Trận Chiến Thường Đức (Phần 1) / Tác giả: Trương Dưỡng
Vào mùa thu năm 1974, áp lực của Bắc Việt tại Vùng 1 Chiến Thuật gia
tăng khủng khiếp. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã họp các tư lệnh quân, binh chủng bàn
kế hoạch phòng thủ cuối cùng trên toàn quân khu, đặc biệt những điểm “nóng” như
Huế, Chu Lai, và Đà Nẵng. Tại mặt trận Thường Đức, sư đoàn Nhảy Dù thắng lớn
trên đồi 1062. Viên tư lệnh lực lượng Bắc Việt tại Thường Đức đã mất chức vì bị
thiệt hại nặng nề.
Trong suốt năm tháng miệt mài quần thảo với quân Bắc
Việt, các binh sĩ Nhảy Dù chưa từng thấy chiến trường nào mà quân Cộng Sản lại
làm hầm hố vô cùng kiên cố như mặt trận Thường Đức. Những hầm chữ A để chống bom
được đào sâu như những giếng nước, hoặc làm dưới những khe suối được che chở
bằng vách đá và cây rừng cổ thụ. Đường giây điện thoại chằng chịt như mạng lưới
điện thoại ở thành phố Saigon. Mọi sự liên lạc vô tuyến hạn chế để tránh bị quân
đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) phát giác.
Dẫu thế, Phòng Truyền Tin của sư
đoàn Nhảy Dù cũng đã bắt được những mật điện quan trọng của địch và giải hóa
được. Nhờ vậy họ đã biết được kế hoạch điều quân của các lực lượng tham chiến
Bắc Việt tại Thường Đức.
Các chiến sĩ Nhảy Dù đã quần thảo với địch trên
những đỉnh núi cao liên tục hầu như không giây phút ngừng nghỉ. Miền rừng núi
trùng điệp, hiểm trở, và cao chất ngất không làm sờn lòng chiến đấu của họ. Từ
chân núi nhìn lên đỉnh cao vời vợi, người lính Nhảy Dù nghĩ đến sự tiếp vận khó
khăn. Một bịch gạo, một băng đạn, được chuyển vận thật là cả một vấn đề, thật
gay go, gian nan, và khổ cực (phải dùng dây kéo lên). Nhất là nước đâu để có thể
nấu ăn trên những rặng núi cao ngất từng mây.
Năm 1973, sau khi Hiệp Định
Đình Chiến được ký kết tại Paris, chiến cuộc Việt Nam tạm ngưng. Hai sư đoàn
tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) vẫn được lưu giữ tại Quân Khu
1. Lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, Sư Đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía tây, dọc theo hành
lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ 1, từ cây
số 17 ra tới bờ sông Thạch Hãn.
Sư Đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía Đông từ
Quốc Lộ 1 ra đến bờ biển, đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc. Các đơn vị
thuộc sư đoàn Nhảy Dù chiếm những cao địa, tiến sâu vào dãy Trường Sơn gần các
căn cứ Ann (Động Ông Đô), Barbara (đã dành lại được trong cuộc tổng phản công
tái chiếm Quảng Trị). Đây là hai căn cứ chiến thuật chế ngự toàn vùng hành
quân.
Từ cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù) là
trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc Quân Ðoàn 1. Sư Đoàn 1 Bộ Binh (BB) trấn
đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư Ðoàn 22
BB. Cả hai khu vực bắc và nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt Động Quân, Địa
Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Đối đầu với Sư Đoàn Nhảy Dù là Sư
Ðoàn 325 Trị Thiên của Bắc Việt. Tuy danh xưng là Sư Ðoàn Trị Thiên, nhưng thực
ra bộ đội của sư đoàn này rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. Tình hình tổng quát tại
Quân Khu 1 lúc này tương đối yên tĩnh. Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi
trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại vi phạm Hiệp
Định Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng miền Nam bằng võ lực.
Qua các cuộc
trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách vi phạm hiệp định, họ mở cuộc tấn
công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một số thị trấn khác thuộc Quân Khu
3. Thấy Hoa Kỳ không phản ứng gì nhiều, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu tung các đơn
vị chủ lực vào cuộc xâm lược miền Nam Việt Nam.
Cộng Sản Bắc Việt mở mặt
trận lớn đầu tiên tại Quân Đoàn 1 với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị thiện
chiến. Hai sư đoàn 304 và 324 Bắc Việt, cùng các trung đoàn pháo, chiến xa bất
thần đánh chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Là một điểm chiến lược vì
địa thế núi rừng hiểm trở dễ thủ khó công, Thường Đức nằm ở phía tây nam Đà Nẵng
khoảng 50 cây số, và phía tây giáp với Lào, nơi có đường mòn Hồ Chí Minh dùng để
chuyển vận quân dụng tiếp tế cho mặt trận Thường Đức này.
Trong vòng 2
năm, Bắc Việt đã không ngừng tu bổ đường mòn Hồ Chí Minh và biến thành hệ thống
tiếp vận này thành một “xa lộ không đèn.” Mặt đường rộng hơn 10 thước đủ cho xe
xận tải di chuyển cả hai chiều. Ngoài ra Bắc Việt còn lập hệ thống dẫn dầu từ
Bắc vào Nam, đi đến tận thị xã Lộc Ninh ở tỉnh Bình Long. Họ cũng tăng cường
việc chuyển vận bộ đội chính qui, vũ khí, và chiến cụ vào miền Nam gấp nhiều lần
so với lúc trước. Tình hình Quân Khu 1 đổi khác ngay vào cuối năm 1974. Áp lực
địch gia tăng mạnh mẽ ở phía Nam đèo Hải Vân.
SƠ LƯỢC DIỄN
BIẾN
Ngày 8 tháng 8/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn trực thuộc
được di chuyển vào vùng hành quân ở Đại Lộc thuộc Đà Nẵng. Trước đó một ngày,
Tiểu Đoàn 79 Biệt Ðộng Quân (BÐQ) bị Bắc Việt gây áp lực nặng tại vùng trách
nhiệm ở quận lỵ Thường Đức. Ngày 11 tháng 8/1974, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cùng 3 tiểu
đoàn được lệnh di chuyển bằng phi cơ xuống phi trường Đà Nẵng sau khi bàn giao
khu vực trách cho Liên Ðoàn 15 Biệt Động Quân. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đặt
bản doanh tại gần bờ biển Non Nước, phía đông Thành phố Đà Nẵng.
Một dãy
núi cao chạy dài từ sông Vu Gia và Liên Tỉnh Lộ 4 về phía Bắc, những ngọn đồi
thấp ở phía Nam của dãy núi này đã bị Trung Đoàn 29 Cộng Sản Bắc Việt chiếm giữ.
Cho nên, mọi tiếp tế của đơn vị Biệt Động Quân xuyên qua đèo Thường Đức đã bị
ngăn chận. Điểm cao nhất của dãy núi này là 1235 nằm cách Tỉnh Lộ 4 khoảng 6 cây
số về phía Bắc, và đỉnh 1062 ở phía Nam của Ðồi 1235 cách chỉ khoảng 2 cây
số.
Bắc quân đã chiếm đỉnh đồi này để có thể quan sát đoạn đường từ Đại
Lộc đến Thường Đức, và họ đặt tiền sát viên điều chỉnh đại pháo bắn chính xác
vào khu dân cư và các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa ở Đại Lộc. Nhiệm vụ của các đơn
vị Nhảy Dù là phải chiếm đỉnh đồi 1062 và các cao điểm phía Nam tới Tỉnh Lộ 4.
Và để giải tỏa sự hăm dọa tấn công các vùng phía tây Đà Nẵng, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù
được giao phó nhiệm vụ ngăn chận địch xâm nhập vùng quận Hiếu Đức.
Ngày
18 tháng 8/1974, ba tiểu đoàn 1, 8, và 9 nhảy Dù vừa vượt tuyến xuất phát thì đã
chạm súng với những đơn vị thuộc Trung Đoàn 29 Bắc Việt ở phía Đông Đồi 52 (xã
Hà Nha). Chính nơi đây Sư Đoàn 3 Bộ Binh đã phải rút lui chiến thuật do áp lực
địch quá đông đảo và vũ khí tối tân hơn. Sau một tháng đánh nhau với 3 tiểu đoàn
Nhảy Dù, hai bên đều bị thiệt hại nặng nề. Mặt Trận B3 Cộng Sản ra lệnh cho
Trung Ðoàn 31 thuộc Sư Đoàn 2 CSBV tới Thường Đức để tiếp ứng cho Trung Đoàn 66
của Sư Đoàn 304. Như vậy Trung Đoàn 66 có thế giúp đỡ Trung Ðoàn 29, để họ rảnh
tay tấn công các đơn vị Nhảy Dù.
Đầu tháng 9/1974, Trung Đoàn 24 của Sư
Đoàn 304 Cộng Sản Bắc Việt (còn được gọi là sư đoàn Ðiện Biên) cũng nhập vào
trận chiến. Ngày 19 tháng 9/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh
1062. Trong khoảng thời gian hai tuần khi quân đội đã làm chủ ngọn đồi 1062, thì
Bắc Việt cho Trung Đoàn 66 hợp với Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 24 (thiếu quân
số) định dùng số đông để áp đảo Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù.
Vào ngày 2 tháng
10/1974, Tiểu Đoàn 2 và 9 Nhảy Dù đang lục soát ở khu vực quanh đồi 1062 và dãy
Sơn Gà thì họ tìm được khoảng 300 xác bộ đội Bắc Việt trên đỉnh 1062 trong giai
đoạn 1 này. Ngoài ra, họ bắt sống được 7 tù binh thuộc Sư Ðoàn 304.
Suốt
vài tuần sau, các binh sĩ Nhảy Dù đã chống trả rất nhiều các cuộc tấn công của
Sư Ðoàn 304 khi địch quân định chiếm lại đồi 1062. Bởi sự điều khiển phi pháo
chính xác của các sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, nên các đơn vị này vẫn giữ vững đồi
1062 mặc dầu quân Bắc Việt đã pháo kích mãnh liệt và xử dụng chiến thuật biển
người định tràn ngập ngọn đồi này.
Một trường hợp ngẫu nhiên, khi Trung
Ðoàn 24 Bắc Việt đang xâm nhập vào vùng tử địa ở dọc theo đồi 383 và 126 thì bị
hỏa lực tập trung của pháo binh Việt Nam Cộng Hòa đồng loạt khai hỏa. Cuộc pháo
kích này đã gây cho 250 bộ đội miền Bắc bị thiệt mạng.
Tính đến trung
tuần tháng 10/1974, sau gần 2 tháng quần thảo với hai sư đoàn địch quân, Lữ Ðoàn
1 Nhảy Dù (gồm 4 tiểu đoàn tham chiến) đã bị tổn thất vừa chết và bị thương
khoảng 500 binh sĩ. Trong khi đó địch quân bị thiệt mất trên 1,200
người.
Ngày 29 tháng 10 năm 1974, Trung Ðoàn 24 CSBV, sau khi được tái bổ
sung và tái trang bị, đã mở một cuộc tấn công khác vào đỉnh đồi 1062. Họ dùng
súng phóng hỏa đốt cháy dữ dội khiến các lực lượng Dù phải rút khỏi đỉnh đồi
này.
Ghi chú của webmaster: Sau khi đăng tải bài viết Mặt Trận Thường
Đức một thời gian khá lâu, chúng tôi nhận được email của một cựu chiến binh Bắc
Việt. Trong thư, ông cho biết đã từng tham gia trận đánh này từ đầu đến cuối. Và
ông cũng cho biết thêm một ít chi tiết về trận đánh ở Thường Đức. Chúng tôi xin
trích đăng một phần lá thư này cùng quý vị độc giả.
“Tôi là một người
tham gia vào chiến dịch Thượng Đức từ đầu đến cuối, nhưng ở phía bên kia chiến
hào. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy bài viết của ông rất chi tiết về chiến dịch
này. Trong đó ông chưa nêu được vai trò và thành tích của Không Quân VNCH. Họ đã
gây không ít tổn thất, nếu không nói là nặng nề, cho phía chúng tôi trong khi
tấn công căn cứ Thường Đức.
Một chi tiết không chính xác là Không Quân
diệt được xe tăng của chúng tôi là không đúng, vì bên này chẳng có một chiếc xe
tăng nào hết. Biệt Động Quân (Tiểu Đoàn 79) rất đáng khen là họ chiến đấu rất
gan lì và không đầu hàng sau 9 ngày chống cự. Từ trận Dakpek, phía chúng tôi rút
được kinh nghiệm dùng đại bác bắn trực xạ nên các trận chiến đều được áp dụng
lối này, rất có hiệu quả như ông Dưỡng mô tả.
Tôi không đồng ý với ông
Dưỡng là phía Bắc quân luôn dùng chiến thuật biển người. Tấn công Thượng Đức
trực tiếp chỉ có Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304. Một trung đoàn của Sư Đoàn 324
(đã hạ đồn Dakpek) không trực tiếp tấn công, chỉ dàn quân chờ đánh tiếp viện.
Sau khi lấy được Thường Đức, Trung Đoàn 66 thiệt hại 3/4 quân số và sau này là
lược lượng chính tiếp cả 3 lữ đoàn Nhảy Dù. Trong trận lấy lại ngọn 1062 ngày 29
tháng 10 năm 1974, đại đội của tôi chỉ có 27 tay súng đã giành lại
1062.
Trận này, chúng tôi kéo 1 khẩu súng chống tăng 85 mm bắn trực xạ,
súng 14.5 mm phòng không 4 nòng, hạ nòng yểm trợ bộ binh. Khi chiếm được 1062,
chỉ còn 5 người trong đó có tôi, đến ngày 31 tháng 10 đại đội tôi chỉ còn 1
người trên đỉnh 1062.
Tôi đồng ý với ông (tác giả), tới thời điểm này cả
hai phía đã hết “sinh lực.” Nếu như quân Nhảy Dù còn sức, tôi nghĩ các ông có
thể lấy lại Thường Đức. Phía bên này (Bắc Việt) không biết là các ông cũng đã
“hết sinh lực” như ông mô tả, mà nghĩ là quân Dù phải rút đi để hỗ trợ cho Buôn
Mê Thuột vừa bị thất thủ.
Mong chờ bài viết tiếp của ông, và cảm
ơn.
Một cựu chiến-binh Bắc Việt tại mặt trận Thường Đức
Trung Đoàn
66/Sư Đoàn 304
Ngày 1 tháng 11/1974, Ðồi 1062 lại một lần nữa
bị địch chiếm giữ. Trong khi ở bắc Hải Vân, áp lực địch rất nặng vì quân Nhảy Dù
bị rút đi. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng không chấp thuận đề nghị kéo quân Nhảy
Dù về bảo vệ bắc Hải Vân. Ông ra lệnh cho Tướng Lê Quang Lưỡng (tư lệnh Sư Đoàn
Nhảy Dù) phải lấy lại Ðồi 1062 với bất cứ giá nào. Cuộc phản công bắt đầu vào
ngày 8 tháng 11/1974, và chỉ 3 ngày sau, các đơn vị Nhảy Dù đã chiếm lại đồi
1062.
Dẫu cho cuộc dằng co giữa hai bên còn kéo dài thêm vài tuần nữa,
lực lượng Nhảy Dù tiếp tục bung rộng vùng kiểm soát, cuộc chiến đấu đẫm máu nhất
từ ngày ký Hiệp Định Ngừng Bắn coi như chấm dứt. Sư Đoàn Nhảy Dù bị hy sinh gần
500 chiến sĩ, và khoảng 2,000 người bị thương. Phía Bắc Việt chết 2,000 và bị
thương 5,000 (theo tài liệu của William E. LeGro trong Vietnam from Cease-Fire
to Capitulation).
Bảy tiểu đoàn Nhảy Dù đã lâm chiến suốt 3 tháng, và vào
trung tuần tháng 10/1974, sáu tiểu đoàn đã lần lược ngự trị ngọn đồi máu 1062
này. Bắc Việt đã dòm ngó quân Nhảy Dù trên đỉnh 1235, nhưng Tướng Lê Quang Lưỡng
không đủ lực lượng để kiểm soát luôn dãy đồi cao này. Ðồng thời địch quân vì
tiêu hao quá nhiều nên cũng không trở lại tấn công đơn vị thiện chiến này của
Việt Nam Cộng Hòa.
Vào cuối năm 1974, chỉ còn Tiểu Ðoàn 1 và 7 Nhảy Dù ở
lại giữ vùng 1062 này. Họ đặt Bộ Chỉ Huy tại đỉnh Đông Lâm, khoảng 4 cây số phía
Đông 1062. Mùa mưa đến, cả hai bên cần thời gian để chuẩn bị cho mùa khô kế
tiếp.
DIỄN TIẾN CHI TIẾT
Sau đó Bắc Việt lần lượt tấn chiếm các
xã, quận, và căn cứ quân sự của ta ở Quảng Nam, Đà Nẵng, và Quảng Ngãi. Sự việc
mất các đồn lũy xảy ra thường xuyên. Câu nói thông thường lúc bấy giờ là “mất
liên lạc. “Quận A mất liên lạc,” “đồn B mất liên lạc, v.v.” Mất liên lạc cũng
đồng nghĩa với “di tản chiến thuật” hồi trận chiến mùa hè đỏ lửa năm 1972, và
mọi người đều hiểu quân ta đã rút lui và địch đã chiếm mất rồi. Ngay cả khu đồng
bằng Quảng Đà, nơi có bản doanh Quân Đoàn 1 và phi trường lớn Đà Nẵng cũng bị
lay động, lâm nguy.
Quận lỵ Thường Đức bị “mất liên lạc,” phi trường Đà
Nẵng và bản doanh Quân Đoàn 1 thường xuyên bị pháo kích. Các đơn vị địa phương
hầu như bị địch bao vây tấn công tràn ngập và mất liên lạc nhiều nơi. Áp lực
địch nặng nề đến nỗi dân Đại Lộc đã phải gồng gánh, bồng bế nhau chạy ra thị xã
Đà Nẵng.
Ngay khi hay tin Thường Đức bị thất thủ, Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng đã biết rõ ý đồ của địch. Ông cho rằng Bắc Việt định lợi dụng địa thế
hiểm trở chiến lược của vùng rừng núi trùng điệp xung quanh đồi 1062, bày binh
bố trận để cầm chân các đơn vị thiện chiến tổng trừ bị. Do đó Tướng Trưởng đã
cho lệnh di chuyển pháo binh nặng của Quân Đoàn 1, gồm các pháo đội đại bác 175
ly và 155 ly tới Đại Lộc, gần Thường Đức. Ðồng thời ông điều động 2 lữ đoàn Nhảy
Dù (không đủ quân số) vào tăng cường nhằm thanh toán hai sư đoàn chính qui Cộng
Sản Bắc Việt. Đây là trận đánh đẫm máu lớn nhất giữa Việt Nam Cộng Hòa và Bắc
Việt kể từ khi Hiệp Định Paris có hiệu quả vào ngày 27 tháng 1/1973.
Vào
thời điểm 1973-74, biết mình không còn là lực lượng trừ bị để phản ứng khi cần,
tướng Lê Quang Lưỡng đã tâm sự với các sĩ quan tham mưu, “Lực lượng mình đang bị
cầm chân dọc theo dãy Trường Sơn. Bây giờ nếu địch tấn công và chọc thủng phòng
tuyến, tràn theo hành lang sông An Lỗ vào đồng bằng Trị Thiên. Anh em mình chắc
chỉ còn đường ra biển.”
Mối lo không có lực lượng trừ bị là một dằn vật
thường trực với vị tướng tư-lệnh trẻ tuổi này. Quả vậy, đấy chỉ là nói giả dụ
tới việc địch tấn công vào khu vực trách nhiệm của sư đoàn Nhảy Dù thôi. Nếu
địch thọc sâu cắt đứt đèo Hải Vân làm cho nam, bắc Hải Vân không còn tiếp ứng
được cho nhau nữa thì sẽ ra sao? Chắc ước tính của Quân Đoàn 1 là cuộc tấn công
sắp tới của địch sẽ theo trục bắc-nam giống như cuộc tấn công vào mùa hè năm
1972. Do đó, Quân Ðoàn 1 đã dồn nỗ lực đào hầm, đặt chướng ngại vật chống chiến
xa ở bờ Nam sông Mỹ Chánh, chuẩn bị phòng thủ rất chu đáo.
Riêng tướng Lê
Quang Lưỡng và bộ tham mưu sư đoàn Nhảy Dù không đồng ý như vậỵ Cuộc tấn công
lần này của địch chắc không tốn kém, hao tổn sức lực như năm 1972, mà họ chỉ cần
chọc mũi dùi thật lẹ và mạnh từ tây sang đông, cắt đứt khu vực Quân Đoàn 1 làm
đôi ở đèo Hải Vân thì sẽ dụ lực lượng trừ bị tới giải tỏa. Như vậy coi như một
chiến thắng đáng kể của họ rồi.
Với mối lo âu ấy, làm sao có được trong
tay lực lượng trừ bị khá mạnh để có thể phản ứng ngay khi tình hình đòi hỏi? Và
sau đây là kế hoạch để có quân trừ bị của Sư Đoàn Nhảy Dù:
Trương Dưỡng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét