời gian xảy ra chiến dịch. Tuy nhiên, khi viện binh của QĐNDVN đến nơi, họ lại không đến từ phía bắc như MACV dự đoán, mà lại từ Căn cứ 611 và thung lũng A Sầu ở phía nam, nơi 8 trung đoàn, tất cả đều có các đợn vị pháo binh hữu cơ, đang ở trong tầm 2 tuần hành quân.
Ngay từ ngày 26 tháng 1, VC đã đang chờ đợi một cuộc tấn công.
Sau các đợt bắn phá dữ dội của hàng chục trận địa pháo gồm hàng trăm khẩu từ 105 mm tới 175 mm bố trí dọc biên giới Việt - Lào trên một chính diện 30 km; và các phi vụ ném bom B-52 dọc hai bên Đường 9 - Nam Lào, cuộc hành quân Lam Sơn - 719 bắt đầu vào ngày 8 tháng 2, khi cánh quân chính của Việt Nam Cộng hòa, lực lượng hiệp đồng thiết giáp/bộ binh gồm 4000 quân thuộc Lữ đoàn 3 Thiết giáp và các Tiểu đoàn 1 và 8 Nhảy dù, tiến về phía Bản Đông theo đường 9 không gặp phản kháng. Để bảo vệ sườn phía bắc, Tiểu đoàn 39 Biệt động quân được không vận tới bãi đáp Ranger North (biệt động quân bắc-North Ranger), còn Tiểu đoàn 21 Biệt động quân tới Ranger South (biệt động quân nam-South Ranger). Các tiền đồn này có nhiệm vụ làm rào cản đối với bất kỳ cuộc tiến quân nào của Quân đội Nhân dân Việt Nam từ phía Bắc vào khu vực xâm nhập của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Cùng thời gian đó, Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù chiếm cứ điểm 30 (Fire Support Base 30), còn sở chỉ huy Lữ 3 Dù cùng Tiểu đoàn 3 Nhảy dù tới cứ điểm 31. Đồng thời, các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh đánh chiếm các bãi đáp Blue, Don, White, và Brown cùng các cứ điểm Hotel, Delta, và Delta 1, che chắn sườn phía nam của đội hình chính.
Nhiệm vụ của đội hình chính là tiến theo thung lũng sông Xê-pôn, một dải đất tương đối bằng phẳng với cây bụi xen lẫn rừng thưa, phía Bắc và phía Nam là núi cao. Gần như ngay lập tức, các trực thăng tiếp vận chịu hỏa lực từ các đỉnh cao, nơi các tay súng VC có thể dùng súng máy và súng cối bắn xuống máy bay. Thêm vào đó, đường 9 xấu đến mức chỉ có xe bánh xích và xe jeep có thể đi được về phía Tây. Điều này đặt gánh nặng tăng viện và hậu cần cho máy bay. Các đơn vị trực thăng trở thành hình thức hậu cần sống còn, một vai trò trở nên ngày càng nguy hiểm do trần mây thấp và hỏa lực phòng không không dứt.
Ngày 10 tháng 2, lực lượng thiết giáp QLVNCH kiểm soát được Đường 9 cho đến Bản Đông, nằm sâu 20km trong địa phận Lào và ở khoảng giữa đường tới Tchepone (Xê-pôn). Đến 11 tháng 2, Bản Đông trở thành căn cứ và là trung tâm chỉ huy chiến dịch. Theo kế hoạch, cần tấn công mạnh để chiếm giữ mục tiêu chính, nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa lại dừng lại ở Bản Đông để chờ lệnh tiến của tướng Lãm. Hai ngày sau, tướng Abrams và Sutherland bay đến sở chỉ huy tiền phương của Hoàng Xuân Lãm tại Đông Hà để đẩy nhanh lịch trình. Nhưng tại cuộc họp, thay vào đó, các tướng đã quyết định đẩy các tiền đồn của Sư đoàn 1 Bộ binh ở phía Nam đường 9 về phía Tây để bảo vệ sườn cho hướng tiến quân theo kế hoạch. Việc chuyển quân này tốn thêm 5 ngày nữa. Trong khi đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tổ chức vây hãm Bản Đông từ nhiều phía, không để cho cánh quân chính của Việt Nam Cộng hòa theo đường 9 tiến lên Tchepone (Xê-pôn).
Tại Washington, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird phủ nhận khẳng định của các nhà báo rằng cuộc tiến công của VNCH đã đình trệ. Tại một cuộc họp báo, Laird tuyên bố rằng A Loui (Bản Đông) chỉ là một điểm tạm dừng để các chỉ huy QLVNCH có cơ hội "quan sát và đánh giá các di chuyển của đối phương.... Chiến dịch đang tiến triển theo kế hoạch."
Về phía QĐNDVN, sáng 9 tháng 2, Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) tăng cường cho Sư đoàn 308 liên tiếp đánh bại 5 đợt tiến công của chiến đoàn đặc nhiệm Dù tại chốt 351 cầu Cha Kỵ, diệt gần hai đại đội. Cùng ngày, tại đường 16, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 88 (Sư đoàn 308) đánh thiệt hại nặng Đại đội 2 (Tiểu đoàn 21 Biệt động quân) bảo vệ an toàn trận địa pháo Làng Sen.
Đêm 11 tháng 2, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 88) và Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 64) tập kích Tiểu đoàn 2 Dù ở bắc Sê Num.
Từ ngày 11 đến 13 tháng 2, Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320) liên tiếp đánh hai trận ở khu vực điểm cao 456 và đồi Không tên, tiêu diệt 3 đại đội của Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 (Lữ đoàn dù 3) chốt giữ căn cứ 31 (điểm cao 543) bắc Bản Đông 7 km. Cùng thời gian này, trên hướng nam và tây Bản Đông, các mũi tiến công của QLVNCH đều bị chặn đánh quyết liệt.
Phản công
Phản ứng của QĐNDVN đối với cuộc xâm nhập phát triển dần dần. Ban đầu Hà Nội tập trung chú ý vào một hoạt động nghi binh cho Hải quân Mỹ thực hiện ở ngoài khơi VNDCCH. Lực lượng này thực hiện tất cả các hoạt động cần thiết cho việc đổ bộ vào một địa điểm chỉ cách thành phố Vinh 20 km. Nhưng sự chú ý này không kéo dài, Binh đoàn 70 QĐNDVN đã lệnh cho 3 sư đoàn 304, 308, và 320 vào vùng chiến sự ở Nam Lào. Sư đoàn 2 cũng đã hành quân từ phía Nam tới phu vực Sê-pôn và bắt đầu tiến về phía đông để đón mối đe dọa của VNCH. Đến đầu tháng 3, QĐNDVN đã có 36.000 quân trong khu vực, gấp rưỡi quân số của VNCH. Trung tuần tháng 2 năm 1971, sau khi chiến dịch mất tính bất ngờ, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Mặt trận Đường 9 - Nam Lào (QĐNDVN) chỉ thị cho các đơn vị trong Binh đoàn 70 trên hướng chủ yếu của chiến dịch chuyển sang tiến công.
Phương pháp mà VC chọn để đánh là: Trước hết, pháo phòng không được sử dụng để cô lập các căn cứ hỏa lực ở phía bắc. Các vị trí vòng ngoài sẽ bị giã suốt ngày đêm bằng pháo, rốc-két, và súng cối. Tuy các căn cứ hỏa lực của QLVNCH được trang bị pháo, nhưng các khẩu pháo của QLVNCH thường dưới tầm các khẩu pháo Liên Xô cỡ 122 mm và 130 mm của QĐNDVN, việc hỗ trợ của không quân thì không hiệu quả do VC ngụy trang kỹ các trận địa pháo. Do vậy các khẩu pháo của VC này chỉ cần đứng một chỗ và nã đạn vào các vị trí này. Vành phòng thủ mà đáng ra đã có thể được thiết lập bằng cách sử dụng B-52 chiến thuật đã bị vô hiệu hóa bởi các chiến thuật đánh gần của VC. Tiếp theo, các cuộc tấn công tập trung bằng bộ binh với yểm trợ bằng pháo và tăng sẽ kết thúc việc đánh chiếm.
Tại hướng bắc Đường 9 - Nam Lào, từ ngày 16 tháng 2, VC đã bắt đầu tấn công các cứ điểm Rangers North và Rangers South. Ngày 19, các cuộc tấn công tập trung vào Ranger North (điểm cao 500) - vị trí do Tiểu đoàn 39 (Liên đoàn 21 Biệt động quân) chiếm giữ. Lực lượng tấn công trên bộ là Trung đoàn 102 Thủ Đô của Sư đoàn 308 và hỗ trợ bởi các xe tăng PT-76 và T-54. Đến chiều ngày 20, tuy có sự hỗ trợ của B-52 và pháo, quân số của Tiểu đoàn 39 đã giảm từ 500 tay súng xuống còn 323, họ và bắt đầu rút về phía Ranger South cách đó 6 km. Đến đêm, chỉ có 109 người đến được Ranger South. Trong nỗ lực hỗ trợ Tiểu đoàn 39, 10 máy bay Mỹ, trong đó có 6 máy bay trực thăng, đã bị bắn rơi. Mỹ ước tính QĐNDVN thương vong khoảng 600 binh sĩ trong trận này.
Ngày 21 tháng 2, đến lượt Ranger South, nơi có 400 quân của VNCH với hơn 100 quân từ Ranger North đến, bị tấn công. Lực lượng này giữ vị trí thêm 2 ngày trước khi tướng Lãm ra lệnh rút về Cứ điểm 30 cách đó 5 km về phía đông nam.
Ngày 23 tháng 2, cứ điểm Hotel 2 ở phía nam Đường 9 bị tấn công dữ dội bằng pháo binh và bộ binh. Hôm sau, lực lượng QLVNCH tại đây rút khỏi cứ điểm.
Từ ngày 26 đến 28 tháng 2, được sự hỗ trợ đắc lực của các đơn vị tại chỗ của Đoàn 559, phối hợp với Sư đoàn 308 và Sư đoàn 320 hoạt động ở hướng bắc, các Sư đoàn 304, 324, 2 ở hướng nam và tây nam Đường 9 chuyển từ chốt chặt sang tiến công, đánh thiệt hại nặng Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Sư đoàn lính thủy đánh bộ QLVNCH, phá tan các đợt "nhảy cóc" lùng sục đánh phá kho tàng.
Căn cứ 31 (điểm cao 543) - vị trí then chốt 2 ở phía bắc là cứ điểm tiếp theo bị đánh chiếm. Căn cứ này đã bị Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320 QĐNDVN), bao vây tiến công từ ngày 21 tháng 4. Hỏa lực phòng không dữ dội của QĐNDVN làm cho việc tăng viện và hậu cần cho căn cứ 31 trở nên bất khả thi. Tướng Dư Quốc Đống, chỉ huy Sư đoàn Dù VNCH khi đó đã lệnh cho các đơn vị của Thiết đoàn 17 từ Bản Đông tiến về phía bắc để tăng cường cho căn cứ. Nhưng lực lượng này đã không bao giờ tới nơi do các mệnh lệnh mâu thuẫn của tướng Lãm và và tướng Đống.
Trong khi đó, bằng chiến thuật vây lấn, từ ngày 21 đến 24 tháng 2, các đơn vị của Trung đoàn 64 QĐNDVN đã lần lượt tiêu diệt các trận địa hỏa lực và trận địa phòng ngự vòng ngoài, cắt đường bộ từ Bản Đông lên căn cứ 31. Trưa 25 tháng 2, bằng trận tiến công hiệp đồng binh chủng, Trung đoàn 64 đã làm chủ căn cứ 31, tiêu diệt Lữ đoàn 3 Dù, bắt sống đại tá Lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Thọ và toàn bộ Ban tham mưu. Lữ đoàn 1 Dù và Lữ đoàn 1 Thiết giáp tại các căn cứ 30 và Bản Đông khi đó cũng đang bị Quân giải phóng tấn công nên đã không thể hỗ trợ. Thiệt hại của QĐNDVN được Mỹ ước tính là 250 người chết, 11 xe tăng PT-76 và T-54 bị diệt. QLVNCH có 155 người chết, 100 bị bắt.
Cứ điểm 30 chỉ trụ được thêm khoảng 1 tuần. Tuy độ dốc của ngọn đồi mà cứ điểm đặt trên đó đã loại trừ khả năng tấn công bằng xe tăng, sự bắn phá của pháo binh QĐNDVN đã rất hiệu lực. Đến ngày 3 tháng 3, 6 khẩu lựu pháo 105 ly và 155 ly của cứ điểm đã bị phá hỏng.
Để cứu trợ cứ điểm 30, Thiết đoàn 17 QLVNCH đã tiến về phía căn cứ này. Xe tăng của QĐNDVN và QLVNCH đã giáp chiến lần đầu trong Chiến tranh Việt Nam tại phía bắc Đường 9. Trong 5 ngày từ 25 tháng 2, khi cứ điểm 31 bị đánh bại, đến 1 tháng 3, 3 trận đánh lớn đã xảy ra, trong đó QLVNCH được sự hỗ trợ của máy bay. Thiệt hại của QĐNDVN theo Hoa Kỳ là 17 xe tăng hạng nhẹ PT-76 và 6 xe T-54 bị bắn cháy. Còn QLVNCH mất 5 xe tăng M-41 và 25 xe bọc thép chở quân (APC).
Đến Tchepone
Ngày 2 tháng 3, Sư đoàn 308 và các Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320), Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) được lệnh tập trung bao vây tiến công tập đoàn cứ điểm Bản Đông. Sư đoàn 2 (Quân khu 5) hoạt động ở hướng nam bao vây kìm chân hai trung đoàn của Sư đoàn 1 bộ binh VNCH, ngăn không cho chi viện Bản Đông. Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) và một số tiểu đoàn của Mặt trận chốt giữ đường 9 giữa Bản Đông và Lao Bảo, quyết chặn không cho QLVNCH chạy thoát.
Trong khi đội hình chính của QLVNCH đang dậm chân tại Bản Đông đã được 3 tuần, còn các đơn vị Dù và Biệt động quân đang chiến đấu để sống sót, Tổng thống Thiệu và tướng Lãm quyết định thực hiện một cuộc tấn công trực thăng vận xuống chính Tchepone (Xê-pôn). Mặc dù các nhà lãnh đạo Mỹ và các phóng viên đã tập trung vào thị trấn bỏ hoang này như là một trong các mục tiêu chính của Lam Sơn 719, nhưng nơi mà hệ thống hậu cần của VC đi qua thực ra lại nằm ở phía Tây của thị trấn bị tàn phá. Tuy nhiên, nếu các lực lượng của VNCH có thể chiếm giữ Xê-pôn thì TT Nguyễn Văn Thiệu sẽ có được một lí do chính trị để tuyên bố "chiến thắng" và rút quân về Nam Việt Nam.
Cuộc tấn công Tchepone này đã giao cho Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH đang chiếm giữ các căn cứ phía nam Đường 9 thực hiện, chứ không phải cho đội hình chính với thiết giáp yểm trợ hiện đang ở Bản Đông, cũng không phải lực lượng Thủy quân lục chiến dự phòng. Điều đó có nghĩa là, trước hết, Thủy quân lục chiến phải được đưa vào thay chân Sư đoàn 1 ở phía nam đường 9, việc này làm chậm thêm quá trình tiến quân. Bộ chỉ huy QLVNCH quyết định đưa thêm đội 2 gồm Lữ đoàn 2 Dù, Trung đoàn 147 và 258 Lính thủy đánh bộ tham chiến.
Cuộc tấn công bắt đầu vào ngày 3 tháng 3, khi các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh được không vận tới 2 căn cứ hỏa lực (Lolo và Sophia) và bãi đổ bộ Liz, tất cả đều ở phía nam Đường 9. 11 chiến trực thăng đã bị bắn rơi và 44 chiến khác bị bắn hỏng khi chở 1 tiểu đoàn tới căn cứ Lolo. Ba ngày sau, 276 trực thăng UH-1 được bảo vệ bởi các máy bay Cobra mang súng và máy bay tiêm kích đã đưa các tiểu đoàn 2 và 3 của Trung đoàn 2 từ Khe Sanh tới Xê-pôn. Đây là cuộc đổ quân bằng trực thăng lớn nhất trong Chiến tranh Việt Nam. Chỉ có 1 trực thăng bị hỏa lực phòng không bắn rơi khi quân đổ xuống bãi đổ bộ Hope, cách Xê-pôn 4 km về phía đông bắc. Trong hai ngày, các đội trinh sát của hai tiểu đoàn này lùng soát Xê-pôn và khu vực xung quanh nhưng không đến gần vùng đồi núi ở phía Tây thị trấn.
QĐNDVN đã phản ứng bằng cách tăng cường bắn phá hàng ngày vào các cứ điểm, đặc biệt là Lolo và Hope.
Trong khi đó, phối hợp với lực lượng tại Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ở hướng đông, từ ngày 5 đến 10 tháng 3, QĐNDVN trên hướng chủ yếu liên tục đánh các lực lượng tiếp viện của QLVNCH đến giải tỏa cho Bản Đông, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 1 (Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH), chia cắt đội hình QLVNCH ở Đường 9 - Bản Đông và các đơn vị bảo vệ hướng nam.
Rút lui
Mục tiêu tại Lào có vẻ như đã đạt được, Tổng thống Thiệu và tướng Lãm ra lệnh rút quân, cuộc rút lui bắt đầu ngày 9 tháng 3 và sẽ kéo dài cho đến hết tháng, phá hủy Căn cứ 604 và các kho hàng gặp trên đường. Tướng Abrams khuyên Nguyễn Văn Thiệu nên tăng cường quân tại Lào để họ tiếp tục gây rối khu vực cho đến khi mùa mưa bắt đầu.
Ngay khi thấy dấu hiệu rằng quân đội Sài Gòn đã bắt đầu rút lui, QĐNDVN tăng cường nỗ lực nhằm tiêu diệt lực lượng này trước khi nó có thể về đến Nam Việt Nam. Hỏa lực phòng không được tăng cường để chặn đứng hoặc làm chậm các nỗ lực hậu cần và sơ tán của trực thăng, các căn cứ hỏa lực thiếu người bị tấn công, và các đơn vị trên bộ của QLVNCH phải đi qua một chuỗi đầy các ổ phục kích suốt dọc Đường 9.
Sáng 16/3, Sư đoàn 2 (VC), được tăng cường Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) thực hiện mệnh lệnh của Tư lệnh chiến dịch tiêu diệt Trung đoàn 1 bộ binh thuộc Sư đoàn 1 VNCH đang bỏ điểm cao 723 chạy về hướng Đông Bắc và lọt vào khu vực phục kích, đội hình đang rối loạn. Sau hai ngày tiến công, Sư đoàn 2 đã tiêu diệt và bắt sống 1.750 lính, diệt gọn Trung đoàn 1 thuộc Sư đoàn 1 VNCH, bắn rơi 50 máy bay các loại, thu hàng trăm súng, pháo, súng cối hạng nặng.
Từ ngày 12 đến 17 tháng 3, các Trung đoàn 36 (Sư đoàn 308), 64 (Sư đoàn 320), 66 (Sư đoàn 304) và các đơn vị hỏa lực xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ của Quân VC đã tiến công dồn dập tập đoàn cứ điểm Bản Đông do lữ đoàn 1 Dù và 2 thiết đoàn đóng giữ. QLVNCH bắt đầu rút khỏi Bản Đông.
Ngày 20 tháng 3, QLVNCH đã hoàn toàn rút khỏi khu vực Bản Đông - nơi đã được chọn làm khu vực đánh trận then chốt. Từng cứ điểm đơn độc bị QĐNDVN tiêu diệt hoặc đánh bại, và mỗi chuyến rút quân đều phải trả giá đắt. Ngày 21 tháng 3 Thủy quân lục chiến tại cứ điểm Delta phía nam Đường 9 bị tấn công dữ dội bằng pháo binh và bộ binh. Trong một cố gắng rút quân không thành, 7 trực thăng bị bắn rơi và 50 chiếc khác bị trúng đạn. Cuối cùng, lực lượng Thủy quân lục chiến tại đây đã liều phá vây và di chuyển đến nơi an toàn tại cứ điểm Hotel rồi cũng nhanh chóng rời bỏ cứ điểm này. Trong khi rút Trung đoàn 2 QLVNCH, 28 trong số 40 trực thăng tham gia đã bị bắn rơi hoặc hư hại.
Trên Đường 9 - Nam Lào, đoạn từ Bản Đông về Lao Bảo, hơn 100 xe tăng, xe thiết giáp QLVNCH bị chặn đánh. Lực lượng tăng thiết giáp này đã mất 60% số xe tăng và một nửa số xe bọc thép (APC), bỏ lại 54 khẩu lựu pháo 105mm và 28 khẩu 155mm. Máy bay Mỹ lại phải phá hủy số xe pháo này để tránh bị VC chiếm và tái sử dụng. Nhiệm vụ bọc hậu trên Đường 9 trước được giao cho Sư đoàn Dù VNCH nay thuộc về Lữ đoàn 1 Thiết giáp.
Khi được tù binh báo rằng trước mặt có 2 trung đoàn QĐNDVN đang mai phục, chỉ huy lữ đoàn, Đại tá Nguyễn Trọng Luật báo cáo cho Tướng Đống. Tư lệnh quân Dù đã điều lực lượng giải tỏa được đoạn đường nhưng lại không báo lại cho Đại tá Luật.
Để tránh bị tiêu diệt trên Đường 9, Đại tá Luật đã lệnh cho đội hình bỏ đường chính khi chỉ còn cách biên giới 5km để đi vào đường mòn trong rừng. Tuy nhiên, con đường mòn lại dẫn đến ngõ cụt bên bờ dốc của sông Xê-pôn, đội hình bị tắc lại ở đây, trong khi QĐNDVN áp sát và tấn công dữ dội từ phía sau. Cuối cùng, hai xe ủi đất (bulldozer) phải được trực thăng cẩu vào để QLVNCH tạo một đoạn sông cạn để lội qua.
Những binh lính sống sót về được Khe Sanh-Việt Nam vào ngày 23 tháng 3. Sau 45 ngày kể từ khi bắt đầu chiến dịch, lực lượng của QLVNCH đã rút hết về được đến Khe Sanh-Việt Nam. Căn cứ tiền phương tại Khe Sanh cũng bị tấn công ngày càng mạnh bởi pháo và đặc công.
Ngày 6 tháng 4 đến lượt căn cứ này bị bỏ lại, các lực lượng của VNCH và Mỹ rút hết, chiến dịch Lam Sơn 719 kết thúc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét