Trận Chiến Thường Đức (Phần 3) / Tác giả: Trương Dưỡng
Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã
tắt hẳn. Hai trung đội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn trung đội đi bên
trái, trung đội Thiếu Úy Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau
khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo Binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên
mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di
chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi 3 giờ trôi qua. Tình hình vẫn yên tỉnh, một thứ im
lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội của mình.
Hệ
thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang thì thầm trong máy:
- Rất gần
địch, tiếng chửi thề của bên đó nghe rõ mồn một, đích thân.
- Được! Cẩn
thận nghe Quang! Thiếu Tá Quý trả lời nho nhỏ trong máy với giọng Huế
chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo Binh ngưng tác
xạ, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa
bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch.
Tiếng của Quang vang trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá
nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân
bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười
lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe
lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sơn pháo 120 ly của địch. Tiếng của
Quang vang lên trong máy:
- Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố
kiên cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang
hét trong máy:
- Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu
tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!
Ban đêm trời tối,
Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy
Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được Bá và 4
binh sĩ đã hy sinh vì mìn claymore (Việt Cộng lấy của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh) ngay từ
lúc đó.
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (tiểu đoàn trưởng) bảo Quý:
- Nếu
thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách
khác.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Sau nầy
mới biết là Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn
Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và hy sinh anh dũng trên mục tiêu D. Đáng phục
thay một binh sĩ can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp và làm tròn bổn phận
núi sông.
Các binh sĩ thuộc hai trung đội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy
Dù đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Từ đỉnh
cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy
Dù ria bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang có gọi Thiếu Tá Quý phải
kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với
quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) một phen vì ta và địch lẫn lộn, không còn cách
chọn lựa nào khác.
Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần
quân bạn. Nhờ vậy các binh sĩ Ðại Ðội 11 được giải tỏa, xác địch và ta nằm ngổn
ngang trên đỉnh đồi 1062.
Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên
ngựa nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực Việt Cộng phủ kín từ D và
1062. Ðại Ðội 14 tổn thất mỗi ngày mà không tiến được bước nào. Pháo Binh Dù
được sử dụng tối đa nhưng địa thế núi cao cây rậm. Bản đồ ghi rõ đỉnh 1062,
nhưng D1 và D2 ở phía Bắc và Đông Bắc trong thực tế còn cao hơn 1062. Vì thế
Pháo Binh phải bắn góc độ cao mới “gõ” vào 1062 được, nhưng với độ chính xác
thật ít.
Hình chụp vào năm 1967 ở quận Đại Lộc, nhìn về hướng ngôi làng từ
nơi đóng quân của TQLC trên Đồi 37. (HÌNH ẢNH: Trung Đoàn 7 TQLC Hoa
Kỳ)
Thiếu Tá Quý lại dùng kế cũ, dương đông kích tây, đẩy Ðại Ðội 11 về
Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp lực Ðại Ðội 14 như trường hợp
đánh mục tiêu C. Nhưng lần này sự việc không như lần trước, Ðại Ðội 11 vừa mới
đến triền núi phía Nam của 1062 thì địch dùng súng cối 82 ly từ góc đồi phía Tây
bắn một cách dữ dội, Ðại Ðội 11 bị hy sinh một tiền sát viên và 4 binh sĩ chưa
kể một số bị thương.
Rạng sáng, sau khi sử dụng Pháo Binh và súng cối 81
ly tối đa tối đa, Ðại Ðội 11 dàn 3 trung đội tấn công 1062 từ chính Nam. Hai bên
quần thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối cùng Ðại Ðội 11 chiếm được đỉnh 1062. Nhưng
chưa đầy 10 phút, quân Bắc Việt đã từ D1 và D2 đồng loạt khai hỏa bằng đủ loại
vũ khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông hào của địch để lại nên cũng
giảm bớt phần nào tổn thất.
Thượng liên Cộng quân bắn liên hồi từ nhiều
vị trí, và sợ nhất là đạn súng cối 61 ly của địch. Ngay đợt pháo đầu Thiếu Úy
Huệ đã bị thương. Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo quần nát từ rậm rạp nay chỉ
còn lại một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung tóe. Ðại Ðội 11 không chịu
nổi phải rút về triền núi phía Nam, Huệ kéo xuống được còn xác Quang bị cháy
thành than như đã nói ở phần trên.
Tổn thất Ðại Ðội 11: Thiếu Úy Quang và
15 binh sĩ hy sinh. Ba mươi bảy (37) bị thương trong đó có Thiếu Úy Huệ và Thiếu
Úy Quách An (sĩ quan Khóa 26 Đà Lạt).
Trong khi đó bên Ðại Ðội 14 cũng cố
gắng xuyên thủng chốt địch trong hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắt tay với Ðại
Ðội 11, nhưng mọi dự tính không thành. Trung Úy Vệ bị thương, Trung Úy Bằng, Ðại
Ðội Phó Ðại Ðội 11 qua thay, hai ngày sau cũng bị tử thương vì lựu đạn địch. Eo
yên ngựa giống như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô
cùng.
Riêng Ðại Ðội 12 của Trung Úy Thọ (sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt) và Ðại
Ðội 15 của Đại Úy Lộc (sĩ quan Khóa 23 Ðà Lạt) đi với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu vẫn
lục soát và làm thành phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị thương do pháo
kích, Trung Úy Khánh (truyền tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm sau, Tiểu
Ðoàn 8 của Thiếu Tá Vân vào thay. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù rút về Hà Nha dưỡng quân
và bổ sung quân số.
Bước tiến quân của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù trong giai
đoạn đầu đến sát chân đồi 1062, bảo vệ sườn phải cho Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù. Sau đó
Thiếu Tá Phú “đen” đến thay thế làm tiểu đoàn phó, Thiếu Tá Quý về đơn vị cũ làm
tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù.
Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù từ Quảng Trị về
nghỉ dưỡng quân và tái trang bị được 2 tuần thì có lệnh đi hành quân trở lại,
vùng hành quân là Thường Đức. Đúng 6 giờ sáng, tại trại Trần Quy Mại, đơn vị
được trang bị đầy đủ cấp số đạn dược, quân trang, quân dụng, lương thực. Những
người lính lên xe GMC ra phi trường Tân Sơn Nhất. Năm chiếc vận-tải cơ C-130 chở
quân đáp xuống phi trường Đà Nẳng độ 12 giờ trưa, và đoàn xe vận tải GMC chở họ
đến quận Đại Lộc.
Trong khi binh sĩ lo nghỉ ngơi, nấu nướng, thì các sĩ
quan từ đại đội trưởng trở lên vào họp khẩn cấp về cuộc hành quân giải tỏa quận
Thường Đức. Sau khi mọi người đứng dậy chào vị chủ tọa là Tướng Lê Quang Lưỡng,
các sĩ quan Phòng 2, Phòng 3, và Phòng 4 thuyết trình chi tiết về cuộc hành
quân.
Tướng Lê Quan Lưỡng trực tiếp ra lệnh các đơn vị:
- Các anh
phải chiếm các cao điểm và đánh bật địch ra khỏi khu vực nầy. Muốn như vậy các
anh phải đánh địch từ đàng sau lưng, hoặc bọc ngang hông để cắt đứt đường tiếp
tế và viện binh.
Ông vừa nói vừa chỉ lên bản đồ hành quân và tấm bảng đen
chỉ rõ rành mạch. Đây là lần đầu tiên các sĩ quan cấp nhỏ được nghe lệnh trực
tiếp từ vị tư lệnh sư đoàn, mọi người đều hiểu rằng cuộc hành quân nầy thật quan
trọng và đầy cam go.
Sau thời gian họp khoảng 45 phút, các binh sĩ Tiểu
Ðoàn 8 tiếp tục lên xe chạy tới điểm xuất phát cách làng Hà Nha độ 1 cây số về
hướng Đông. Lúc đó vào khoảng 5 giờ 30 chiều cùng ngày, Ðại Ðội 83 của Đại Úy
Phạm Văn Hiệu, sĩ quan Khóa 23 Ðà Lạt, được lệnh đánh chiếm Hà Nha. Ðại Ðội 84
của Đại Úy Đồng Văn Minh, sĩ quan Khóa 26 Thủ Ðức đi cánh phải chiếm ngọn đồi
nhỏ ở phía Bắc Hà Nha.
Hiệu cho lệnh Trung Đội 1 của Thiếu Úy Nguyễn Văn
Tiến (tự Tiến Trâu) dẫn đầu, cho tổ khinh binh dọc theo bờ sông di chuyển theo
đội hình chân vẹt yểm trợ cho nhau tiến vào làng. Trung Đội 2 của Thiếu Úy
Nguyễn Văn Thành đi cánh phải kẹp theo Tỉnh Lộ 4 tới dàn quân tại gò mả, sẵn
sàng yểm trợ Trung Đội 1.
Trung Đội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức và Trung Đội
4 của Chuẩn úy Thạch Huôn làm thành phần trừ bị. Lúc mới xuống xe, Hiệu gặp một
tiểu đoàn thuộc Sư Ðoàn 3 Bộ Binh vừa từ Thường Đức đi ra, trong đó có một đại
đội trưởng là Trung Úy Nguyễn Văn Nghĩa, sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt. Hai bạn cùng
Trường Mẹ gặp nhau mừng mừng lo lo, Nghĩa bảo Hiệu:
- Niên Trưởng phải
cẩn thận, địch đông lắm, chúng đang bám sát tụi tôi, chúc “chiến
thắng.”
Trước khi vào mục tiêu, Hiệu nghe máy gọi:
- Đa Hiệu đây
808 (danh hiệu của Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Vân), trả lời.
- Đa
Hiệu (danh hiệu truyền tin của Đại Úy Phạn Văn Hiệu) tôi nghe đích
thân.
- Lệnh trên bảo anh phải thanh toán mục tiêu ngay bây giờ, anh là
“cử nhân binh bị” (Võ Bị 4 năm tương đương bằng cử nhân) không thể chậm trễ đừng
làm mất mặt nghe.
Khi Trung đội 1 vào gần tới bờ làng thì quân Bắc Việt
đồng loạt khai hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả mãnh liệt. Trung Ðội 2 vừa bắn vừa hô
xung phong vang rền làm địch hoảng hốt bỏ chạy. Nhờ đó tổ khinh binh của Tiến
nhảy vào chiếm được bờ làng, Hiệu bảo Thành ngưng tác xạ, và Tiến dẫn toàn bộ
trung đội vào mục tiêu và bung rộng về phía Tây bờ làng.
Sau 40 phút giao
tranh, Ðại Ðội 83 hoàn toàn làm chủ làng Hà Nha. Hiệu cho bố trí và làm hầm hố
phòng địch phản công. Kết quả tịch thu vài súng cá nhân vì quân số địch cỡ một
trung đội, Cộng quân chỉ chống trả yếu vì thấy các binh sĩ Dù đánh giặc hăng hái
và bị nhiều mặt tấn công. Địch tức giận thua trận nên dùng đại bác không giật từ
các cao điểm bên kia bờ sông bắn trực xạ vào làng Hà Nha. Xạ trường quan sát của
địch thật là chính xác, một xe GMC của Sư Đoàn 3 Bộ Binh chạy lộn chiều ngang
qua Ðại Ðội 83, lập tức bị bắn cháy, tài xế may mắn chạy khỏi vô
sự.
Trong khi binh sĩ Ðại Ðội 83 đào hầm hố, gài mìn Claymore, mìn chiếu
sáng, đặt lính gác giặc, Hiệu điều chỉnh hỏa tập cận phòng với sĩ quan tiền sát,
anh cận vệ dọn cơm cho Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi nhà tranh. Hiệu thấy
trời sáng trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông trông thấy, nên bảo dọn vào
nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm thì nghe “đùng” một tiếng, cái bàn gỗ trước nhà bị
nguyên một trái SKZ-57 ly không giật. Hiệu giật mình! Nếu sớm chừng 5 phút thì
nguyên tổ chỉ huy của Ðại Ðội 83 đã bị tan tành.
Sau đó địch khai hỏa tứ
phía, sơn pháo trực xạ từ các đỉnh núi bên kia sông, hỏa tiễn 122 ly, đại bác
130 ly liên tục pháo kích vào làng Hà Nha. Dứt tiếng pháo thì cả tiểu đoàn địch
đồng loạt tấn công biển người vào Đại đội 83.
Nhờ có hố chiến đấu vững
chắc, các binh sĩ Nhảy Dù đã bắn trả mãnh liệt. Hiệu cho súng cối 60 ly bắn yểm
trợ sơ khởi, sĩ quan tiền sát gọi bắn các hỏa tập cận phòng. Thiếu Úy Tiến và
Thành ra lệnh bấm mìn claymore, hàng loạt địch ngã gục, súng đại liên M-60 và
súng cá nhân AR-15 bắn tới tấp.
Hết lớp này tới lớp khác, quân Bắc Việt
cứ nhào tới định lấy thịt đè người tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và Thành
thật can đảm, hai anh ra ngay tuyến ngoài đốc thúc binh sĩ chống cự. Nhưng những
loạt đạn vô tình đã kết liễu đời 2 người hùng của Ðại Ðội 83.
Hiệu điều
động Trung Ðội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức qua trám lỗ hổng, nhưng Sức cũng bị
thương nặng (phải di tản). Chỉ còn Chuẩn úy Thạch Huôn và Đại Úy Hiệu đốc thúc
các binh sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng thì địch rút lui để lại rất nhiều vũ
khí, xác địch và một số ít tù binh.
Cũng nên nhắc lại rằng làng Hà Nha 1
và 2 là những làng rất nghèo nàn, có khoảng 20 căn nhà (nói là nhà nhưng thật ra
đó chỉ là những túp lều tranh nhỏ bé), địa thế trống trải, nên xạ trường quan
sát của địch rất tốt, Cộng quân bắn trực xạ bằng đại bác thật chính xác. Chính
sĩ quan và một số binh sĩ ta đã bị tổn thất vì loại súng trực xạ này.
Ở
làng Hà Nha khoảng 4 ngày, Ðại Ðội 83 được bổ sung hai sĩ quan và một số binh sĩ
mới (trong đó có Thiếu Úy Tiến, Hại Sĩ Hải, và Binh Nhất Châu Văn Lê) để chuẩn
bị làm nỗ lực chính tấn chiếm đỉnh 1062 sắp kể sau đây:
Theo kế hoạch,
Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được điều động lên thay thế Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục
đánh chiếm 1062. Đại Úy Hùng vừa đi học khóa Đại Đội Trưởng ra tăng cường hành
quân. Hùng xuất thân từ gốc Thiếu Sinh Quân, anh rất gan dạ đã sát cánh cùng các
Đại Úy Minh, Hiệu, và Trung Úy Nam từng lập nhiều chiến tích ở các cuộc hành
quân Hạ Lào, Cam Bốt, và An Lộc.
Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Quang
Vân, sĩ quan Khóa 13 Thủ Ðức, cho Đại Ðội 84 của Minh và 83 của Hiệu làm 2 mũi
dùi tấn công sườn phải phía Đông 1062. Chờ phi pháo dập nát đỉnh đồi, rồi trời
vừa chợp sáng Thiếu Tá Vân dẫn Ðại Ðội 81 của Võ Thế Hùng và Ðại Ðội 82, xuất
phát từ chân đèo Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu
là đồi 1062.
Các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ nghiên 70
độ) đồng loạt tiến về mục tiêu là đỉnh đồi 1062. Đứng trên 1062, ta thấy có 5
đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành hình tròn theo thế liên hoàn; mặt hướng về Tỉnh
Lộ 4 thì dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng giàn thung ném một
lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân ta tấn công vào mặt này. Còn các
hướng khác thì có 4 đỉnh nhỏ che chở nên 1062 quả là một địa thế dễ thủ khó
công. Từ Tỉnh Lộ 4 muốn leo lên 1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua
những yên ngựa chập chùng như sóng gợn.
Hai Đại Ðội 83 và 84 do Thiếu Tá
Trần Toán, sĩ quan Khóa 18 Ðà Lạt, chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Ðoàn 9 Nhảy
Dù tới mục tiêu C của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, bọc vòng lên đỉnh cao bên dãy Sơn Gà
để từ mục tiêu C băng qua yên ngựa đánh lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và
82 của Nam lợi dụng đêm tối lén bò lên đánh vào sườn dốc đứng (vì mặt này địch
chỉ phòng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng nầy, vì sẽ làm
mồi cho lựu đạn.
Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho phi pháo
dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh quân trèo lên ngọn 1062,
Ðại Ðội 82 của Trung Úy Hùng “ốm” làm thành phần trừ bị. Đoạn đường gai gốc hiểm
trở. Những binh sĩ Dù dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch đang đang phân
tán phòng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và Hiệu chia từng tổ 3
người bò lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo lên.
Đây
là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết đến với họ bất cứ lúc nào. Nếu
một trái lựu đạn của địch thả trúng, hay bị trượt chân xuống, họ có thể chết tan
xác. Trèo lên vách đá dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi tới miệng hầm,
họ dùng lựu đạn tiêu
diệt các chốt địch.
Những người binh sĩ Nhảy Dù
gan dạ, anh hùng của các Đại Ðội 81, 83, và 84 nầy đã phải tránh được từ 5 đến
hàng chục quả lựu đạn do địch từ trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm được
đồi 1062, họ phải vừa quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm sao để những trái
lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng núi.
Không phải ai cũng
được bình an lên tới đỉnh núi. Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu
Úy Đoàn Tấn và Chuẩn Úy Đến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc
quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân mình che cho đồng
đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn đã tung nổ, khiến hai người bị trúng nhiều
mảnh vào chỗ hiểm. Riêng Trung Úy Thạch và Thiếu Úy Hà Mai Trường, sĩ quan Khóa
26 Ðà Lạt, thuộc Đại Đội 84 của Minh, vì hăng hái leo lên nên cũng bị
thương.
Thiếu Úy Nguyễn Văn Tiến (từ Đại đội 84 chuyển qua bổ sung cho
Tiến “trâu” và Thành vừa hy sinh ở làng Hà Nha) dẫn Trung Ðội 3 của Hiệu đi bọc
phía sau định leo lên mục tiêu D. Bỗng nghe bịt, bịt, bịt, ba trái lựu đạn từ
trên đỉnh 1062 ném xuống mà tịt ngòi không nổ. Nhưng quả thứ tư trúng ngay Tiến,
làm thân hình anh bị tung lên như quả bóng. May nhờ áo giáp nên chỉ bị thương
nặng và được binh sĩ kéo về phía sau và phải di tản.
“Cái giá” để chiếm
được đồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các
chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng,
thảm nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Đồng, quân số hao hụt gần 50 phần
trăm.
Để biết rõ chi tiết trận chiến, chúng ta hãy theo một đơn vị cấp
đại đội (Ðại Ðội 83) làm cách nào để đánh chiếm đồi 1062:
Hiệu dẫn đại
đội xuyên qua Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Ðại Ðội 11 của
Đại Úy Trần Văn Thể. Thể bảo Hiệu:
- Sư Ðoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn
thận vì địch có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.
Trên trục tiến quân có rất
nhiều chướng ngại vật, cây cối um tùm, và địch đã gài nhiều mìn bẫy. Cộng quân
dùng giàn ná phóng mỗi lần hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng.
Địch cũng bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo, vì thế các Ðại Ðội 81 (cánh
trái), Ðại Ðội 84 (cánh phải), cùng Ðại Ðội 83 đã thử đột kích đêm nhưng không
kết quả.
Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và liệng lựu đạn chày
xuống làm những chốt đóng gần bị thương hằng ngày. Quân số các đại đội cứ hao
hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Vân thường gọi máy đốc thúc nhưng vì địa thế quá hiểm
trở nên các đại đội cứ dậm chân tại chỗ.
Ngày N+4 (sau 4 ngày thay Tiểu
Ðoàn 1 Nhảy Dù), vì không thể theo đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng
ban ngày địch không chú ý, Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông thủy giữa
2 đỉnh 1062 và đồi Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền quân Ðại Ðội 83 tiến còn
cách 1062 khoảng 50 thước thì địch nghe động nhưng không phát giác là có nguyên
đại đội. Cộng quân bắn dọa (vì không ngờ quân ta dám leo dốc cao) xuống thung
lũng với thượng liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các tản đá lớn 2 bên sườn núi che
chở, và đồng thời các Ðại Ðội 81, Ðại Ðội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải phân
tán mỏng để phòng thủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét